TÍNH BỔ TRỢ, TÌNH LIÊN ĐỚI VÀ LÒNG BÁC ÁI TRỔ SINH HOA TRÁI GIỮA MÙA DỊCH COVID

Sr. M. Theresia Kim Dung

MỤC LỤC

1. NGUYÊN TẮC BỔ TRỢ VÀ NGUYÊN TẮC LIÊN ĐỚI TRONG HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO.. 1

       1.1 Nguyên tắc bổ trợ. 1

       1.2 Nguyên tắc liên đới 3

       1.3. Mối tương quan giữa hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới 5

       1.4 Áp dụng hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới qua việc thúc đẩy sự tham gia của các thành phần trong cơ cấu tổ chức Caritas. 5

2. ĐỨC ÁI KITÔ GIÁO TRONG ĐẠI DỊCH COVID

 

WHĐ (11.7.2022) - Bác ái đóng vai trò quan trọng trong Học thuyết Xã hội của Giáo hội.[1] Mỗi trách nhiệm và cam kết được giải thích trong giáo huấn xã hội, đều bắt nguồn từ tình yêu, từ đức ái. Giáo hội nhìn thấy nơi mỗi người hình ảnh sống động của chính Thiên Chúa (x. St 1,27). Từ đó, tất cả các giá trị được nối kết với phẩm giá con người được xem là giá trị chủ đạo. Khởi đi từ niềm tin Kitô giáo về phẩm giá bất khả xâm phạm của con người, Giáo hội đã rút ra một số nguyên tắc, chuẩn mực, và nhận định về giá trị nhằm đóng góp vào việc xây dựng một xã hội tốt đẹp. Đó là bước đầu để thúc đẩy nền nhân bản toàn diện và liên đới. Vì thế, bài viết này được chia làm hai phần chính: Phần thứ nhất trình bày hai nguyên tắc cột trụ trong học thuyết xã hội - bổ trợ và liên đới - để chúng ta cùng nhau suy tư; Phần thứ hai đề cập đến lòng bác ái trổ sinh giữa mùa dịch Covid khi áp dụng các định hướng của Giáo hội vào trong thực tế cuộc sống.

1. NGUYÊN TẮC BỔ TRỢ VÀ NGUYÊN TẮC LIÊN ĐỚI TRONG HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO

1.1 Nguyên tắc bổ trợ

Bổ trợ là một trong những định hướng bền vững và đặc thù nhất của Học thuyết Xã hội Công giáo và cũng là nguyên tắc quan trọng

nhất của triết học xã hội. Nguyên tắc bổ trợ hiện diện trong tất cả các văn kiện xã hội quan trọng đầu tiên của Giáo hội. Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo đã đưa ra một định nghĩa về nguyên tắc bổ trợ như sau: Hội thánh đề ra nguyên tắc bổ trợ: một tập thể cấp cao không được can thiệp vào nội bộ tập thể cấp thấp đến độ tước mất các thẩm quyền của nó, nhưng đúng hơn phải nâng đỡ nó khi cần thiết, và giúp nó phối hợp hoạt động với những tập thể khác, để mưu cầu công ích”. [2]

Dưới góc nhìn quản trị điều hành, nguyên tắc bổ trợ đề ra một giới hạn phù hợp trong việc quản lý của tổ chức cấp cao, tạo ra mối tương quan hài hòa giữa cá nhân với xã hội, chống lại mọi hình thức lãnh đạo gia trưởng, tập quyền, quan liêu giấy tờ... Nguyên tắc này cũng đòi hỏi tổ chức cấp cao hơn tôn trọng sự hiện hữu, tính tự lập và thẩm quyền của các tổ chức trung gian (vd: tổ chức địa phương, hiệp hội, nhóm, gia đình, cá nhân). Nói cách khác, nguyên tắc bổ trợ phải được thực hiện thông qua sự tôn trọng quyền tự chủ và năng lực chủ động của tất cả mọi người, trong đó sáng kiến, khả năng và trách nhiệm của những cá nhân và các tổ chức nhỏ được đề cao và khuyến khích. “Nguyên tắc bổ trợ ra đời để gia tăng quyền tự do của cá nhân, nhóm, đoàn thể, và để ngăn chặn sự tập trung quyền lực quá mức. Sáng kiến cá nhân cần phải được khuyến khích vì có khả năng giúp đỡ chính mình là một yếu tố quan trọng của phẩm giá làm người”.[3] Dựa trên nguyên tắc này, các cá nhân có thẩm quyền cao hơn hoặc các tổ chức cấp trên chỉ hỗ trợ (subsidium), giúp đỡ, thúc đẩy, bổ túc và phát triển các cá nhân và tổ chức xã hội (nhỏ hơn), họ chỉ can thiệp khi các cá nhân hoặc tổ chức trung gian không đủ khả năng chu toàn nhiệm vụ. Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp gọi đây là hành động “can thiệp kỹ thuật” của người có thẩm quyền hay tổ chức cấp trên để hỗ trợ các cấp dưới.[4]

Hệ quả đặc trưng của bổ trợ là sự tham gia. Nguyên tắc bổ trợ cho phép mọi người đảm nhận trách nhiệm đối với vận mệnh của xã hội. Đức Thánh Cha (ĐTC) Phanxicô đề cập đến nguyên tắc bổ trợ qua việc trao quyền (empowerment) cho các tổ chức trung gian. Ngài nhắc đi nhắc lại từ khóa “khả năng” (capacity) nhiều lần trong Thông điệp Laudato Si' nhằm thúc đẩy người Kitô hữu phát huy khả năng của mình trong sự hoán cải vừa sinh thái vừa xã hội. Theo đó, trao quyền hoặc ủy quyền được hiểu là giao một phần công việc cho cá nhân hoặc tổ chức trung gian chịu trách nhiệm thi hành và đồng thời giao cho họ quyền hành tương xứng với trách nhiệm được giao. Việc trao quyền cần có một số điều kiện kèm theo như sự hiểu biết, sự trưởng thành và tinh thần trách nhiệm mà các thuộc cấp cần phải có. Để được như thế, người lãnh đạo cần hỗ trợ những người cấp dưới thông qua việc đào tạo nhằm nâng cao năng lực.

Con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa và được Chúa Giêsu cứu chuộc. Từ niềm tin Kitô giáo này, các Học thuyết xã hội của Giáo hội đều nhìn nhận phẩm giá và ngôi vị của con người, điều mà xã hội phải tôn trọng, bảo vệ và phát huy. “Tôn trọng nhân vị gồm cả việc tôn trọng các quyền phát sinh từ phẩm giá của thụ tạo con người. Các quyền này không do xã hội ban cho và xã hội phải công nhận chúng”.[5] Chỉ khi phẩm giá con người được phát huy và tôn trọng, thì cơ cấu xã hội mới vững chắc. ĐTC Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong Thông điệp Caritas in Veritate: “Sự bổ trợ tôn trọng phẩm giá con người, khi nhìn họ như một chủ thể có khả năng trao ban một cái gì đó cho người khác. Khi công nhận tính hỗ tương như tâm điểm của đời sống con người, sự bổ trợ thực sự là phương tiện đối kháng hữu hiệu với bất cứ hình thức nào của hệ thống xã hội nặng tính gia trưởng”.[6]

Giáo hội đặt nguyên tắc bổ trợ trên nền tảng thần học về tạo dựng. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa ban cho con người tự do. Ngài luôn đồng hành hỗ trợ con người chứ không làm hoặc quyết định thay họ. “Thiên Chúa không muốn dành cho riêng mình việc thi hành mọi quyền hành. Người trao lại cho mỗi thụ tạo những phận vụ có thể thi hành theo khả năng của bản tính riêng. Cách lãnh đạo này phải được noi theo trong đời sống xã hội. Đường lối hành động lãnh đạo của Thiên Chúa khi cai trị thế giới cho thấy Ngài rất tôn trọng quyền tự do của con người. Đó phải là đường hướng chỉ đạo cho những ai cầm quyền trong các cộng đồng nhân loại. Họ phải xử sự như những thừa tác viên của Chúa quan phòng”.[7]

Lược lại dòng lịch sử về các giáo huấn xã hội của Giáo hội, chúng ta nhận thấy các ĐTC đã suy tư và áp dụng nguyên tắc bổ trợ này trong hoàn cảnh lịch sử và bối cảnh xã hội toàn cầu của các ngài. Những phần liên quan này sẽ không được đề cập chi tiết trong khuôn khổ bài viết.

1.2 Nguyên tắc liên đới

Tình liên đới xuất phát từ tình yêu, là sự thể hiện của bác ái và là mối dây liên kết tất cả mọi người thành một gia đình nhân loại. Tình liên đới nhân loại đem lại lợi ích cho chúng ta, đồng thời cũng là một bổn phận, một trách nhiệm phổ quát. Tình liên đới thúc bách chúng ta chia sẻ không những của cải vật chất mà cả của cải tinh thần.[8] “Nguyên tắc liên đới diễn tả chiều kích xã hội của con người. Không ai có thể sống cho riêng mình, mà luôn dựa vào người khác, không chỉ để nhận sự giúp đỡ thực tế, mà còn để trò chuyện, để thăng tiến nhờ hiểu biết các ý tưởng, lý lẽ, nhu cầu, mong ước của người khác, và có thể phát triển nhân cách của mình trọn vẹn hơn”.[9]

Cũng như nguyên tắc bổ trợ, tình liên đới được nhắc tới một cách xuyên suốt và hệ thống trong giáo huấn xã hội của Giáo hội. Học thuyết Xã hội Công giáo kể tình liên đới vào số những nguyên tắc căn bản, nhưng không đưa ra một định nghĩa chính xác về thuật ngữ này. Điều chúng ta ngày nay gọi là nguyên tắc liên đới, thì ĐTC Lêô XIII thường sử dụng cụm từ “tình thân hữu”, ĐTC Piô XI đề cập đến thuật ngữ “tình bác ái xã hội”, và ĐTC Phaolô VI nói về “nền văn minh tình yêu”, khi ngài mở rộng khái niệm này để bao hàm nhiều khía cạnh hiện đại của vấn đề xã hội.[10]

Tình liên đới là một nguyên tắc xã hội và là một đức tính luân lý.[11] Trước tiên, là một nguyên tắc xã hội, liên đới giúp khắc phục “các cơ cấu tội lỗi” từng chi phối các quan hệ giữa các cá nhân và các dân tộc, giúp xây dựng một “nền văn minh tình yêu”. Thứ đến, liên đới cũng là một đức tính luân lý đích thực, bởi vì tình liên đới nhấn mạnh đến sự cam kết muốn dấn thân lo cho công ích. Một cá nhân không thể mang lại lợi ích chung cho cộng đồng xã hội, công ích chỉ đạt được bằng những nỗ lực của nhiều người hợp lại. “Nhân đức liên đới được định nghĩa là ‘ý định bền bỉ và kiên quyết cam kết cho điều thiện chung; nghĩa là cho điều thiện của tất cả và mỗi người, ngõ hầu tất cả mọi người thực sự mang trách nhiệm với hết mọi người'”.[12]

Ngoài ra, liên đới còn là một thái độ xã hội. Nói về mối tương quan mật thiết giữa liên đới và công ích, ĐTC Phanxicô diễn giải trong Thông điệp Fratelli Tutti: “Liên đới có nghĩa là suy nghĩ và hành động vì cộng đồng, ưu tiên cho cuộc sống của tất cả mọi người hơn là cho việc sở hữu thiện ích của một ít người”.[13] Điều này mời gọi người Kitô hữu quan tâm đến thiện ích chung của tất cả mọi người, bao gồm cả những người nghèo khổ, những người yếu thế và bị gạt ra bên lề xã hội vì họ không có tiếng nói cũng không có quyền lực. Trong tinh thần đó, tình liên đới cổ võ sự hiệp nhất trong đời sống xã hội và sự bình đẳng của các phần tử, cũng như chống lại mọi hình thức cá nhân chủ nghĩa, lối sống ích kỷ, vô cảm, bàng quan trước những mất mát, khó khăn của anh chị em đồng loại.

Đề cập đến liên đới và sự phát triển chung của nhân loại, sách Tóm lược Học thuyết Xã hội, số 195 ghi rõ: “Nguyên tắc liên đới đòi hỏi con người hôm nay phải ngày càng nhận thức rõ hơn rằng họ chính là người mắc nợ xã hội mà trong đó họ là thành viên”.[14] Tự bản chất sâu xa, con người là một hữu thể xã hội, một thành phần của nhân loại, vận mệnh của người này nối kết và gắn chặt với vận mệnh của người khác, vì thế, khi mời gọi các tín hữu chung tay chăm sóc Ngôi nhà chung, xây dựng một nền sinh thái toàn diện, ĐTC Phanxicô nhắc đến tầm quan trọng của tình liên đới giữa các thế hệ hướng tới sự phát triển bền vững. Ngài lên tiếng cách mạnh mẽ: “Nếu không có sự liên đới giữa các thế hệ, thì không thể nào nói đến việc phát triển lâu dài được”.[15]

Tình liên đới của Đức Giêsu với nhân loại giải thích lý do tại sao người Kitô hữu cần phải thực hành tình liên đới. Nơi Người chúng ta luôn nhận ra dấu chỉ sống động của một tình yêu khôn lường và siêu việt của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu “không chỉ công bố tình liên đới của mình với toàn thể loài người mà còn từ bỏ mạng sống vì chúng ta nữa. Sự tự hiến đến cùng này vì người khác thể hiện mức độ cao nhất của tình yêu và tình liên đới, và phải trở thành chuẩn mực cho hành động của các tín hữu Kitô giáo”.[16] Noi gương Chúa Giêsu, Giáo hội mời gọi chúng ta thực hiện tình liên đới với con người và thế giới hôm nay: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và của bất cứ ai đang đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà họ lại không cảm nhận trong đáy lòng họ”.[17]

1.3. Mối tương quan giữa hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới

Liên đới là đức tính Kitô giáo, là nhân đức thúc đẩy mọi thành viên trong gia đình nhân loại chia sẻ của cải vật chất và tinh thần. Nguyên tắc bổ trợ được nhắc đến ở đây là cách điều phối các hoạt động của xã hội, tránh sự lạm quyền của cấp cao hơn, khi họ lấy đi những gì các cá nhân và các đoàn thể trung gian có thể tự làm được. Hai nguyên tắc liên đới và bổ trợ đều xây dựng trên việc tôn trọng phẩm giá siêu việt của con người và đều hướng đến lợi ích chung, hướng về công ích. Mối tương quan giữa hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới không bao giờ có thể được xem là điều đương nhiên, điều “tất nhiên phải có”, trong thực tế mối tương quan này thường không đối xứng (not symmetrical), đặc biệt khi liên quan đến kinh tế xã hội. Tình liên đới có thể rất cao và sự bổ trợ, phụ đới thấp là điều có thể xảy ra. Tương tự, sự bổ trợ không thể thực hiện được nếu không có tình liên đới.[18] Ngày nay, tình liên đới dựa vào cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong những hoạt động bác ái. Trong Thông điệp Caritas in Veritate, ĐTC Bênêđictô XVI nhấn mạnh đến sự liên kết chặt chẽ của hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới trong việc cứu trợ như sau: “Nguyên tắc bổ trợ phải liên kết chặt chẽ với nguyên tắc liên đới và ngược lại. Vì bổ trợ nếu không có tình liên đới sẽ rơi vào chủ nghĩa địa phương xã hội; cũng thế, liên đới mà không có bổ trợ cũng rơi vào một hệ thống gia trưởng, hạ thấp giá trị của những người được giúp đỡ”.[19]

1.4 Áp dụng hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới qua việc thúc đẩy sự tham gia của các thành phần trong cơ cấu tổ chức Caritas

Giới thiệu về UB. BAXH - Caritas Việt Nam

UB. BAXH - Caritas Việt Nam là tổ chức hoạt động bác ái xã hội trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Caritas Việt Nam (CVN) bao gồm Văn phòng CVN và 27 Caritas Giáo phận (CGP). Trong mỗi CGP, mạng lưới Caritas được triển khai đến giáo hạt, giáo xứ. Dưới ánh sáng của Lời Chúa và Học thuyết Xã hội của Giáo hội, mọi thành viên trong gia đình Caritas thực thi hoạt động bác ái mang đặc tính Kitô giáo, hướng đến việc loan báo Tin Mừng. Việc phục vụ bác ái này không những bao gồm các công việc cứu trợ khẩn cấp, đặc biệt khi có lũ lụt thiên tai, dịch bệnh, mà còn hướng đến việc thăng tiến và phát triển con người toàn diện. CVN là một tổ chức thành viên của Caritas Quốc tế.

Áp dụng hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới

Nói về việc áp dụng nguyên tắc bổ trợ và liên đới, Caritas Quốc tế và các tổ chức thành viên buộc phải tuân theo những quy định đã được ghi rõ trong bộ quy tắc đạo đức và quy tắc ứng xử của Caritas Quốc tế.

Bổ trợ: “Chúng tôi bảo đảm rằng quyền lực, các quyết định và trách nhiệm được chuyển giao cho cấp thấp nhất mà tại đó những điều này có thể được thực thi một cách hợp lý. Khi làm như vậy, chúng tôi cố gắng tối đa hóa và xây dựng dựa trên khả năng và nguồn lực của địa phương. Bản sắc trung tâm của Caritas bao gồm các thành viên Caritas quốc gia, giáo phận và giáo xứ, và tất cả chúng tôi sẽ cố gắng thúc đẩy và củng cố những điều này để giúp họ có thể tự chủ và chịu trách nhiệm nhiều hơn”.[20]

Liên đới: “Chúng tôi làm việc liên đới với những người nghèo khổ và người bị thiệt thòi, qua đó mà đạt được những thành quả của hòa bình, công lý và phát triển con người. Tình liên đới gắn kết chúng tôi với nhau trong tầm nhìn chung về việc thiết lập một thế giới nơi tất cả mọi người nhận được những gì thuộc về mình một cách chính đáng với tư cách là con cái của Thiên Chúa”.[21]

Là một tổ chức thành viên của Caritas Quốc tế, CVN cam kết tuân thủ các quy tắc trên. Nói cách khác, mọi hoạt động bác ái xã hội của CVN đều được chi phối bởi hai nguyên tắc liên đới và bổ trợ. Thật vậy, tình liên đới gắn kết mọi thành viên trong đại gia đình CVN với nhau, có chung một tầm nhìn, một sứ mạng, một đối tượng phục vụ là anh chị em nghèo khó và đau khổ. Ở mỗi cấp Caritas (quốc gia, giáo phận hay giáo xứ) nguyên tắc bổ trợ nhắc nhở các cá nhân hoặc tập thể cấp cao hơn không can thiệp vào nội bộ của cấp thấp hơn, nếu như họ có thể tự mình giải quyết được vấn đề. Nguyên tắc này mời gọi các nhà lãnh đạo cấp trên đặt niềm tin vào người cấp dưới, trao cho họ trách nhiệm và quyền tương ứng đi theo để họ chu toàn công việc. Lãnh đạo là một nghệ thuật, người lãnh đạo không phải là người làm hết mọi việc nhưng là người truyền cảm hứng và thúc đẩy người khác cùng nhau thực hiện để đạt mục đích đã đề ra. Vì thế, nguyên tắc bổ trợ nói lên bổn phận hỗ trợ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ, thúc đẩy trách nhiệm và sáng kiến cá nhân, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự bổ túc cho nhau. UB. BAXH - CVN là thực thể / tổ chức mà chính các thành viên (CGP, Caritas Giáo xứ, hội viên, tình nguyện viên...) làm nên. Vì thế, việc khích lệ từng thành viên sẵn sàng đóng góp sức lực, khả năng và sáng tạo của mình vào việc chung là điều cần thiết. Qua đó, nguyên tắc bổ trợ giúp Caritas các cấp (giáo phận, giáo hạt, giáo xứ), các nhóm (người khuyết tật, người có HIV, người di dân...) hoặc cá nhân (nhân viên, cộng tác viên, tình nguyện viên), tự tin và phát triển năng lực của mình để đóng góp xây dựng cộng đồng xã hội.[22] Việc trao quyền (empowerment) ở đây không đồng nghĩa với chia quyền, vì chia quyền thường dẫn đến việc tạo ra “địa phương chủ nghĩa” và cạnh tranh.

Áp dụng nguyên tắc bổ trợ và liên đới vào trong thực tế, Văn phòng CVN đã nỗ lực thực hiện các hoạt động sau: tổ chức các khóa tập huấn đào tạo nhằm nâng cao năng lực nhân viên CGP, đồng hành hỗ trợ CGP thiết lập văn phòng, xây dựng và kết nối mạng lưới CGP với các tổ chức khác, hợp tác và thực hiện các chương trình dự án... Trong tinh thần đó, mỗi CGP có thể chủ động và phát huy sáng kiến khi triển khai các hoạt động bác ái phù hợp với hoàn cảnh địa phương, vùng miền. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam việc áp dụng hai nguyên tắc trên vào thực tế vẫn còn là thách đố lớn cho những cá nhân và tập thể cấp cao hơn. Điều này cần đến sự đổi mới tư duy và phong cách lãnh đạo sao cho phù hợp với những chỉ dẫn nguyên tắc của Giáo hội và với con người ngày nay. Thiết nghĩ, để có thể từng bước vận dụng các nguyên tắc liên đới và bổ trợ vào thực tế, việc học hỏi các nguyên tắc này cần được đẩy mạnh trước tiên. Hướng tới phát triển tổ chức cách bền vững, CVN cần có những quy chế hướng dẫn rõ ràng, bao gồm cả quy tắc đạo đức và quy tắc ứng xử cho mọi thành viên để họ thi hành.

2. ĐỨC ÁI KITÔ GIÁO TRONG ĐẠI DỊCH COVID

Xuất phát từ tình yêu Đức Kitô, người Kitô hữu cảm thấy được thôi thúc phải yêu thương anh em đồng loại. “Mọi thứ đều bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, mọi thứ đều được định hình bởi tình yêu, mọi thứ đều quy hướng về tình yêu. Tình yêu là quà tặng lớn nhất mà Thiên Chúa trao ban cho loài người; tình yêu là lời hứa của Ngài, và là niềm hy vọng của chúng ta”.[23] Trong sự hiệp thông của Giáo hội, tình yêu Thiên Chúa được con người tiếp nối, và tỏa lan đến anh chị em đồng loại. Nói cách khác, mọi hoạt động của Giáo hội đều là lời diễn tả tình yêu - một tình yêu tìm kiếm điều thiện ích cho con người. Thật vậy, “Giáo hội sống trong thế giới, và dù không thuộc về thế giới (x. Ga 17,14-16), Giáo hội cũng được mời gọi phục vụ thế giới theo ơn gọi sâu xa của mình”.[24] Vì thế “tình yêu chính là công việc phục vụ mà Giáo hội tiến hành để luôn đáp ứng với đau khổ và những nhu cầu của con người, kể cả những nhu cầu vật chất”.[25]

Đại dịch Covid-19 xảy ra như một thảm họa đau thương cho toàn nhân loại. Chúng ta đã chứng kiến biết bao tang thương, mất mát, đổi thay, xáo trộn, khủng hoảng trong mọi lãnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tôn giáo, v.v... nhưng đồng thời đại dịch cũng là cơ hội để chia sẻ và trao ban yêu thương, là cơ hội để phản tỉnh giúp con người tìm về những giá trị cốt lõi của cuộc sống. ĐTC Phanxicô từng chia sẻ rằng đại dịch Covid-19 đã nhắc nhở nhân loại nói chung và người Kitô hữu nói riêng về sự mong manh của thân phận con người. Và chính trong những giây phút đau thương tàn khốc, tình liên đới là mối dây liên kết chúng ta lại với nhau. Tất cả chúng ta phụ thuộc lẫn nhau về mọi mặt, cả tốt lẫn xấu, mọi hành động của chúng ta đều ảnh hưởng đến người khác, chúng ta cùng trên một con thuyền. “Đại dịch Covid-19, có lúc đã khơi lại rõ ràng cái cảm thức chúng ta là một cộng đồng thế giới đang chèo chống trên cùng một con thuyền, ở đó điều gây tổn hại cho người này cũng gây tổn hại cho những người khác”.[26] Để có thể vượt qua cơn khủng hoảng Covid, chúng ta cần phải chung lòng chung sức với nhau. Đại dịch này cần phải được điều trị bằng kháng thể của tình liên đới. Tình yêu thúc đẩy con người liên đới với nhau thành cái “Chúng ta”. “Sự liên đới, được biểu lộ cụ thể trong việc phục vụ, có thể có những hình thức rất khác nhau trong trách nhiệm chăm lo cho người khác. Mà phục vụ ‘phần lớn là quan tâm đến những hoàn cảnh bấp bênh. Phục vụ có nghĩa là chăm sóc những thành viên yếu kém của gia đình chúng ta, xã hội chúng ta, dân tộc chúng ta'”.[27]

Tình liên đới, nghĩa đồng bào, tinh thần “Lá lành đùm lá rách” đã làm cho đức ái được trổ sinh trong thời gian dịch bệnh Covid. Giữa những khó khăn bủa vây chồng chất, người ta lại càng thấy tình người trở nên ấm áp. Sài Gòn trước đây luôn sẵn sàng chia sẻ quảng đại với các nạn nhân thiên tai trên cả nước. Giờ đây, khi Sài Gòn gặp thử thách, hàng triệu con tim ở mọi miền đất nước đều hướng về Sài Gòn với tất cả sự yêu thương, đùm bọc. Mọi người đều cảm thấy có trách nhiệm với nhau, cảm nhận nỗi đau của người khác là nỗi đau của chính mình. Ở đây, tình liên đới được hiểu là cho đi nhưng không, một cách vô vị lợi và không tính toán. Điều này mời gọi chúng ta nhìn nhận mỗi người, dù thân quen hay xa lạ, nhất là những người nghèo và đau khổ, là anh chị em của mình, những người “mà Đức Kitô đã chết cho họ” (Rm 14,15). Dụ ngôn người Samari nhân hậu vẫn là một chuẩn mực đòi buộc chúng ta tỏ bày tình yêu phổ quát đối với người gặp nạn trong những tình huống khẩn thiết (x. Lc 10,31). Thật vậy, đáp lời kêu gọi của Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh - Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam - trong thư “Thương quá Sài Gòn ơi!”, hàng ngàn chuyến xe chở đầy yêu thương đã hướng về Sài Gòn và miền Nam thân yêu. Các Caritas giáo phận, nhiều dòng tu nam nữ, các tổ chức... phát huy sáng kiến để có thể hỗ trợ sẻ chia nỗi đau với người cùng khổ. Mọi nhà, mọi xứ, già trẻ ngày đêm vẫn thống thiết vang lên lời kinh cầu mong cho đại dịch mau qua. Nhiều linh mục, nam nữ tu sĩ, giáo dân đã tham gia vào đội ngũ tình nguyện viên chăm sóc người nhiễm Covid trong các bệnh viện dã chiến. Phối hợp với y bác sĩ Công giáo và tình nguyện viên, CVN có chương trình đồng hành và chăm sóc F0 tại nhà. Thật là cảm kích, khi biết rằng nhiều người quanh ta, dẫu có sợ hãi, vẫn sẵn sàng dấn thân chấp nhận rủi ro nguy hiểm. Mỗi người đều cảm nghiệm rằng cuộc sống của chúng ta được đan dệt và đỡ nâng bởi những con người bình thường nhưng dũng cảm, họ là những bác sĩ, y tá, điều dưỡng, tài xế lái xe cấp cứu... và đã có người hy sinh khi tham gia điều trị, cứu chữa bệnh nhân Covid. Tại nhiều giáo xứ, cha xứ cùng với Caritas giáo xứ thực hiện những bữa cơm 0 đồng, chia sẻ những bó rau, củ hành, bao gạo... cho những gia đình đang gặp khó khăn, không phân biệt tôn giáo. Cũng vậy. một bức tranh Đức ái muôn màu muôn sắc được các dòng tu dệt nên, nhằm xoa dịu nỗi đau của anh chị em mình. Người tu sĩ đã trở thành những cánh tay nối dài giữa những mạnh thường quân và những người nghèo khổ qua việc cung cấp lương thực cho anh chị em di dân trong những khu nhà trọ chật hẹp, cho những người dân trong khu cách ly hoặc thăm viếng ủi an những mảnh đời bất hạnh. Các hội viên, tình nguyện viên Caritas Phan Thiết, Nha Trang, Qui Nhơn, Mỹ Tho, Vĩnh Long chia sẻ gói lương thực đi đường, xăng dầu cho đoàn người trốn dịch, bỏ phố về quê... Kể sao cho hết những tấm lòng quảng đại, những nghĩa cử yêu thương. Đức ái Kitô giáo trở nên nhịp cầu đến với anh chị em, và cũng là con đường ngắn nhất để đến với tha nhân và đến với Thiên Chúa. Việc phục vụ bác ái là hoa trái của đức tin. Nói cách khác, hành động của đức tin chính là đức ái. Mỗi việc bác ái chúng ta làm cho anh chị em là làm cho chính Chúa (x. Mt 25, 34-36). Nơi những gương mặt của người nghèo, chúng ta nhận ra những đường nét đau khổ của Đức Kitô. “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

Hoạt động bác ái là trách nhiệm của Hội thánh, nó thuộc về bản chất của Hội thánh.[28] Những gì mà Giáo hội Công giáo Việt Nam làm là quan tâm đến người nghèo, bảo vệ và chia sẻ với họ. Vâng, người nghèo phải là ưu tiên hàng đầu trong sứ vụ của Giáo hội, nếu không, Giáo hội đi ngược lại sứ mệnh của mình. “Một Giáo hội không thể hiện tình liên đới sẽ hóa ra mâu thuẫn với chính danh nghĩa của mình. Giáo hội là nơi diễn ra tình liên đới vĩnh viễn của Thiên Chúa với con người”.[29] Giáo hội Công giáo Việt Nam nói chung, UB. BAXH - CVN nói riêng, không phải là một tổ chức phi chính phủ chuyên lo việc từ thiện, nhưng Giáo hội thực thi sứ vụ bác ái theo lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu. Trong cơn đại dịch, Giáo hội Việt Nam với những nỗ lực của mình cùng với ơn Chúa đang đưa ra một lời chứng đức tin sống động về tình bác ái huynh đệ.

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 128 (Tháng 3 & 4 năm 2022)



[1] x. Caritas in Veritate (2009), số 2

[2] Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1883

[3] Docat, số 95

[5] Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1930

[6] Thông điệp Caritas in Veritate (2009), số 57

[7] Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1884

[8] x. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1948

[9] Docat, số 100

[10] x. Thông điệp Centesimus Annus (1991), số 10: Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1939

[11] x. Tóm lược Học thuyết Xã hội (2004), số 193

[12] Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis - Quan tâm đến vấn đề xã hội (1987), số 38

[13] Thông điệp Fratelli Tutti (2021), số 116

[14] Tóm lược Học thuyết Xã hội (2004), số 195

[15] Thông điệp Laudato Si' (2015), số 159

[16] Docat, số 103

[17] Gaudium et Spes, số 1

[18] x. Solidarity, Subsidiarity, and Preference for the Poor: Extending Catholic Social Teaching In Response to the Climate Crisis; How Solidarity and Subsidiarity can work together

[19] Thông điệp Caritas in Veritate (2009), số 58

[20] Caritas Internationalis Code of Ethics & Code of Conduct for Staff

[21] Caritas Internationalis Code of Ethics & Code of Conduct for Staff

[22] x. Tóm lược Học thuyết Xã hội (2004), số 187

[23] Thông điệp Caritas in Veritate (2009), số 2

[24] Tóm lược Học thuyết Xã hội (2004), số 18

[25] Thông điệp Deus Caritas Est (2005), số 19

[26] Thông điệp Fratelli Tutti (2021), số 35

[27] Thông điệp Fratelli Tutti (2021), số 115

[28] x. Thông điệp Deus Caritas Est (2005), số 20

[29] Docat số 27