TÌNH HUYNH ĐỆ VÀ TÌNH BẰNG HỮU XÃ HỘI

Antonio Spadaro, SJ.
La Civiltà Cattolica

WGPQN (18.10.2022) - Tám năm sau khi đắc cử, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ra một thông điệp mới chứa đựng nhiều bài giáo lý của ngài trước đó (x. Fratelli Tutti, 5).[1]

Khi Đức Phanxicô bắt đầu triều giáo hoàng, ý tưởng đầu tiên của ngài là “tình huynh đệ”. Ngài đã gật đầu trước công chúng đang tụ họp tại quảng trường thánh Phêrô và khẳng định về mối tương quan giữa giám mục và giáo dân như là “con đường huynh đệ”, nói lên mong ước: “Chúng ta hãy luôn luôn cầu nguyện cho nhau, hãy luôn cầu nguyện cho toàn thể thế giới trở nên một tình huynh đệ cao cả.”[2]

Tựa đề của thông điệp này là một lời trích được tiếp từ những lời khuyên của thánh Phanxicô Assisi. Nó nhắm đến một tình huynh đệ không chỉ mở rộng đến nhân loại, mà còn với trái đất này, trong sự hòa hợp hoàn toàn với thông điệp Laudato Si’.[3]

Tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội

Fratelli Tutti đề cập đến cả tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội. Cả hai điều này là sự điệp trọng tâm của thông điệp. Chủ nghĩa hiện thực xuyên suốt các trang thông điệp làm tan biến bất cứ sự trống rỗng lãng mạn nào luôn luôn rình rập mỗi khi chúng ta nói về tình huynh đệ. Đối với Đức Thánh Cha, tình huynh đệ không chỉ là một cảm xúc, một tình cảm hay một ý tưởng – cho dù cao quý đến đâu, mà thật sự còn bao hàm một kết quả, một hành động (tự do hành động): “Tôi có thể là anh em của ai?”

Vì vậy, tình huynh đệ được hiểu như là đảo ngược tâm lý khải huyền đang thịnh hành, một cách tiếp cận thực tại đang chống lại thế giới, tin rằng nó đối lập với Thiên Chúa, có nghĩa là thần tượng. Cho nên, cần phải tiêu diệt nó càng sớm càng tốt để mau đến thời cùng tận. Đối mặt với vực sâu khải huyền, không còn anh chị em nữa, chỉ còn những kẻ bội giáo hoặc các vị tử đạo. Tuy nhiên, chúng ta không phải là các chiến binh hay những kẻ bội giáo, tất cả chúng ta là anh chị em.

Tình huynh đệ không đốt cháy thời gian cũng không làm mù mắt và linh hồn. Thay vào đó, nó chiếm lĩnh thời gian, cần có thời gian cho một cuộc tranh cãi và hòa giải. Tình huynh đệ dùng tận thế để đốt cháy thời gian. Nó đòi hỏi thời gian buồn chán. Ganh ghét là cảm xúc thuần túy. Tình huynh đệ là thứ làm cân bằng những người khác biệt. Nó tiết kiệm thời gian chính trị, hòa giải, gặp gỡ, xây dựng xã hội dân sự và quan tâm. Chủ nghĩa cơ bản sẽ xóa sổ nó như một trò chơi video.

Đó là lý do tại sao vào ngày 4 tháng 2 năm 2019 tại Abu Dhabi, Đức Phanxico và Aḥmad al-Tayyeb, đại Imam của al-Azhar, đã ký một tuyên ngôn lịch sử về tình huynh đệ. Hai nhà lãnh đạo tôn giáo đã nhìn nhận nhau là huynh đệ và cố gắng có cùng cái nhìn về thế giới hôm nay. Vậy, hai nhà lãnh đạo đã hiểu điều gì? Họ hiểu rằng giải pháp thật sự duy nhất có thể bất chấp và kiềm chế giải pháp tận thế là tình huynh đệ. Thật cần thiết phải tái phám phá lời Phúc Âm mạnh mẽ này, được bắt nguồn từ lời kêu gào của Cách Mạng Pháp, nhưng trật tự hậu cách mạng đã bỏ rơi cho đến khi bị loại bỏ khỏi từ điển kinh tế chính trị. Nó đã được thay thế bằng một từ yếu hơn: tình đoàn kết, xuất hiện 22 lần ít hơn so với tình huynh đệ xuất hiện 44 lần trong Fratelli Tutti. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã viết trong một sứ điệp rằng: “Trong khi tình đoàn kết là nguyên tắc xây dựng xã hội làm cho không công bằng thành công bằng, tình huynh đệ cho phép công bằng ôm trọn những con người khác nhau.”[4]

Nhìn nhận tình huynh đệ sẽ làm thay đổi quan điểm của chúng ta, làm đảo lộn chúng. Đây là một sứ điệp mạnh mẽ về giá trị chính trị. Tất cả chúng ta đều là anh chị em, vì vậy, tất cả mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Dưới cái bóng của quyền và nghĩa vụ mọi người đều hưởng công lý.

Vì vậy, tình huynh đệ là nền tảng vững chắc để sống “tình thân xã hội”. Đức Phanxicô phát biểu tại Havana năm 2015 đã gợi nhắc rằng ngài đã một lần viếng thăm khu nghèo nhất ở Buenos Aires. Cha xứ của họ đã giới thiệu một nhóm bạn trẻ đang xây dựng một vài tòa nhà: “Đây là kiến trúc sư, là người Dothái, là người cộng sản, là người Công giáo thực hành, là…” Đức Thánh Cha bình luận rằng tất cả họ đều khác nhau, nhưng họ đều làm việc với nhau vì công ích. Ngài gọi thái độ này là “tình bằng hữu xã hội”, biết cách kết hợp quyền với bổn phận vì công ích, sự đa dạng với việc nhìn nhận tình huynh đệ cội nguồn.

Tình huynh đệ không biên giới

Fratelli Tutti mở ra việc gợi lên một tình huynh đệ cởi mở cho phép mỗi người được nhìn nhận, có giá trị và được yêu thương bất chấp sự gần gũi thể lý vượt ra khỏi nơi mà họ được sinh ra và đang sống trên thế giới. Lòng trung thành với Thiên Chúa luôn luôn tỉ lệ thuận với tình yêu thương tha nhân. Tỉ lệ này là tiêu chuẩn cơ bản của thông điệp này: bạn không thể nói bạn yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu thương anh chị em mình. “Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).[5]

Ngay từ đầu, thông điệp này làm sáng tỏ bằng cách nào mà thánh Phanxicô Assisi mở rộng tình huynh đệ không chỉ đối với con người - đặc biệt là những người bị bỏ rơi, ốm đau, bệnh tật, bất hạnh ra khỏi quê quán, quốc gia, màu da và tôn giáo, mà còn đối với mặt trời, biển và gió (x. các số 1-3). Vì vậy, viễn cảnh này là toàn cầu và phổ quát. Và vì vậy, đây cũng là sự phóng khoáng của các trang thông điệp của Đức Phanxicô.

Thông điệp này không thể tách rời khỏi sự bùng phát bất ngờ của đại dịch Covid-19. Đức Thánh Cha viết rằng, vượt ra ngoài những phản ứng khác nhau bởi các quốc gia khác nhau, không có khả năng làm việc chung đã xuất hiện cho dẫu chúng ta có thể tự hào về siêu nối kết. Ngài viết: “Nhờ trời, rốt cuộc, chúng ta không còn suy nghĩ kiểu ‘bọn chúng’, ‘bọn nó’, mà chỉ còn là ‘chúng ta’” (FT, 35).

Sự phân rã giữa cá nhân và cộng đồng

Bước đầu tiên mà Đức Phanxicô thực hiện là biên soạn một hiện tượng học về các trào lưu thế giới hiện nay không thuận lợi cho việc phát triển tình huynh đệ phổ quát. Bước khởi đầu này của sự phân tích của Đức Bergoglio thường là - nếu không phải luôn luôn – những gì ngài học được từ các bài Linh Thao của thánh Inhaxiô Loyola, mời gọi chúng ta cầu nguyện, hình dung cách Thiên Chúa nhìn thế giới này.[6]

Đức Thánh Cha quan sát thế giới và có ấn tượng chung rằng một cuộc phân rã thực sự đang phát triển giữa cá nhân và cộng đồng nhân loại (x. số 30). Đó là một thế giới không học hỏi được gì từ những thảm kịch của thế kỷ 20, cái mà không có cảm thức lịch sử (x. số 13). Dường như có một sự thụt lùi. Giữa những xung đột và chủ nghĩa dân tộc, nhận thức xã hội đã mất đi (x. số 11) và công ích dường như là thứ ít chung nhất về hàng hóa. Chúng ta đơn độc trong một thế giới toàn cầu hóa và cá nhân thắng thế hơn chiều kích cộng đồng của sinh tồn (x. số 12). Mọi người đóng vai trò khách hàng hoặc khán giả, và kẻ mạnh nhất được ưu ái.

Vì vậy, Đức Thánh Cha xếp các mảnh ghép với nhau để minh họa những vở kịch của thời đại chúng ta. Miếng ghép đầu tiên là chính trị. Trong vở kịch này, những từ vĩ đại như dân chủ, tự do, công lý và hiệp nhất đã mất đi ý nghĩa đầy đủ của nó và ý thức lịch sử, tư tưởng phê phán, đấu tranh vì công lý và những cách thức hội nhập đã biến mất (x. các số 14 và 110).

Nhận định của Đức Phanxicô về tình trạng chính trị hiện nay đôi khi rất khắt khe: “chính trị không còn là cuộc thảo luận lành mạnh liên quan đến những kế hoạch dài hạn nhằm cải thiện điều kiện dân sinh và gia tăng thiện ích chung nhưng chỉ là các mánh khóe của thị trường, nhắm đến kết quả tức thời hòng tìm cách hữu hiệu nhất để triệt hạ người khác” (FT 15).

Mảnh ghép thứ hai là văn hóa vứt bỏ. Khi bị giảm thiểu vào thị trường, chính trị thúc đẩy việc loại bỏ toàn cầu và thứ văn hóa xuất phát từ nó (x. các số 19 – 20).

Bức tranh tiếp tục bao gồm việc tôn trọng nhân quyền, đấy là điều tiên quyết trong việc phát triển kinh tế và xã hội của một quốc gia (x. số 22).

Mảnh ghép thứ tư là đoạn quan trọng dành riêng cho vấn đề di dân. Nếu quyền không di cư phải được tái khẳng định, thì đúng là não trạng bài ngoại quên rằng những người di cư phải là tác nhân chính trong việc tự nâng mình dậy. Họ bị xem như “kém giá trị, kém quan trọng và kém nhân văn.” Vì vậy, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng: “Đối với các Kitô hữu, não trạng và lối hành xử như vậy là điều không thể chấp nhận được” (số 39).

Và, miếng ghép thứ năm là những mối nguy mà truyền thông hôm nay gây nên. Với những nối kết kỹ thuật số, khoảng cách được rút ngắn, nhưng thái độ khép kín và bất khoan dung lớn mạnh tạo nên những “cảnh tượng” được mang vào đời sống bởi các phong trào hận thù. Thay vào đó, chúng ta cần “những cử chỉ thể lý, những biểu cảm trên khuôn mặt, những khoảnh khắc thinh lặng, ngôn ngữ cơ thể, kể cả mùi hương, tay run, mặt đỏ, mồ hôi đổ…, vì tất cả những tiểu tiết này đều nói lên điều gì đó và là một phần trong giao tiếp giữa con người với nhau” (số 43).

Tuy nhiên, Đức Thánh Cha không tự giới hạn mình khi đưa ra một mô tả khô khan về thực tế và bi kịch thời đại chúng ta. Những nô tả của ngài là một bài đọc đắm chìm trong tinh thần tham dự và đức tin. Tập chú vào chiều kích xã hội, chính trị và văn hóa, quan điểm của ngài bám rễ vào thần học. Việc giảm thiểu chủ nghĩa cá nhân nổi lên ở đây là hậu quả của tội lỗi.

Kẻ ngoài cuộc đang trên đường

Bất chấp những bóng đen được mô tả trong các trang của thông điệp này, Đức Phanxicô muốn nêu lên những nẻo đường hy vọng nói với chúng ta về một khát khao viên mãn, một khát vọng lấp đầy trái tim và nâng cao tinh thần hướng tới những thực tại cao cả (x. các số 54 – 55).

Trong một nỗ lực tìm kiếm một tia sáng và đưa ra những con đường hành động, Đức Phanxicô dành riêng một chương nói về dụ ngôn Người Samari nhân hậu (x. các số 63 – 68). Lắng nghe Lời Chúa là bước đi nền tảng để phân định bi kịch thời đại chúng ta một cách Tin Mừng và tìm những phương cách giải quyết.

Vì vậy, người Samari nhân hậu trở thành khuôn mẫu xã hội và dân sự. Đón nhận hay khướt từ kẻ bị thương bên lề đường định rõ tất cả các dự án kinh tế, chính trị, xã hội và tôn giáo. Thật vậy, Đức Thánh Cha không dừng lại ở cấp độ lựa chọn các nhân, nhưng ngài dự doán hai lựa chọn này ở cấp độ chính sách nhà nước. Và dĩ nhiên, ngài hướng về cấp độ cá nhân vì lo sợ rằng nhiều người có thể cảm thấy bị loại trừ hoặc không có trách nhiệm.

Tư duy và tạo ra một thế giới hiếu khách: một cái nhìn toàn diện

Bước thứ ba mà Đức Phanxicô thể hiện trong lộ trình của ngài là đưa chúng đến với những gì chúng ta có thể định nghĩa là “vượt khỏi”; có nghĩa là “nhu cầu vượt quá chính mình”. Nếu màn kịch được mô tả trong chương đầu là sự cô đọc của người tiêu dùng bị bao bọc bởi chủ nghĩa cá nhân và sự thụ động của người khán giả, chúng ta phải tìm một lối thoát ra.

Vì vậy, điều cơ bản là không ai có thể trải nghiệm những giá trị cuộc sống nếu không có những khuôn mặt cụ thể để yêu thương. Đây là một bí mật về sự tồn tại đích thực của con người (x. FT 86). Tình yêu tạo ra những nhịp cầu và mở rộng sự tồn tại. Nhưng, việc thoát ra khỏi chính mình này không dừng lại ở mối tương quan với một nhóm nhỏ hoặc các tương quan trong gia đình; thật không thể hiểu chính mình nếu thiếu đi một mạng lưới liên hệ rộng rãi hơn với người khác làm cho chúng ta phong phú hơn (x. FT 88 – 91).

Tình yêu mở ra cho “sự vượt khỏi” và “lòng hiếu khách” là nền tảng cho hành động mà khả dĩ thiết lập tình thân xã hội và tình huynh đệ. Tình thân xã hội và tình huynh đệ không loại trừ nhưng đón nhận toàn bộ. Chúng không quá chú trọng đến những đặc điểm thể lý hay đạo đức, hoặc như Đức Thánh Cha viết, các nhóm dân tộc, xã hội và văn hóa (x. FT 95). Tình trạng căng thẳng này hướng đến một “hiệp thông hoàn vũ” hoặc “một cộng đồng những anh chị em biết đón nhận và chăm sóc cho nhau” (FT 96). Sự cởi mở này mang khía cạnh địa lý, nhưng thậm chí khía cạnh tồn vong.

Tuy nhiên, ở giai đoạn này, chính Đức Thánh Cha nhận thấy mối hiểm nguy về một sai lầm, về chủ nghĩa phổ quát sai lạc của những ai không yêu dân tộc mình. Đó cũng là một nguy cơ mạnh mẽ của một chủ nghĩa phổ quát độc đoán và trừu tượng nhắm đến đồng nhất hóa, tiêu chuẩn hóa và thống trị. Bảo về sự khác biệt là tiêu chuẩn của tình huynh đệ chân chính mà không đồng nhất, nhưng đón nhận và khẳng định những khác biệt, làm chúng có giá trị. Chúng ta là anh chị em bởi vì cùng một lúc chúng ta bình đẳng và khác biệt. Chúng ta cần giải phóng chính mình khỏi cảm giác rằng chúng ta phải như nhau.”[7]

Tầm quan trọng của chủ nghĩa đa phương

Đức Thánh Cha kêu gọi một cuộc thay đổi tận căn về nhận thức không chỉ ở cấp độ liên vị và quốc gia, mà còn những mối quan hệ quốc tế, đó là điều chắc chắn về mục đích phổ quát liên quan đến các của cải trên trái đất. Nhận thức này làm thay đổi bức tranh toàn cảnh và “chúng ta có thể khẳng định rằng vì không được khước từ quyền hưởng dùng tài nguyên trên lãnh thổ đối với những người túng quẫn đến từ nơi khác, nên mỗi quốc gia cũng thuộc về người nước ngoài” ( FT 124).

Đức Thánh Cha nói tiếp rằng điều này cũng phỏng đoán một cách khác để thấu hiểu các mối quan hệ quốc tế. Vì vậy, sự lôi cuốn về tầm quan trọng của chủ nghĩa đa phương rất rõ ràng với sự lên án thực sự về các tiếp cận song phương mà các cường quốc và các doanh nghiệp lớn dùng để giao dịch với các nước nhỏ hơn hoặc nghèo hơn để kiếm lợi nhuận lớn hơn (x. FT 153). Điều chính yếu là “ý thức mình có trách nhiệm về sự yếu kém của người khác trong khi theo đuổi xây dựng một vận mệnh chung” (số 115). Quan tâm đến người yếu kém là điểm mấu chốt của thông điệp này.

Một con tim mở ra với toàn thế giới

Đức Phanxicô cũng nói về những thách đố mà chúng ta phải đối mặt đến nỗi tình huynh đệ không chỉ ở lại nơi ý tưởng mà còn ở nơi xác thịt.

Đầu tiên là vấn đề di dân, được phát triển xung quanh 4 động từ: đón tiếp, bảo vệ, thăng tiến và làm cho hội nhập. Thật vậy, “đây không phải là các chương trình trợ giúp từ trên xuống, mà là cùng nhau đảm nhận cuộc hành trình thông qua bốn hành động này” (số 129).

Đức Phanxicô đưa ra những chỉ dẫn rất chính xác (x. số 130). Cụ thể là ngài tập chú vào chủ để về quyền công dân như nó được nêu trong Văn Kiện Về Tình Huynh Đệ Con Người Vì Hòa Bình Thế Giới Và Chung Sống được ký kết tại Abu Dhabi (04/02/2019). Nói đến quyền công dân là chống lại ý tưởng “thiểu số”, thứ mang trong mình mầm mống chủ nghĩa bộ tộc và sự thù địch, và thấy mặt mạ kẻ thù trên khuôn mặt của tha nhân. Cách tiếp cận của Đức Thánh Cha có tính chất phá vỡ những thần học chính trị tận thế đang lan rộng.

Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh một thực tế rằng sự xuất hiện của những người đến từ bối cảnh văn hóa và cảnh đời khác nhau thật sự là một món quà cho những ai tiếp đón họ; và cũng là một cuộc gặp gỡ giữa con người và các nền văn hóa tạo nên cơ hội làm giàu và phát triển. Điều này có thể xảy ra nếu người được phép là chính mình.

Tiêu chí chỉ đạo của bài diễn thuyết luôn luôn giống nhau: nâng cao nhận thức rằng hoặc chúng ta tự cứu mình hoặc không ai làm. Bất kỳ thái độ “triệt tiêu” và chủ nghĩa cô lập đều là trở ngại cho sự phong phú hơn cho cuộc gặp gỡ.

Chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa tự do

Đức Thánh Cha tiếp tục thông điệp của mình bằng việc dành riêng một chương nói về chính trị tốt nhất, chúng được đặt lên để phục vụ thiện ích chung đích thực (x. số 154). Và ở đây, ngài đối diện trực tiếp với vấn đề về sự đối đầu giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa dân túy, thứ mà dùng những người yếu thế, “dân”, trong cách mị dân. Đức Phanxicô muốn làm sáng tỏ một sự hiểu lầm bằng cách dùng một trích dẫn rộng rãi trong một cuộc phỏng vấn nhân dịp công bố những tác phẩm của ngài lúc ngài làm tổng giám mục Buenos Aires. Nó được thuật lại toàn bộ ở đây vì tầm quan trọng của nó:

“‘Dân’ không phải là một phạm trù luận lý học, cũng không phải là một phạm trù huyền nghiệm, nếu qua những từ đó chúng ta muốn nói rằng mọi sự dân làm đều tốt, hoặc cho rằng người dân là thực tại ‘thiên thần’. Đúng hơn, đó là một phạm trù huyền thoại […]. Khi bạn muốn giải nghĩa thế nào là một dân tộc, bạn dùng các phạm trù luận lý để giải thích, bởi vì bạn phải làm như thế. Nhưng nếu theo cách đó bạn sẽ không thể giải thích được ý nghĩa việc thuộc về một dân tộc. Khái niệm ‘dân’ có ý nghĩa sâu xa hơn, không thể trình bày bằng ngôn ngữ luận lý. Thuộc về một dân là tham dự vào căn tính chung phát sinh từ các mối liên kết xã hội và văn hóa. Và đó không phải là cái gì có tính tự động, nhưng là một quá trình chậm chạp và khó khăn… tiến tới một dự phóng chung” (số 158).[8]

Vì vậy, phạm trù thần thoại này chỉ ra khả năng lãnh đạo làm hài lòng người dân bằng các tính năng động văn hóa của mình và các xu thế lớn quan trọng trong xã hội hướng đến việc phục vụ thiện ích chung; hoặc nó có thể chỉ ra sự thoái hóa khi một người nào đó thay đổi khả năng thu hút sự đồng thuận nhằm thắng cử và công cụ hóa một cách lý tưởng nền văn hóa dân tộc nhằm phục vụ dự án cá nhân của chính mình (x. số 159).

Chúng ta cũng không nên nhấn mạnh phạm trù thần thoại của dân tộc như thể nó là một biểu hiện lãng mạn mà vì thế chúng ta chối bỏ nó để ủng hộ những cách diễn tả cụ thể hơn, có tính thể chế liên quan đến tổ chức xã hội, khoa học và các thể chế xã hội dân sự.

Điều hợp nhất cả hai chiều kích thần thoại và định chế là lòng bác ái, ngụ ý về một con đường thay đổi lịch sử nhằm kết hợp mọi thứ: định chế, pháp luật, kỹ thuật, kinh nghiệm, giám định chuyên môn, phân tích khoa học, thủ tục hành chính. Sự thật thì tình xóm giềng là một thực tế.

Vì vậy, để giải quyết các vấn đề, cần phải phát triển tinh thần huynh đệ và sự  tổ chức hiệu quả nhất. Hai điều này hoàn toàn không đối nghịch nhau. Nó có thể đạt được mà không cần phải tưởng tượng rằng có một công thức kinh tế có thể áp dụng đồng đều cho tất cả. Ngay cả những nghiên cứu khoa học nghiêm ngặt nhất cũng có thể đề xuất các hướng hành động khác nhau (x. các số 164 -165).

Các phòng trào bình dân đại chúng và các định chế quốc tế

Trong bối cảnh này Đức Thánh Cha nói về các phong trào bình dân đại chúng và các định chế quốc tế. Chúng dường như là hai cấp độ tổ chức đối lập và khác nhau, nhưng cuối cùng chúng hội tụ về sự điêu luyện của nó bởi vì họ xem trọng địa phương, cá nhân, toàn cầu, người khác và luôn luôn dưới lá cờ chủ nghĩa đa phương.
Các phong phào bình dân đại chúng “vốn liên kết những người thất nghiệp, người lao động thời vụ và không chính thức cùng với biết bao người không dễ tìm được việc làm trong các cơ cấu hiện hành” (số 169). Với những phong trào này chúng ta đánh bại “ý tưởng coi các chính sách xã hội như chính sách nhắm vào người nghèo, chứ không hề là các chính sách với người nghèo và của người nghèo, lại càng không nằm trong dự án liên kết mọi người” (ibid).

Vì vậy, Đức Phanxicô dừng lại ở các thể chế quốc tế mà ngày nay suy yếu dần vì chiều kích kinh tế tài chính xuyên quốc gia có xu hướng chiếm ưu thế hơn chính trị. Ở trong các tổ chức quốc tế, Liên Hiệp Quốc cần phải được cải tổ nhằm ngăn chặn nó bị bất hợp pháp và “nhằm mang lại tính xác thực cụ thể cho ý niệm về gia đình các dân tộc” (số 173). Tổ chức này có nhiệm vụ cỗ võ thượng tôn pháp luật, bởi vì “công lý là điều kiện thiết yếu để đạt được lý tưởng huynh đệ phổ quát” (ibid).

Nền chính trị tốt nhất không phụ thuộc vào kinh tế

Và rồi, Đức Phanxicô tập chú sâu sắc vào chính trị. Ngài nhiều lần phàn nàn về mức độ phụ thuộc vào nền kinh tế, và điều này đối với các mô thức kỹ trị chạy theo hiệu quả. Ngược lại, kinh tế nên có tầm nhìn rộng lớn để nền kinh tế hội nhập vào một dự án chính trị, xã hội, văn hóa và đại chúng nhắm tới lợi ích chung (x. các số 177 và 17).

Tình huynh đệ và tình thân xã hội không được tìm thấy trong những điều không tưởng trừu tượng. Chúng đòi hỏi sự quyết định và khả năng tìm ra những đường hướng nhằm đảm bảo khả năng thực sự của chúng. Và điều này là việc thực thi đức ái cao cả (số 180). Do đó, tình yêu thương diễn tả chính nó không chỉ là những mối quan hệ gần gũi, mà còn những mối quan hệ xã hội, kinh tế và chính trị. Đây là điều mà Đức Thánh Cha gọi là “tình yêu thương mang tính xã hội” (x. số 186).

Đức bác ai chính trị này bao hàm sự trưởng thành của một ý thức xã hội nhờ đó “mỗi chúng ta hoàn toàn là một con người khi chúng ta thuộc về một dân tộc, đồng thời chẳng có dân tộc thực sự nào lại không tôn trọng tính cách riêng của các cá nhân” (số 182). Tóm lại, “dân tộc” và “con người” là các thuật ngữ có tương quan với nhau (ibid).

Tình yêu thương mang tính xã hội và lòng bác ái chính trị cũng được diễn tả trong sự mở ra hoàn toàn cho sự đương đầu và đối thoại với tất cả, thậm chí những người đối lập chính trị, vì công ích nhằm có thể đạt được ít ra một số vấn đề nhất định. Không cần sợ hãi xung đột xảy ra bởi những khác biệt, đặc biệt vì “sự đồng nhất cũng là nguyên nhân gây ngột ngạt và suy đồi văn hoá” (số 191). Và, chúng ta có thể sống điều này nếu các nhà chính trị không ngừng xem mình là con người được mời gọi sống tình yêu trong những mối tương giao liên vị hằng ngày (x. số 193) và nếu họ biết cách sống dịu dàng. Điều liên kết giữa chính trị với sự dịu dàng xem ra chưa có tiền lệ, nhưng thật sự có hiệu quả bởi vì sự dịu dàng là “tình yêu trở nên gần gũi và cụ thể” (số 194).  Trong hoạt động chính trị, những người yếu đuối nhất phải gợi lên trong ta tâm tình dịu dàng và có quyền chiếm hữu tâm hồn và con tim chúng ta (ibid).

Đối thoại và văn hóa gặp gỡ

Đức Phanxicô tóm lược một vài động từ được sử dụng trong thông điệp này bằng một chữ: đối thoại. Ngài viết: “Trong một xã hội đa nguyên, không phải sự đồng thuận nhất thời, mà chính đối thoại mới là con đường thích hợp nhất dẫn đến việc nhận ra những gì phải luôn được khẳng định và tôn trọng (số 211).

Một lần nữa, có một cái nhìn đặc biệt về tình thân xã hội được tạo nên bởi sự gặp gỡ thường xuyên của những khác biệt. Ngài nhấn mạnh rằng đây là thời đại đối thoại. Mọi người trao đổi thông điệp trên mạng xã hội. Chẳng hạn, đối thoại hay bị nhầm lẫn với việc sôi nổi trao đổi ý kiến, nhưng thực tế, nó là một cuộc độc thoại mà tính chất công kích chiếm ưu thế. Ngài lưu ý sâu sắc rằng đây là phong cách dường như thịnh hành trong bối cảnh chính trị, từ đó phản ánh trực tiếp đời sống hằng ngày của con người (x. các số 200 – 202).

“Việc đối thoại xã hội đích thực giả thiết khả năng tôn trọng quan điểm của người khác, chấp nhận rằng quan điểm ấy chứa đựng những xác tín hoặc mối quan tâm chính đáng” (số 203).[9] Xét cho cùng, đây là động lực của tình huynh đệ, đặc tính sống còn của nó, mà nó “giúp tương đối hóa các ý tưởng, ít nhất là theo nghĩa đành phải chấp nhận sự thật rằng một cuộc xung đột nảy sinh từ sự khác biệt về quan điểm và ý kiến sẽ chiếm ưu thế hoàn toàn so với tình huynh đệ.”[10]

Hãy làm sáng tỏ điều này: đối thoại không có nghĩa là thuyết tương đối. Khi Đức Phanxicô viết xong thông điệp Laudato Sí, ngài khẳng định rằng nếu những gì được kể đến không là các chân lý khách quan và các nguyên tắc vững chắc, nhưng thỏa mãn ước muốn cá nhân và nhu cầu tức thời thì luật pháp sẽ chỉ được hiểu như  những áp đặt độc đoán hay những chướng ngại phải tránh mà thôi. Việc tìm kiếm những giá trị cao quý nhất luôn luôn hiện hữu (x. các số 206 – 210).

Vì vậy, gặp gỡ và đối thoại trở thành một “nét văn hóa gặp gỡ”; nó nói lên khát vọng của một người nhằm làm gì đó cho hết mọi người. Nó không tốt cho chính nó, nhưng là một cách đạt tới lợi ích chung (x. các số 216 – 221).

Những lộ trình dẫn tới một cuộc gặp gỡ mới: xung đột và giao hòa

Vì thế, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi rằng một nền tảng vững chắc cho các cuộc gặp gỡ phải được thiết lập và các tiến trình chữa lành nên bắt đầu. Một cuộc gặp gỡ không thể được thiết lập dựa trên ngoại giao rỗng tuếch, lời nói nước đôi, sự che giấu, những lối cư xử chẳng đáng kể,… Chỉ có  sự thật của các biến cố mới có thể làm nảy sinh nỗ lực hiểu biết lẫn nhau và tìm kiếm một tổng hợp vì thiện ích của tất cả mọi người (x. các số 225-226).

Đức Thánh Cha tin rằng việc hòa giải đích thực thì không lẩn tránh xung đột, nhưng đạt được trong chính xung đột, vượt qua xung đột nhờ đối thoại và không nghi ngờ, chân thành và thương lượng cách kiên trì (x. số 244).

Mặc khác, tha thứ không tước mất quyền lợi của một người trước một kẻ lạm dụng quyền lực, một tên tội phạm hoặc kẻ làm mất phẩm giá chúng ta. Cần phải bảo vệ quyền lợi của con người một cách mạnh mẽ và gìn giữ phẩm giá con người (x. số 241).

Trước tiên, chúng ta không được đánh mất ký ức về những sai lầm lớn của lịch sử: “chúng ta rất dễ bị cám dỗ lật sang trang mới khi cho rằng những điều đó đã xảy ra lâu rồi và chúng ta phải hướng đến tương lai. Vì Chúa, xin đừng làm vậy! Không thể tiến bước nếu không nhớ lại quá khứ” (số 249).

Chiến tranh và án tử hình

Trong phần này, Đức Thánh Cha xem xét hai tình huống cực đoan mà được người ta xem như là giải pháp cho các tình thế đặc biệt bi thảm: chiến tranh và án tử hình. Ngài rất rõ ràng trong cách giải quyết hai vấn đề này.

Đối với vấn đề chiến tranh, ngài nói rằng thật không may chiến tranh không phải là bóng ma của quá khứ nhưng đã trở thành mối đe dọa thường xuyên. Vì vậy, cần phải nói rõ rằng “chiến tranh là sự phủ định tất cả các quyền và là cuộc tấn công gây thảm hại cho môi trường” (số 257).

Ngài cũng đề cấp đến lập trường của Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nói về khả năng phòng vệ chính đáng bởi lực lượng quân đội được dự liệu nhưng với giả định phải chứng minh là có điều kiện chặt chẽ của tính chính đáng xét về mặt luân lý. Tuy nhiên, ngài nói rằng người ta rất dễ rơi vào việc giải thích quá rộng quyền có thể tự vệ này. Ngày nay, việc phát triển vũ khí hạt nhân, hóa học và sinh học và chưa kể đến các công nghệ mới với những ứng dụng rộng khắp, chiến tranh đã có được sức mạnh hủy diệt không thể kiểm soát, gây hậu quả tàn khốc cho bao dân thường vô tội (số 258). Vì vậy, Đức Thánh Cha kết luận rằng: “chúng ta không còn được phép nghĩ rằng chiến tranh là một giải pháp, bởi vì những tác hại do nó gây ra chắc hẳn bao giờ cũng lớn hơn lợi ích giả định được gán cho nó. Trước thực tế này, ngày nay rất khó dựa vào các tiêu chí hữu lý, đã được suy nghĩ thấu đáo trong các thế kỷ trước, để nói về khả năng gây ra một ‘cuộc chiến tranh chính đáng’. Đừng bao giờ gây chiến nữa!” (ibid).

Việc đối phó với mối đe dọa của vũ khí hạt nhân và các hình thức hủy diệt hàng loạt phải là việc chung và được phối hợp dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Một lần nữa ngài đề nghị rằng “với nguồn tài chính đổ vào vũ khí và các chi tiêu quân sự khác, chúng ta hãy thành lập một ngân quỹ toàn cầu để dứt khoát xóa bỏ nạn đói và giúp cho công cuộc phát triển ở các nước nghèo nhất; có như thế, người dân ở đó mới không phải tìm đến các giải pháp bạo lực hoặc gian dối và cũng không cần phải rời bỏ đất nước mình đi tìm một cuộc sống xứng đáng hơn ở nơi khác” (số 262).

Về vấn đề án tử hình, ngài lấy tư tưởng của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong số 56 của thông điệp Tin Mừng Sự Sống (Evangelium Vitae): “án tử hình là không thỏa đáng xét theo quan điểm luân lý và không còn cần thiết xét theo quan điểm hình luật.” Đức Phanxicô cũng dựa vào các học giả như Lactantius, Đức Giáo Hoàng Nicôla I và thánh Augustinô ngay từ những thế kỷ đầu của Giáo Hội đã chống lại án tử hình. Ngài nói rõ rằng “không thể chấp nhận án tử hình” (số 263) và Giáo Hội quyết tâm đề nghị bãi bỏ án tử hình trên toàn thế giới. Bản án cũng mở rộng đến án tù chung thân. Án chung thân được xem như “một án tử hình kín đáo” (x. 268).

Các tôn giáo phục vụ tình huynh đệ trong thế giới

Phần cuối bức thông điệp nói về các tôn giáo và vai trò của chúng trong việc phục vụ tình huynh đệ. Các tôn giáo thu thập kinh nghiệm và sự khôn ngoan qua hàng thế kỷ, vì vậy, các tôn giáo phải tham dự vào các cuộc tranh luận công khai cũng như cả chính trị và khoa học (x. FT 275). Vì lý do này, Giáo Hội không giới hạn mình chỉ ở lãnh vực riêng tư; cụ thể rằng “đúng là các các giáo sĩ không nên tham gia vào chính trị đảng phái vốn là lĩnh vực riêng của hàng giáo dân, nhưng các giáo sĩ cũng không thể khước từ chiều kích chính trị của cuộc hiện sinh” (số 276). Do đó, Giáo Hội có vai trò xã hội nhằm thúc đẩy tình huynh đệ phổ quát (ibid).

Đối với các Kitô hữu, suối nguồn nhân phẩm và tình huynh đệ nằm trong Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô từ đó làm nảy sinh cả trong tư tưởng lẫn hành động mục vụ, tầm quan trọng nền tảng của mối liên hệ, của cuộc gặp gỡ, của hiệp thông phổ quát với toàn thể nhân loại (x. FT 277). “Bằng quyền năng của Chúa phục sinh”, Giáo Hội “muốn hạ sinh một thế giới mới, nơi tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau, nơi có chỗ cho tất cả những ai bị xã hội loại bỏ, nơi công lý và hòa bình rực rỡ ánh huy hoàng” (số 278).

Lời kêu gọi cho hòa bình và tình huynh đệ

Thông điệp Fratelli Tutti khép lại với một lời kêu gọi và hai lời cầu nguyện nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa và người đón nhận.

Thật vậy, lời kêu gọi là một đoạn trích dẫn từ tài liệu trước đó được ký giữa Đức Thánh Cha Phanxicô và Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb tại Abu Dhabi, liên quan đến việc quả quyết rằng: “các tôn giáo không bao giờ cổ võ chiến tranh, không kích động lòng hờn căm, sự thù địch và chủ nghĩa cực đoan, cũng không xúi giục bạo lực hoặc đổ máu. Những tai ách này là hậu quả của sự sai trệch khỏi giáo huấn tôn giáo. Chúng phát xuất từ sự thao túng chính trị của các tôn giáo và từ những diễn giải của các nhóm người trong tôn giáo” (số 285).

Trong số các tài liệu tham khảo cho thông điệp này, chúng ta chú ý rằng Đức Thánh Cha đặc biệt chọn Chân phước Charles de Foucauld, “sau cùng, ngài muốn được là ‘người anh em của mọi người’. Tuy nhiên, chỉ bằng cách tự đồng hóa với người nhỏ bé nhất, ngài mới trở thành người anh em của hết mọi người” (số 287). Đối với Đức Thánh Cha, tình huynh đệ là không gian đích thực cho Nước Thiên Chúa, trong đó Chúa Thánh Thần đến, cư ngụ và hoạt động.[11]

“ … cũng vậy, Philadelphia, thành phố của những người anh em, sẽ trị vì”

Sau khi đọc thông điệp Fratelli Tutti, cố gắng nhấn mạnh những chủ đề nền tảng, tôi muốn khẳng định bằng cách trích dẫn một nhà văn Argentina Leopoldo Marechal, người hiểu rõ Đức Phanxicô và đã nói về ngài khi tôi phỏng vấn năm 2013.

Leopoldo Marechal mô tả “Philadelphia, thành phố của những người anh em” trong kiệt tác Adàn Buenosayres, một tác phẩm kể về một chuyến đi ba ngày mang tính biểu tượng của nhà thơ Adàn trong phạm vi địa lý của một Buenos Aires siêu hình. Người ta đặc biệt nhận ra sự ảnh hưởng nhà thơ Dante trong cuốn thứ bảy của tiểu thuyết Viaje a la Oscura Ciudad de Cacodelphia, một tác phẩm nhại rõ ràng về Hỏa ngục.

Tuy nhiên, chúng ta hãy đến Philadelphia; Marechal viết rằng “thành phố vươn lên những mái vòm và những tháp chuông dưới bầu trời rực sáng như khuôn mặt một đứa trẻ. Như hoa hồng giữa các loài hoa, như vàng oanh giữa các loài chim, như vàng giữa các kim loại, Philadelphia – thành phố của những người anh em, sẽ trị vì giữa các thành phố trên thế giới. Một đám đông dân chúng bình an và hạnh phúc sẽ bước đi trên những nẻo đường: người mù được thấy ánh sáng, ai từ chối sẽ khẳng định cái họ từ chối, kẻ tha hương sẽ bước đi trên đất quê hương, kẻ bị kết án cuối cùng sẽ được giải thoát.”[12]

Leopoldo Marechal viết như hoa hồng giữa các loài hoa vì vậy thành phố của những người anh em sẽ trị vì những thành phố trên thế giới. Và với thông điệp này, Đức Phanxicô nhắm thẳng đến Nước Thiên Chúa trị đến. Khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha, lời kinh tỏ cho chúng ta thấy tất cả là anh chị em bởi vì tất cả chúng ta là con cùng một Cha. Ý nghĩa của Nước Thiên Chúa là khả năng của người Kitô hữu biết làm cho tin mừng của Phúc Âm sẵn sàng như là nguồn cứu độ và viên mãn cho toàn thể nhân loại, cho cả người nam lẫn người nữ không loại trừ một ai. Trong trường hợp này, đó là Tin Mừng của tình huynh đệ. 

 Lm. Gioan Baotixita Nguyễn Kim Ngân
chuyển ngữ từ La Civiltà Cattolica

Nguồn: gpquinhon.org (18.10.2022)


[1] Các tham chiếu trong Thông điệp này được ghi chú bằng số đoạn ở trong ngoặc.

[2] PHANXICÔ, Lời Chào Đầu Tiên, 13 – 03 – 2013.

[3] Có nhiều người lên tiếng nói liên quan đến việc sử dụng từ ngữ giống đực “anh em” mặc dù Đức Thánh Cha đã chọn không nói đến người nữ. Rõ ràng, tựa đề của thông điệp là một trích dẫn từ thánh Phanxicô Assisi và vì vậy cần phải trung thành với bản gốc. Nhưng, không có nghĩa loại trừ ở đây. Thật vậy, chúng ta có thể để ý gần đây tại Pháp trong một quan điểm về bản sửa đổi hiến pháp sắp tới, Cao Ủy Về Bình Đẳng Nam Nữ đã đề nghị từ thay thế chữ “adelphité”  bằng “fraternité” (tình huynh đệ) nguyên gốc từ tiếng Hy-Lạp nhưng nó không có nhiều nghĩa rộng giống đực riêng biệt. Nhằm tránh dùng một từ mới, những người còn lại đơn giản đề nghị chữ “solidarity” (tình đoàn kết). Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy sự yếu ớt trong lựa chọn này. Xem J. L. NARVAJA, “Libertà, uguaglianza, fraternità” (tự do, công bằng, tình huynh đệ), trong Civiltà Cattolica 2018 II 394-399.

[4] PHANXICÔ, Bức Thư Gửi Giáo Sư Margaret ArcherPresident of the Pontifical Academy of Social Sciences, April 24, 2017.

[5] Chủ đề này xảy ra liên tục trong suốt triều giáo hoàng của Đức Phanxicô và trong những lời dạy của ngài. Một vài trang làm ví dụ: trong Tông huấn Amoris Laetitia: “Thiên Chúa vốn ban cho gia đình công việc ‘gia hóa (domesticate) thế giới và giúp mỗi người coi người đồng loại của mình như anh chị em” (số 183). Trong Gaudete et Exsultate, “Nói cách khác, giữa một rừng dày đặc các mệnh lệnh và quy tắc, Chúa Giêsu soi tỏ mối lối đường giúp nhìn thấy hai khuôn mặt, đó là khuôn mặt Chúa Cha và khuôn mặt của người anh em. Người không trao thêm cho chúng ta hai công thức hay hai điều răn. Người trao cho chúng ta hai khuôn mặt, hay đúng hơn, chỉ một mà thôi: đó là khuôn mặt của Thiên Chúa được phản chiếu nơi nhiều khuôn mặt khác. Vì nơi mỗi anh chị em mình, đặc biệt là những người bé mọn, yếu đuối, cô thế và những người túng thiếu, chúng ta gặp thấy chính hình ảnh Thiên Chúa” (số 61). Trong Christus Vivit: “Các con cứ chạy, vì ‘được Tôn Nhan đáng yêu thu hút, Đấng mà chúng ta tôn thờ trong Thánh Thể và nhận ra Ngài nơi thân mình của những anh chị em đang đau khổ” (số 299). Trong thông điệp Laudato Sí, chủ đề này lập lại. Chẳng hạn, môn đệ của thánh Phanxicô Assisi là thánh Bônaventura nói với chúng ta rằng: “Từ suy tư về nguồn cội của mọi sự, với lòng thành kính tràn đầy, Ngài có thể gọi các loài thụ tạo, bất kể nhỏ bé cỡ nào, bằng cái tên là ‘anh’ hay ‘chị’” (số 11).

[6] X. IGNATIUS of LOYOLA, Linh Thao, các số 103-106.

[7] PHANXICÔ, Tông Huấn Amoris Laetitia, số 139.

[8] A. SPADARO, “Le orme di un pastore. Una conversazione con Papa Francesco”, in J. M. Bergoglio/Papa Francesco, Nei tuoi occhi è la mia parola. Omelie e discorsi di Buenos Aires 1999-2013, Milano, Rizzoli, 2016, XVI.

[9] x. IGNATIUS of LOYOLA, Linh Thao, số 22.

[10] D. FARES, “Pope Francis and Fraternity” (Đức Thánh Cha Phanxicô và tình huynh đệ), Civ. Catt. En. Sept 2019 https://www.laciviltacattolica.com/pope-francis-and-fraternity.

[11] x. D. FARES, “La fratellanza umana”(Tình Huynh Đệ Con Người), op. cit., 122.

[12] LEOPOLDO MARECHAL, Adàn Buenosayres, Montreal, McGill-Queen’s University Press, 2014.