THỪA TÁC VIÊN TRUYỀN GIÁO: CON NGƯỜI VÀ HOẠT ĐỘNG
Tác giả: Michel Trương
I. Khái niệm dẫn nhập
Khi tiếp cận với chủ
đề Nhập môn Truyền giáo học, trong khuôn khổ trình bày đơn sơ những nét cơ bản
tối thiểu, thông thường người ta đặt trọng tâm xem xét đến 3 chiều kích chính:
Trước tiên luận về “Ý nghĩa Thần học đối với Sứ vụ Loan báo Tin mừng”; hai là
mô tả “Phương thức hoạt động Truyền giáo” và sau đến là đề cập về “Thừa tác
viên của Sứ vụ”. Mục đích bài viết dưới đây muốn trình bày một cách vắn gọn thuộc
đề tài thứ ba, tức bàn qua bản chất và tính năng hoạt động của kẻ Được Sai Đi.
Một Thừa tác viên Truyền
giáo khi tranh thủ được hoàn cảnh thích hợp thì tất phải công bố cho Lương dân
về Chúa Kitô, về Tin mừng của Ngài, về Giáo Hội do Ngài sáng lập và sau cùng là
Niềm hy vọng hướng tới Ơn Cứu độ v.v... Tuy nhiên, vào lúc cơ hội ấy đến như có
thể thuận lợi để rao truyền những điều vừa nêu mà không còn cảm thấy chút dè chừng,
các dân nước được xem là đã sẵn lòng chịu đón nghe, thì Người loan tin lúc đó
cũng phải kiểm điểm lại chính bản thân mình. Họ cần xét coi, có thật sự đủ chín
chắn để mở lời trước những vấn đề thánh thiêng ấy đối với tha nhân không? Trọng
điểm phần nội dung trình bày này tập trung quan tâm đến bối cảnh như vừa đề cập,
Nhà truyền giảng cần chuẩn bị tốt các điều kiện sao cho, xứng hợp trong vai trò
của Vị “Sứ giả Tin mừng”, nhờ đó mới hy vọng rằng tha nhân sẽ chịu tin nhận
Phúc Âm Chúa Kitô mà mình muốn thông truyền và kết cục là họ đón lấy lời mời gọi
gia nhập Giáo Hội.
Thừa sai không phải
là những kẻ chỉ biết cứu nhân độ thế, thi thố lòng hảo tâm; nhà hoạt động xã hội;
người đem ánh sáng văn minh đến các nơi còn lạc hậu; cũng không đóng vai nhân vật
chuyên đóng góp cho sự nghiệp văn hóa của một dân tộc; lại càng không phải bậc
am tường về tâm lý học nhằm thu phục kẻ khác để có cùng đời sống tâm linh giống
như mình. Nhà truyền giáo là một người
thuộc về Thiên Chúa, kẻ đem Tin mừng để mở mang nước Thiên Chúa, họ ra đi vì thấu
hiểu được những gì lòng Chúa mong muốn nơi họ và sau cùng gánh lấy trọng trách
đem Ơn Cứu Độ đến cho muôn dân. Những phát biểu như vừa rồi là đôi lời mô tả
về những gì cơ bản nhất, đồng thời cũng trưng ra vài cách hiểu thông thường hơi
sai lệch liên quan đến Thừa sai. Tuy nhiên, muốn phản ánh thật sự về mẫu người
này thì chúng ta cần phải trở lại từ những nguyên lý tiên khởi rồi dần bước tiến
hành xem xét thêm trên các lãnh vực khác nữa, từ đó mới có được ý niệm đứng đắn
khi đề cập về các tính năng của họ.
Khi phát biểu định
nghĩa Truyền giáo, như trong bài viết khởi đầu của Tập tư liệu và đã có lần được
phổ biến bởi Ủy ban Loan báo Tin mừng, chúng ta biết rằng hoạt động Sứ vụ này
khởi nguồn với một Định đề, đó là: Nemo Dat Quod Non Habet, không ai cho cái
mình không có. Ngôn từ Định đề có thể được hiểu theo cách, tức lời công ước ban
đầu trước khi đi vào bàn thảo về một chủ đề, nó cũng là nền tảng gốc của lý luận,
bất kỳ sự suy diễn gì cho nội dung theo sau thì không được hàm nghĩa nghịch lý
với ý phát biểu từ định đề. Điểm cốt lõi diễn đạt trong câu định đề Truyền
giáo, khiến chúng ta không khó hiểu ngay, Thừa sai cần phải được trang bị trước
trên nhiều phương diện thuộc các tiêu chí như: Đạo đức, kiến thức, kỹ năng
v.v..., nhờ đó họ mới có thể truyền đi cho tha nhân những tâm tình, tư tưởng và
cung cách sống Đạo phù hợp với cương lĩnh Loan báo Tin mừng trong Giáo Hội. Từ
nguyên tắc đặt ra bởi Định đề ấy, đã dẫn đến các điều buộc là, Thừa sai phải
luôn có nơi mình 5 thuộc tính: Thánh thiện, Trung tín, Nhiệt thành, Am hiểu và
Mẫu mực. Các thuộc tính này có thể được coi là những đức tính tổng quát của một
Nhà truyền giáo, từ đó khi người ta nhìn bàng quang hướng về họ thì có thể nhận
ra ngay phong cách biểu hiện rồi trở nên thiện cảm với những “Người Loan Tin”
này. Do vậy nó cũng trở thành tiêu chuẩn tất yếu để Thừa sai có thể tiếp cận và
thi hành các đòi hỏi của Sứ vụ mà họ có nhiệm vụ thông đạt cho tha nhân.
Tuy nhiên, khi bàn
đến bản chất thực sự và cuộc đời hoạt động Nhà truyền giáo, với mong ước sẽ
mang lại hiệu quả đích thực thì, theo khoa bảng, tất yếu cần phải dựa thêm trên
quan điểm xét về 6 chiều kích chính của con người Thừa sai, mà đối với họ,
đó phải là những chí hướng cần đặt ra để phấn đấu như là cách thức nhận lấy Ơn
gọi dấn thân và sẵn sàng hiến mình vì Sứ vụ. Như vậy miêu tả thuộc tính của
Nhà truyền giáo là cách trình bày phổ quát, còn đề cập đến các chiều kích này
là phân tích chuyên sâu, đồng thời cũng được xem như một dạng Linh đạo truyền
giáo thiêng liêng hướng họ sống gắn bó với lý tưởng Được Sai Đi của mình.
Trước khi đi vào những ý tưởng nội dung chính, tức phần triển khai ý nghĩa 6
chiều kích như vừa nói, chúng ta cũng cần dành ra một phân mục để giải thích
các nguyên do cần thiết, vì sao phải hội đủ 5 thuộc tính đối với Thừa sai.
2. Những thuộc tính cơ bản của Thừa
sai
Thuộc tính là những
đặc tính trọng yếu của một danh gọi, nó gồm vài nhân tố biểu hiện đặc trưng,
nhưng nếu thiếu đi một trong số đó thì danh xưng ấy không còn đúng với cái tên
của nó nữa nhưng buộc phải bị thay đổi cách gọi. Để dễ hình dung, xin mượn
khung cảnh nói về bản chất của Giáo Hội; Đạo Công Giáo có 4 đặc tính chủ yếu:
Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Nếu một quần thể sinh hoạt tôn
giáo nào mà thể hiện thiếu một trong 4 nhân tố đó thì đấy là một Giáo phái khác
chứ không thể gọi là hành đạo trong Giáo hội Công giáo được. Tương tự cũng có
thể lập luận, nếu một người sống Đạo mà thể hiện khiếm khuyết chỉ một trong 5
thuộc tính sau đây thì vẫn có thể đánh giá người đó là Kitô hữu mẫu mực nhưng
không thể coi họ như một Thừa sai. Tóm lại theo cách vừa giải thích, thì đời hoạt động của Nhà truyền giáo, cơ bản
luôn cần đầy đủ 5 đặc tính: Thánh thiện, Trung tín, Nhiệt thành, Am hiểu và Mẫu
mực. Tuy vậy trong vài hoàn cảnh đặc thù, vì nhu cầu thi hành Sứ vụ cho đạt
hiệu quả cao, thực tế còn đòi hỏi thêm những đặc tính khác nữa, ví dụ: Kiên
trì, nhẫn nhục, vâng phục, khó nghèo v.v...
Thuộc tính Thánh thiện: Để miêu
tả nguyên do vì sao cần xem trọng đức tính này và coi đó là nhân tố đầu tiên được
đề cập đến, xin được trích một đoạn phát biểu của Đức Pi-ô XI trong Tông
thư Maximum Illud số 26, ý tưởng diễn đạt tuy vắn tắt nhưng khá đầy đủ ý
nghĩa: “Nhưng có một thuộc tính
không thể thiếu đối với những người bước vào đời sống Tông đồ. Một điều tối
quan trọng và thiết yếu, đó là họ phải có đời sống thánh thiện. Bởi vì, ai rao
giảng Thiên Chúa thì bản thân họ phải là một người của Chúa. Ai khuyên người
khác từ bỏ tội lỗi thì chính mình cũng phải chê ghét tội lỗi. Giảng bằng gương
sáng thì hiệu quả hơn nhiều so với thuyết giảng bằng lời nói, đặc biệt khi giảng
cho những người không tin, họ dễ bị ấn tượng bởi những gì mắt họ nhìn thấy hơn
là bằng những lý luận được trình bày cho họ. Nếu có thể, cứ cho người truyền
giáo mọi tài năng tinh thần và trí tuệ có thể tưởng tượng ra được, cứ cho họ có
những kiến thức sâu rộng nhất và quán triệt các nền văn hoá xuất sắc nhất.
Nhưng nếu những đức tính này không được kèm theo với sự vẹn toàn của tinh thần
Thánh thiện, thì chúng sẽ trở nên ít ỏi hoặc chẳng có giá trị gì cho việc Tông
đồ. Trái lại, chúng có thể còn là nguyên nhân gây ra tai họa cho bản thân họ và
cho người khác.”[1]
Thuộc tính Trung tín: Nói đến sự
trung tín là hàm chỉ về cách thể hiện Niềm tin nơi Đức Kitô và lòng trung thành
đối với Giáo Hội. Cần nhận thức rằng một Thừa sai bị đánh giá là “kẻ thiếu lòng
trung tín” không phải vì ông ta đã phát biểu “tôi không tin Chúa”. Không hẳn phải
đợi biểu hiện một hành vi lộ liễu đến vậy, đời hoạt động của Nhà truyền giáo chỉ
cần đôi lúc vì sơ suất mà sống không phản ánh trung thực các Lời dạy trong Phúc
Âm thì đáng để bị gán với tội danh này rồi. Ngoài ra, những yếu tố như: Tham vọng
vật chất thế gian, phô trương kỳ công, cố chấp trong phương pháp, thiếu sự vâng
phục Đấng bề trên v.v..., trong lãnh vực Truyền giáo, những cung cách đó cũng
có thể được coi là tiêu biểu của kẻ “bất tín bất trung”. Vì nhiệm vụ ràng buộc
duy nhất đối với họ là lo cho Phần rỗi các Linh hồn và Mở mang Nước Chúa, ngoài
mục tiêu đó ra thì không nên liên tưởng đến lợi ích gì khác cho bản thân cũng
như vì mưu toan trần thế.
Yếu tố Trung tín
còn đòi hỏi nơi Thừa sai phải đón nhận sự hy sinh cho dù đến tận mạng. Giả định
tại một khu truyền giáo hẻo lánh, bọn thổ phỉ đến đòi lấy mạng những ai theo Đạo,
thật vô lý khi người ta chứng kiến một Vị Thừa sai mặc kệ Con chiên mà quỳ van
xin cho mình được tha mạng. Cứ vịn vào hình ảnh như vậy mà Nhà truyền giáo cần
tâm nguyện rằng phải luôn sống trong tư thế có thể bị trở nên vật hiến tế bất cứ
lúc nào, do vậy không bao giờ được đặt ra tiêu chuẩn, mình sẽ hy sinh đến chừng
mực nào là vừa đủ. Một cách tóm lược đầy đủ ý nghĩa cho phần trình bày thuộc
tính này, xin được trích số 89 trong Thông điệp Redemptoris Missio[2]: “Như Chúa Kitô, Nhà truyền giáo phải
yêu mến Giáo Hội theo cách: Chúa Kitô đã yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội
Thánh (Eph 5, 25). Tình yêu thương này, phải đến độ hiến mạng sống mình và cũng
là đích điểm mà họ nhắm đến. Chỉ có tình yêu sâu xa đối với Giáo Hội mới có thể
bảo toàn lòng trung tín của Nhà truyền giáo mà thôi. Cái thôi thúc thường xuyên
của Nhà truyền giáo phải trở nên, như Thánh Phaolô nói: Nỗi ray rứt hằng ngày của
tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh (2Cor 11, 28). Đối với hết mọi
Thừa sai: Lòng trung thành với Chúa Kitô không thể nào tách lìa khỏi lòng trung
thành với Giáo Hội[3].”
Thuộc tính nhiệt thành: Khi tiếp
cận với từ này người ta thường liên tưởng ngay đến tác phong của một con người
thể hiện sự hăng say trong công việc. Điều này cũng đúng đối với Thừa sai, vì
không thể trong tư thế ù lì, chểnh mảng mà nói là tôi đang gánh vác trọng trách
mang Ơn cứu độ đến cho tha nhân. Mọi người đều công nhận về mặt Tín lý, Ma quỷ
luôn lôi kéo con người ngã về phe của chúng, ấy vậy mà, Thừa sai lại luôn tìm
cách cứu vớt các Linh hồn. Bởi đó, phải đối đầu với Thần dữ thì hẳn không thể
cho phép chúng ta được ỷ lại và thiếu lòng hăng say. Bản năng mạnh mẽ để thắng
vượt tội lỗi và kháng cự lại những gì nghịch với điều Thiện khiến cho Nhà truyền
giáo cần trở nên nhiệt thành trên nhiều phương diện. Trước hết vì nỗi bận tâm về
một Sứ vụ thiêng liêng với những đặc tính cấp bách của nó, kế đến vì thể hiện
tình yêu dành cho Thiên Chúa qua việc phụng sự tha nhân và sau cùng, chính là
bước nối tiếp của lòng Trung tín, như đã đề cập trong phần trình bày trước đây,
Thừa sai hằng mang tâm nguyện hy sinh đến cả mạng sống mình, vậy thì ngày nào
còn sống để phục vụ thì hãy ra sức đến tận lực. Chúng ta cũng ôn lại lời khuyên
của Đức Phaolô VI trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi để thấu hiểu hơn về ý
này: “Thời đại chúng ta cũng có nhiều
trở ngại, trong số đó Ta muốn đề cập đến việc thiếu lòng nhiệt thành. Nó càng
trầm trọng hơn vì xuất phát từ bên trong. Nó biểu lộ trong sự mệt mỏi và chán
chường, trong sự chiếu lệ và hờ hững, và nhất là thiếu niềm vui và trông cậy. Vậy
Ta nhắn nhủ tất cả những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng, dù ở địa vị
hay mức độ nào cũng phải nuôi dưỡng trong mình lòng nhiệt thành (Rm 12,11).....
Vì vậy chúng ta hãy duy trì lòng nhiệt thành. Hãy bảo toàn niềm vui dịu dàng và
niềm an ủi được rao giảng, ngay cả lúc phải gieo trong nước mắt. Ước gì việc
rao giảng đối với chúng ta cũng như đối với Gioan Tẩy Giả, đối với Phêrô và
Phaolô và các Tông đồ khác cũng như đối với vô số nhà rao giảng, đáng thán phục
khác trong suốt lịch sử của Giáo Hội, ước gì việc rao giảng là một sự phấn khởi
nội tâm mà không ai, không một gì có thể dập tắt được. Ước gì đó là niềm vui lớn
lao của đời sống tận hiến của chúng ta. Và ước gì thế giới hôm nay đang tìm kiếm
trong lo âu hoặc hy vọng, có thể đón nhận Tin Mừng, không phải từ những nhà rao
giảng buồn bã hay thất vọng, bồn chồn hay lo âu; nhưng từ những Thừa tác viên của
Tin Mừng có đời sống đầy nhiệt thành vì đã đón nhận niềm vui của Đức Kitô và chấp
nhận xem thường mạng sống để cho Nước Trời được rao giảng và Giáo Hội được ăn
sâu vào giữa lòng thế giới.”[4]
Một khía cạnh khác
có liên quan đến lòng nhiệt thành mà cũng cần lưu tâm trong khi thi hành Sứ vụ,
theo nguyên tắc Truyền giáo học, đó là tinh thần biết dấn thân vào sự mạo hiểm.
Vì là người phải tới những vùng xa lạ, dám tiếp cận cùng dân nước không đồng
quan điểm với mình, sẽ quảng bá điều mà họ chưa từng nghe đến v.v..., những
yếu tố đó đòi buộc nơi Thừa sai phải ý thức vai trò tiên phong của mình và cần
chuẩn bị đối mặt trước nguy cơ của tính thời vận. Về quan điểm này xin được ghi
nhận một số kinh nghiệm do những tiền nhân đã truyền đạt lại cho chúng ta sau
quá trình hoạt động trong cuộc đời các Ngài: “Có thể nói làm Thừa sai là dấn thân vào con đường mạo hiểm; mạo hiểm
không phải vì thích chơi trò rủi may, nhưng vì xác tín là ở bên kia còn có một
kho tàng quý giá đang chờ đợi chúng ta. Linh đạo truyền giáo không tiến bước
trên những con đường rãi nhựa, có lằn ranh mức rõ ràng; trái lại, nhiều lúc phải
dấn bước vào những khu vực thâm u xa lạ, phải khai mở những con đường mới với
nguy cơ có thể bị lạc hướng. Vì thế, cần phải táo bạo, mà cũng cần phải nghiêm
túc cẩn trọng, và cả khiêm nhường nữa để sửa sai. Thật ra, vùng ngoại biên là
chân trời được thúc bách, Thừa sai phải tìm cách đi xa hơn mãi, không bao giờ
mãn nguyện với kết quả đạt được. Là người tiên phong, là nhà thám hiểm thiêng
liêng, Thừa sai cần sống ‘Linh đạo ham biết, ưa thử nghiệm,’ cố đi tìm cái mới
nơi lương dân, và tìm cách trao cho họ cái mới của Phúc Âm.”
Thuộc tính am hiểu: Phần diễn đạt
ý nghĩa của thuộc tính này sẽ không được trình bày trong phần viết ở đây, vì nó
trùng hợp với nội dung của đề tài: Chiều kích Tư chất Thừa sai, mà chúng ta sẽ
đề cập ở phần sau. Tuy nhiên cũng lướt qua một ý nhỏ về tầm quan trọng đối với
tính năng Am hiểu: Chúng ta biết rằng động lực để hiến mình vì Sứ vụ của Thừa
sai tất yếu phải khởi nguồn từ tình yêu nơi Thiên Chúa, vậy thì chúng ta sẽ yêu
Ngài theo cách thức như thế nào ? Câu trả lời là cả một chủ đề rộng lớn của các
nhà Thần học Tu đức và các chuyên viên về Chiêm niệm. Riêng đối với khoa Truyền
giáo học, một cách vắn gọn, các Vị chuyên trách huấn dạy thường khuyên chúng ta
nên nghiền ngẫm câu nói sau đây trong Phúc Âm: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi... hết trí khôn” (Mc
12, 30).
Thuộc tính Mẫu mực: Thật hiển
nhiên bởi vì công việc là phải tiếp xúc và quảng bá Lời Chúa cho tha nhân, người
ta có thể hiểu ngay, Thừa sai đến đâu thì cần được bách tính chấp nhận sự hiện
diện của mình và trở nên biểu tượng đạo đức ở nơi đấy. Tuy vậy cũng cần lưu ý một
điều: Ngày xưa, Thừa sai được coi như là anh hùng, nhưng ngày nay xem ra là kẻ
ít được thông cảm, lại còn có thể bị chế giễu là thuộc thành phần bảo thủ,
chuyên xúi giục người khác làm điều ngu si v.v... Nhất là thời buổi hiện tại,
trong lãnh vực Truyền giáo, người ta còn thấy đôi khi Thừa sai phải chịu ngay cả
anh chị em đồng môn, chung Đạo thẳng thừng lên tiếng chỉ trích trên nhiều mặt, ở
một số điểm như: thiếu thực dụng, không thức thời, vụng về trong việc mưu sinh
lợi ích cho kẻ khác v.v... Đối mặt với những nghịch cảnh như thế, theo thời
gian, Nhà truyền giáo phải chuyển hóa từ ác cảm để biến thành thiện cảm, và rồi
đến khi người ta có chấp nhận được con người mình thì lúc đó mới hy vọng họ
cũng đón lấy các đường hướng tâm linh mà mình muốn truyền đạt.
Kinh nghiệm của những
Vị đi trước đã truyền đạt lại và thấy có ghi chép trong một Giáo trình về tính
Mẫu mực của Thừa sai, xin được trưng dẫn vài nét cơ bản như sau: “Nhiều lúc Thừa sai phải sống một mình, cô
đơn, ở giữa những người không ai hiểu mình và không ai chia sẻ các giá trị của
mình..... Thế nên, những đường nét cần có trong tâm lý của người Thừa sai:
một tính tình quân bình hài hòa, mềm dẻo, biết rằng trừ Thiên Chúa ra, tất cả đều
tương đối, vì thế sẵn sàng nhường bước trên những gì gọi là yếu tố phụ thuộc để
rồi có thể giữ lại cẩn trọng những gì cho là cần thiết hơn. Không cực đoan
trong quan niệm, lập trường (chủ nghĩa), không cuồng tín trong Giáo thuyết. Phải
thể hiện hành động đầy can đảm nhưng không biểu lộ thách thức, lo giảng hòa,
quyết chịu đựng thay vì gây hại. Không khoe khoang, mà chỉ khiêm tốn nói lên sự
thật; biết đối thoại, dễ cởi mở đón nhận ý kiến người khác, có tài làm cho người
khác cảm thấy thoải mái khi tiếp xúc với mình; không lập dị trong các thói
quen; biết nhạy cảm trước thực trạng xã hội, văn hóa, tôn giáo v.v..., cũng như
biết lưu ý tới ''dấu chỉ thời đại'' mà Thần Khí dùng để tỏ cho thấy hướng Giáo
Hội phải đi. Cần có tính hài hước, và không ngả lòng khi gặp thất bại, hoặc kết
quả trái với ý muốn...”
Sau khi quan sát một
cách khá đa diện một số đức tính của Thừa sai như trên, giờ đây chúng ta mới có
thể cảm thấy được phép phát biểu một cách vắn gọn định nghĩa Thừa sai là ai? Đó
là những người nhờ được trang bị khả dĩ nơi mình 5 thuộc tính như đã trình bày,
rồi từ đó, bản thân họ mang tâm huyết muốn vâng phục Lệnh truyền Chúa Kitô và
quan tâm đến Phần rỗi tha nhân mà dâng hiến đời mình phụng sự Giáo Hội qua Sứ vụ
Loan báo Tin mừng. Ngoài ra chúng ta cũng cần nhắc lại cấu từ của chữ Thừa sai ở
phần định nghĩa Truyền giáo, Thừa sai: Thừa tác viên + Được sai đi, tuy nhiên
chúng ta cũng chấp nhận cách giải thích ngôn từ này nơi các tác giả khác. Tiếp
sau đây sẽ là phần trình bày về những chiều kích thuộc bản chất và đời hoạt động
của Nhà truyền giáo.
3. Tư chất của người Thừa sai
Khi nói về Tư chất
của một người là đề cập đến sức hiểu biết và khả năng phục vụ của người đó. Còn
tư chất nơi Thừa sai là những tính năng thuộc thực tại trần thế, nhờ đó họ có
thể đảm nhận để hoàn thành tốt phận vụ của mình trong sứ mệnh Giáo Hội giao phó
nhằm phục vụ và kêu gọi tha nhân ngoài Giáo Hội. Đồng thời cũng là những người
hội đủ điều kiện để đáp lại Lời mời gọi của Chúa Kitô một cách hiệu quả đối với
công việc lo cho Phần rỗi các Linh hồn.
Trước hết xin đề cập
đến Tư chất thuộc lãnh vực hiểu biết, nhờ trải qua quá trình đào tạo mà phát
huy được khả năng cũng như đáp ứng những đòi hỏi tất yếu trong khi thi
hành Sứ vụ. Yêu cầu theo quan điểm này, chúng ta có thể tìm thấy ý tưởng tương
thích nơi Tông thư Maximum Illud, số 22: “Trước khi bước vào đời hoạt động tông đồ của mình, người truyền giáo
phải có một sự đào tạo rất cẩn thận. Điều này đúng cả khi người ta có thể vấn nạn
rằng một người được kêu gọi để rao giảng Đức Kitô tại những nơi xa cách nền văn
minh thì không cần một trình độ giáo dục cao siêu. Đương nhiên, chắc chắn là đối
với việc cải hóa tâm hồn người ta, sự trau dồi nhân đức thì quí giá hơn là một
sự hiểu biết về những điểm tinh tế của văn chương. Tuy nhiên, nếu một người đã
không được cung cấp một vốn hiểu biết đáng tin, người ấy sẽ thường xuyên nhận
ra rằng mình đang thiếu những gì có thể là một tài sản quan trọng để thi hành một
cách hiệu quả công việc tông đồ của mình. Không hiếm trường hợp một người truyền
giáo rơi vào hoàn cảnh không có sách vở gì cả và không có cơ hội tham khảo ý kiến
một người khác có hiểu biết hơn họ. Nhưng họ buộc phải trả lời cho bất cứ luận
cứ nào chống lại đức tin được đặt ra cho họ và họ thường được yêu cầu phải trả
lời cho những câu hỏi rất khó. Trong những trường hợp như thế, họ càng chứng tỏ
có kiến thức bao nhiêu thì danh tiếng và uy tín của họ càng cao bấy nhiêu, đặc
biệt nếu họ đang đối diện với những người rất coi trọng trình độ hàn lâm và sự
hiểu biết. Trong những tình huống như thế, sẽ là một cú sốc bất thường khi chứng
kiến những người được ủy thác việc
truyền đạt Sứ điệp Chân lý ấy phải bị những thầy dạy lầm lạc đánh bại.”[5]
Thêm vào đó các tác
giả Truyền giáo học cũng lưu ý: “Trước
hết, Thừa sai phải là chứng nhân của Ðức Kitô, trung thực phản ảnh con người,
Giáo lý và hành động của Ngài qua chính đời sống bằng lời nói và việc làm của
mình. Tiếp đó, Thừa sai phải là Chuyên viên về Kitô giáo, bởi không ai cho được
cái mình không có. Nói cách khác: nhất thiết phải có đủ hiểu biết về Thần học
và Kinh Thánh với những bước tiến triển không ngừng nối đuôi nhau, biết về tình
trạng của Giáo Hội và các sáng kiến Mục vụ tại nhiều nơi trong thế giới.....Tích
cực hơn, Thừa sai phải kiên trì nhắm vào tiêu đích chủ yếu là quy tập và đào tạo
những môn đệ mới cho Ðức Kitô. Ðể được vậy thì cần phải dùng đến một số công cụ
như: Trước tiên là ngôn ngữ, cần phải thạo tiếng địa phương để giao tiếp với những
người mình gặp gỡ giữa môi trường làm việc, phục vụ, nhất là ngôn ngữ riêng của
một dân tộc. Vì được quan niệm phổ quát như là người thuộc giới trí thức, Thừa
sai có bổn phận phải học biết đầy đủ kiến thức về văn hóa, tôn giáo, lịch sử,
phong tục, phẩm trật giá trị v.v... của môi trường hoạt động. Lý tưởng là biết
suy tư và lý luận với những phạm trù bản xứ, làm sao để có thể diễn đạt Mầu nhiệm
Ðức Kitô một cách dễ hiểu và quen thuộc đối với người bản xứ.”
Những ý tưởng đề cập
bên trên, liên quan đến tư chất có được là nhờ hấp thụ qua sự huấn luyện, tuy
nhiên người ta cũng còn xét đến tư chất do tính bẩm sinh của con người Thừa sai
nữa. Trước tiên, họ là những kẻ được hình tượng nên sau một quá trình uốn nắn,
giáo dục nơi gia đình và môi trường lý tưởng; từ trong tiềm thức sâu xa, vì sống
ở hoàn cảnh thiện hảo, họ có được lòng nhân ái vượt trội để bị cuốn hút vào nỗi
bận tâm lo cho mọi người. Lòng nhân ái của Thừa sai, là biết thường xuyên quan
tâm tới cuộc sống tiện ích chính đáng và những nỗi âu lo nơi thân phận làm người
của tha nhân. Không vì mục tiêu vị lợi, nhưng lại gánh vác nỗi buồn từ cái buồn
kẻ khác, đem đến niềm vui trọn vẹn cho những ai khi mà họ chưa thể với tới; tóm
lại, trọng tâm của lòng nhân ái là tận tụy chăm lo cuộc sống an bình và đáp ứng
những biểu lộ tình cảm nơi con người mà mình tiếp cận. Nhờ đó dẫn đến hệ quả
sau cùng là, Thừa sai hiểu được cách làm sao để mãn nguyện sự mong chờ Niềm
hạnh phúc từ Chân lý mà tha nhân chỉ vừa loáng thoáng nhận ra một cách chưa tỏ
tường. Có vậy, mới chính là lối diễn đạt đúng ý nghĩa của vai trò Thừa tác viên
Tin mừng. Nguyên tắc mà Thiên Chúa luôn mời gọi nơi các Chứng tá, là hãy tận dụng
những thực tại trần thế để quy hướng cho mọi người thấy được giá trị bền vững
Trên Trời.
4. Tiêu chí phẩm hạnh nơi Thừa sai
Người Thừa sai đón
nhận câu Kinh Thánh sau đây để nhận thức về yếu tố phẩm hạnh cho cuộc đời hoạt
động Tông đồ của mình:“Anh em là những
người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy
có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại” (Cl 3,
12). Xét về Phẩm hạnh của một người là xem đến tư cách đạo đức của con người
ấy, một dạng đạo đức có đủ sức mạnh để lan tỏa nét đẹp cao quý từ nhân phẩm
mình truyền sang cho người khác. Khi nói đến phẩm hạnh của một cá thể thì người
ta không liên tưởng đến bản năng bẩm sinh mà họ có được do hoàn cảnh hấp thụ tự
nhiên ở môi trường lớn lên, nhưng nó được kết tủa từ sự ý thức và tự tôi luyện
bản thân sau quá trình dài phấn đấu.
Trong giáo trình
Truyền Giáo Học của tác giả Gomez, khi bàn về: Thừa tác viên sứ mệnh Truyền
giáo, có đề cập vài ý tưởng như sau: “Làm
Thừa sai thì phải để ý đến một số điều kiện tự nhiên, tức những khả năng thích ứng
với môi trường hoạt động. Sức khỏe cần ở một nơi nhưng có thể không cần cho lắm
ở một nơi khác. Tính tình là điểm cần phải đặc biệt lưu ý: trước hết, cần phải
biết kiên nhẫn và khoan dung, phải biết tránh phán xét những điều mình không hoặc
chưa hiểu, rồi phải biết ý thức là còn có rất nhiều điều mình không hiểu trong
văn hóa, phong tục, tính tình, v.v... của dân nước mình mới tiếp xúc; có
như thế thì mới khỏi rơi vào tệ trạng hiểu lầm. Cần giữ phong thái hiền
lành, dễ mến, dễ thu nhận; biết lắng nghe trước khi nói và nghe nhiều hơn nói;
biết mềm dẻo thích nghi với từng hoàn cảnh; ít có nhu cầu riêng tư”.
Tương tự, về thái độ
biết xem xét và lắng nghe kẻ khác cũng được đặt ở tầm mức quan trọng đối với phẩm
hạnh Thừa sai, Đức Phanxicô lưu ý chúng ta: “Nhà thuyết giảng cũng phải biết lắng nghe công chúng, để khám phá ra
những ý tưởng mà người tín hữu cần am hiểu. Cũng như Vị thuyết giảng tất phải
chiêm niệm Lời Chúa, và cũng vậy, Thừa sai cũng cần chiêm ngắm nhu cầu của người
nghe. Bằng cách này, họ mới có thể khám phá ra những nguyện vọng, những sự
phong phú và những hạn chế, những cách thức cầu nguyện, yêu thương; để khám phá
mối quan tâm về cuộc sống, về thế giới ở điểm này hoặc điểm khác nơi cõi nhân
sinh; cũng để hiểu và cảm thông nỗi âu lo thiết thực nơi công chúng và để hiểu
được điều nghi vấn mà người nghe muốn đặt ra.”[6]
Một đặc điểm tiêu
biểu về phẩm hạnh của Thừa sai là phải biết chấp nhận hy sinh trong cuộc sống,
về quan điểm này Đức Phanxicô cũng có đôi lời huấn dạy: “Người môn đệ cần biết cách dâng hiến trọn đời
mình và đón nhận dấn bước cho tới ngay cả chặng đường tử vì đạo, như một nhân
chứng của Chúa Giêsu Kitô; niềm ước mơ của họ không phải là để có nhiều kẻ thù,
mà đúng nghĩa hơn là để cho Lời Chúa được đón nhận và bộc lộ sức mạnh giải thoát
cùng với việc canh tân con người”[7]. Để
khởi đầu đúng đắn cho tinh thần hy sinh, cách chung người Thừa sai cần vun tưới
đời sống tu đức bản thân theo một vài tiêu chí cơ bản như sau:
- Biết hoán cải:
“Một khi gia nhập cộng đồng Giáo hội, họ
sẽ hết sức thất vọng nếu phải chứng kiến những người mà thể hiện một sức sống
thiếu sốt mến và chẳng có dấu hiệu gì là mới mẻ cả! Chúng ta không thể rao giảng
việc ăn năn hoán cải, trừ phi chính chúng ta biết tái ăn năn hoán cải mỗi ngày.”[8]
- Thái độ
khiêm tốn: “Ðối với Chúa, Thừa sai là tôi
tớ, là chứng tá; như thế có nghĩa: Sứ điệp mình mang theo là sứ điệp của Chúa,
vườn nho mình vun trồng là vườn nho của Chúa luôn; mình chỉ là tôi tớ vô dụng,
không đáng kể. Từ đó phát sinh thái độ khiêm nhường và an bình phó thác: nếu
thành công là nhờ ơn Chúa, nếu thất bại thì... Chúa cũng hiểu cho, Ngài cũng có
cách bù đắp; nhiệm vụ mình là gieo giống, chỉ mình Chúa làm cho trổ sinh hoa
trái (1Cr 3:6)”.[9]
- Biết quên mình: “Đời sống thiêng liêng Thừa sai cần mang nét
Linh đạo Tự hủy, có nghĩa là phải đón nhận tình trạng cụ thể của cuộc đời với tất
cả những giới hạn trong môi trường truyền giáo xa lạ, theo mẫu gương Ngôi Lời
nhập thể. Cũng có nghĩa là phải cởi bỏ chính mình cùng với những nhân
tố cấu tạo căn tính của mình: cởi bỏ thân phận (ông Tây, quý Cha, Nhà trí thức,
Đấng đại diện v.v...), các thứ thành kiến đủ loại, cởi bỏ văn hóa, cởi bỏ lề lối
đã quen, cởi bỏ ý riêng, dự án, phương pháp sẵn có.... để đi theo đường lối của
Thần Khí.”
- Là người quảng đại
và dễ tha thứ: “Vì lý do khôn lường, theo
kế hoạch của Chúa Cha, việc Cứu độ con người phải trả một giá rất cao... Trong
lãnh vực Loan báo Tin Mừng, cũng phải đi qua ngõ hẹp, con đường thênh thang
không đưa đến sự sống (Mt 7, 13-14): “Lời Thập Giá” thì bao giờ cũng khó nghe,
chướng tai, nhất là đối với dư luận ngày nay, cả đến trong Giáo hội. Trong “văn
minh của thành công,” Ðức Giêsu bị coi như là một kẻ thất bại. Người được sai
đi giảng Tin Mừng, phải luôn luôn suy niệm về lời báo trước của Thầy mình: Trò
không hơn Thầy, họ đã làm cái gì với Thầy thì cũng sẽ làm với các con như vậy
(Mt chương X). Nhưng nếu thừa sai đảm nhận sứ mệnh của Ðức Kitô, thế tất cũng
phải nhận lấy cùng một số phận của Ngài.”
- Đón lấy tinh thần
khó nghèo: Là tiêu chí đầu tiên trong 8 Mối phúc thật; nhờ chấp nhận cuộc sống
này mà giúp Thừa sai được tinh luyện để trở nên giống Chúa Kitô hơn, đồng thời
được thông phần vào con đường Thập giá của Ngài.
Ngoài ra, để cho mọi
nỗ lực hoạt động của mình đi đến hiệu quả thì vấn đề cung cách ứng xử trong
giao tế, lời ăn tiếng nói cũng phải bộc lộ vẻ đẹp Đắc nhân tâm. Trong khi quan
tâm đến chuyên đề Hội nhập văn hóa, không ít tác giả đã lưu ý chúng ta về đức
tính này. Muốn tỏ ra là người thành tựu trong lãnh vực thu hút lòng người thì
phải trải qua quá trình ý thức, tìm hiểu và luyện tập; thật khó để phát biểu: Một
kẻ được nhiều người mến chuộng về phong cách là do tính bẩm sinh tự nhiên của họ
mà có.
5. Người sống khuôn mẫu theo Kinh
Thánh
Phần lớn chúng ta
thấy có một số Vị theo học Kinh Thánh khoa bảng là để dùng vào mục đích truyền
dạy lại môn ấy hoặc để thêm hiểu biết nhằm hỗ trợ, giúp ích trong việc giảng huấn,
tu đức v.v... Đối với người Tin lành, thái độ chuyên tâm trau dồi và quảng bá
Kinh Thánh đôi lúc, ở một số thành phần, dùng để biểu lộ cách thức gần có vẻ đấy
là một công cụ: dường như họ lý giải cho sự đối kháng trong quá khứ ly giáo của
họ. Vai trò Kinh Thánh đối với Thừa sai thì khác hẳn, cần phải được xuất phát từ
lòng ước muốn sống theo Lời dạy, vì lẽ đó mà nên chuyên tâm tìm hiểu thấu đáo để
áp dụng vào thực tiễn cho thật đúng đắn. Không chỉ am tường nội dung phong phú
của Kinh Thánh, không chỉ có khả năng nhạy cảm để giải thích, chia sẻ Lời Chúa
cho người khác, không chỉ tâm niệm đôi điều dạy bảo trong đó rồi áp dụng thực
thi vào cuộc sống một cách giản tiện. Chỉ chừng ấy thành tích liên quan đến việc
sống Lời Chúa như vậy thôi thì chưa đủ. Trong hoạt động Sứ vụ Loan báo Tin mừng,
một chuyên viên Kinh Thánh thì phải hiểu được giá trị hệ quả của Tin Mừng mà
khiến cho họ đi đến việc đánh đổi lợi lộc, tham vọng, quyến rũ thế gian để nhận
thức ra được Tình yêu và Chân lý thuộc cảnh giới Nước Trời, từ đó quyết tâm đón
lấy một cuộc sống xứng hợp với Lời dạy trong Kinh Thánh. Đồng thời chính nhờ thế,
Thừa sai mới hội đủ điều kiện đảm nhận vai trò công bố Tin mừng cho muôn dân.
Theo chỉ dạy trong
giáo trình Truyền giáo học thì: “Thừa
sai là: Người của Lời, là người báo tin, là chuyên viên công bố Lời Chúa, do vậy
tất nhiên Kinh Thánh phải là sách cẩm nang của Thừa sai. Trong Kinh Thánh, Thừa
sai gặp được chính Lời mà mình có sứ mạng phải chuyển đạt và cũng chính mình là
tiếng vọng. Lời ấy là ánh sáng soi đường đi, là bánh nuôi sống cho đời sống
thiêng liêng, là suối dẫn nước đến cho tâm hồn khát uống, là nguồn ủi an mọi kẻ
sầu khổ v.v... Hơn bất cứ Kitô hữu nào khác, Thừa sai là môn đệ và, vì thế, phải
biết lắng nghe, như Người Tôi tớ Giavê: ''Ðức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi
nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.
Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người
môn đệ'' (Is 50, 4). Nếu việc tông đồ là Contemplata Aliis Tradere, chia sẻ cho
người khác những gì thu lượm được từ trong chiêm niệm, thì Thừa sai cũng phải
biết kín múc từ Kinh Thánh nội dung của cầu nguyện, của chiêm niệm, biết ‘nghe’
Chúa nói và ‘thấy’ Chúa làm, để có thể ‘làm chứng’ về Người trước mặt muôn dân.
Có nghiền ngẫm Kinh Thánh để cho Lời Chúa thấm nhập vào tâm can thì mới có thể
tự phát thốt ra Lời ấy.”
6. Đời sống Chiêm niệm đối với Thừa
sai
Sống chiêm niệm là
một chiều kích chính yếu trong đời hoạt động của Thừa sai. Thật khó mà chấp nhận
khi thấy một Thừa sai không có một nhận thức gì về Chiêm niệm hoặc trong cuộc sống
không phản ánh được là mẫu người có mối mật thiết với tình yêu Thiên Chúa. Tuy
nhiên, vì đã có quá nhiều tư liệu đề cập một cách phong phú về khía cạnh này rồi
nên việc biên soạn nhận thấy không cần phải diễn tả điều gì thêm. Vì thật ấn tượng
với những lời huấn dạy của Đức Phanxicô, nên xin được trích dẫn trọn số 264
trong Tông huấn Evangelii Gaudium như là cách trình bày ý tưởng của phân mục: “Lý do đầu tiên thúc đẩy chúng ta Loan báo
Tin Mừng là tình yêu của Chúa Giêsu mà chúng ta đã nhận được, kinh nghiệm được
Người cứu độ là điều thúc đẩy chúng ta yêu Người mỗi ngày một hơn. Nhưng có loại
tình yêu nào mà không làm cho chúng ta cảm thấy cần phải nói về người mình yêu,
chỉ cho người khác thấy về Người, làm cho Người được biết đến không? Nếu chúng
ta không cảm thấy có ước muốn mãnh liệt để truyền thông tình yêu này, chúng ta
cần phải tạm ngừng lại trong cầu nguyện để cầu xin Người trở lại làm cho chúng
ta say đắm. Chúng ta cần phải cầu xin mỗi ngày, để ân sủng Người mở rộng con
tim giá lạnh của chúng ta và cải tổ cuộc sống hờ hững và nông cạn của chúng ta.
Hãy đặt mình trước mặt Người bằng một con tim rộng mở, hãy để cho Người ngắm
nhìn chúng ta, chúng ta sẽ nhận ra cái nhìn yêu thương này là cái nhìn mà
Nathaniel đã khám phá ra ngày Chúa Giêsu nói với ông: ''Tôi nhìn thấy anh khi
anh ở dưới cây vả" (Ga 1, 48). Êm dịu biết bao khi đứng trước một cây
Thánh Giá, hoặc quỳ trước Thánh Thể, và chỉ đơn thuần là ở trước mắt Người! Tốt
biết bao cho chúng ta khi Người trở lại chạm vào cuộc đời chúng ta và thúc đẩy
chúng ta truyền thông sự sống mới của Người! Vì vậy, kết cuộc là, "những
gì chúng tôi đã thấy và đã nghe thì chúng tôi công bố" (1 Ga 1, 3). Ðộng lực
tốt nhất cho quyết định truyền thông Tin Mừng là Chiêm niệm nó với tình yêu, đọc
chầm chậm những trang của nó và đọc bằng con tim của mình. Nếu chúng ta đến gần
Tin Mừng cách này, vẻ đẹp của nó sẽ làm cho chúng ta ngạc nhiên, và làm cho
chúng ta say đắm mỗi lần chúng ta trở lại. Vì vậy, thật khẩn cấp để phục hồi
tinh thần Chiêm niệm, là điều cho phép chúng ta khám phá ra mỗi ngày rằng chúng
ta là những người được ủy thác cho một gia sản, là điều nhân bản hóa chúng ta
và giúp chúng ta sống một cuộc sống mới. Không có gì quý giá hơn để truyền lại
cho những người khác.”[10]
7. Là kẻ có khả năng cho đi
Trong khi mô tả 5
thuộc tính của Thừa sai, người ta không thấy có đề cập đến yếu tố này, nhưng
lúc bàn đến bản chất hoạt động thì hẳn nhiên khó mà bỏ qua câu nói dân
gian, “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Thấu hiểu được Ý định Thiên Chúa:
Dùng thực tại trần thế để hướng đến những giá trị bền vững trên Trời, chúng ta
không thể thiếu quan tâm đến chức năng này của Nhà truyền giáo. Nếu như bạn
không có gì để “cho đi” thì cũng đừng hy vọng chi mà hướng cho ai thấy được cõi
phúc Thiên đường. Nhất là khi chúng ta, những người hoạt động để Loan báo Tin mừng, được
mời gọi ưu tiên quan tâm đến kẻ cùng khốn, như trong Tông huấn Evangelii
Gaudium Đức Phanxicô nhắc nhở: “Chúng ta
hiểu mệnh lệnh của Chúa Giêsu với các môn đệ: Các con hãy cho họ ăn (Mc 6,
37); và điều này bao gồm cả việc hợp tác để giải quyết những nguyên nhân cấu
trúc của nạn nghèo đói và thúc đẩy sự phát triển toàn diện của người nghèo,
cũng như những cử chỉ đơn giản nhất hàng ngày của tình đoàn kết khi đối diện với
đau khổ rất cụ thể mà chúng ta gặp.”[11]
Ngay cả trong Sắc lệnh
Công đồng Vatican II cũng lưu ý về tầm quan trọng của công việc Từ thiện và Bác
ái: “Ngoài ra, những nhóm người mà Giáo Hội
đang chung sống, thường bị thay đổi tận gốc vì nhiều lý do khác nhau, đến nỗi
có thể xuất hiện những hoàn cảnh hoàn toàn mới mẻ. Khi ấy Giáo Hội phải cân nhắc
xem những hoàn cảnh đó có còn đòi phải hoạt động truyền giáo nữa không? Ngoài
ra đôi khi có những hoàn cảnh làm cho trong một thời gian không thể trực tiếp
thi hành ngay Sứ mệnh rao giảng Phúc Âm: Lúc đó, các Nhà truyền giáo có thể và
phải làm chứng về Chúa Kitô trong nhẫn nhục, khôn ngoan, đồng thời trong tin tưởng
vững vàng, ít nữa là làm chứng bằng lòng bác ái và hành vi từ thiện; như thế là
dọn đường cho Chúa và làm cho Ngài hiện diện một cách nào đó.”[12]
Tuy nhiên, chúng ta
cũng xét đến cái để cho và cách cho, ví dụ trường hợp Cha Charles de Foucauld,
lịch sử ghi nhận Ngài hầu như không có nhiều vật chất để cống hiến, nhưng cuộc
đời san sẻ của Ngài là một tặng phẩm to lớn đối với dân cư miền sa mạc Sahara.
Dù rằng những kẻ chăm lo cho công cuộc Loan báo Tin mừng thì thường không có điều
kiện để tạo ra của cải vật chất hoặc có sẵn riêng tài sản dồi dào, nhưng trong
thực tế, chúng ta từng chứng kiến nhan nhãn những nỗ lực quyên góp từ những quới
nhân để có phương tiện phục vụ cho hoạt động này. Tuy nhiên, khi phát biểu Thừa
sai là các chuyên gia huy động nguồn cung cấp tài lực để thi thố phân phát lại,
thì xét thấy cũng hơi khó để mà khẳng định như thế. Song hành với việc kêu gọi
cống hiến vật chất, còn là nhận thức về bổn phận một cách chính đáng hoặc phân
định đâu là Thánh ý Thiên Chúa, thì mới tránh được nguy cơ lạc lối khi tiếp xúc
với quyền lực của cải thế gian.
Một cách suy nghĩ
khác, nếu có được một số phương tiện vật chất và cho rằng đấy là những thuận lợi
mà ý định Quan phòng gởi đến thì vấn đề: Phải sử dụng Ơn lành cho nên, sẽ trở
thành một mối quan tâm cần được xem xét thấu đáo. Người đời cũng thường phê
phán: “Của không trồng lòng không tiếc”; chính dựa trên nền tảng đạo đức
tuyệt hảo nơi con người Thừa sai mới có thể dẫn đến ý thức, phải tận dụng tiện
ích trần thế sao cho, đem lại hiệu quả tối ưu của công cuộc mở mang Nước Chúa,
một khía cạnh cần suy nghĩ mà cho đến nay những người thợ gặt cánh đồng Truyền
giáo lắm lúc còn hời hợt. Để tránh những thói quen chủ quan, Thừa sai cần trang
bị nơi mình những kiến thức về kinh nghiệm từ các bậc tiền nhân trong lịch sử để
tăng thêm sự ý thức và hiểu biết cặn kẽ tính chính đáng của vấn đề. Những bài học
về cuộc đời Đức Cha Lambert de la Motte, Giám mục Bá Đa Lộc, Cha Charles de
Foucauld v.v... là những gương phản ánh về nét tích cực lẫn tiêu cực đối với mối
tương quan giữa nhu cầu phương tiện và công việc Truyền giáo, mà chúng ta không
thể xem nhẹ và bỏ qua.
Một khi càng có nhiều
lợi thế về vật chất thì Thừa sai càng phải sống đời Chiêm niệm một cách mật thiết
với những gì thuộc cảnh vực Thiêng liêng, nhất là việc chú tâm trau dồi Đức mến.
Như thế mới có thể biến hóa những điều mình đang phục vụ mang tính trần thế, sẽ
hy vọng dẫn đưa tha nhân đến chỗ nhận thức được nguồn Ân phúc đích thực. Nên
luôn ý thức rằng, cuộc đời tận hiến trong thánh thiện nơi chính con người Thừa
sai thì phải quan trọng hơn là thái độ hào phóng với cái của chóng qua đời này.
Xin được trích một ý tưởng của những Nhà truyền giáo đi trước: “Thừa sai phải sống đời cầu nguyện để có thể
khẳng định điều phát biểu mà không sợ là kẻ nói dối, mới có thể trung thực về
kinh nghiệm gần gũi với Chúa. Người thông thái tài cao học rộng hẳn phải có, tổ
chức bác ái từ thiện cũng thật cần, nhưng lãnh vực ‘chuyên nghiệp’ của Thừa sai
là nội tâm, là chiều kích siêu nhiên của con người. Giả dụ Thừa sai có nhiều
tài năng, sẵn sàng dấn thân hữu hiệu cho công tác mở mang, cùng thể hiện tiến bộ
về mặt kinh tế và văn hóa, mà thiếu đi chiều kích siêu nhiên, thì e rằng việc
làm của Thừa sai: chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng.... Giả
như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu
thiêu đốt, mà không có Đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi (1Cr 13, 1-3). Có
đời sống thiêng liêng đâm rễ sâu trong Thần Khí, Thừa sai mới tránh được cám dỗ
khiến cho dẫn đến làm những điều chẳng khác gì những trò múa rối...”.
8. Chứng nhân rao giảng Tin mừng
Ngay trong tên gọi
Sứ vụ đã hàm ý này rồi vì nó mang cụm từ “Loan báo Tin mừng”. Do vậy, yêu cầu
đòi hỏi của việc Rao giảng trong khi thi hành Sứ vụ là điều bất khả phân ly đối
với Thừa sai, như lời trong Thư Thánh Phaolô: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ
không được nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được
sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng.....
Ấy vậy, có Đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức
Kitô.” (Rm 10, 14-17).
Tuy nhiên, trước
khi rao giảng bằng lời nói thì Nhà truyền giáo đã là người rao giảng bằng đời sống
Chứng nhân, điều ràng buộc mấu chốt không thể khác hơn. Từ hành vi cử chỉ đến
cung cách phục vụ phải làm tiền trạm cho những gì mà mình sẽ dùng lời tương
thích để thu phục nhân tâm kẻ khác. Giả như đặt ra 3 yêu cầu cơ bản đối với Thừa
tác viên rao giảng thuộc chức năng Chăm sóc Mục vụ, là phải soạn thảo bài giảng
kỹ càng trước; phải suy xét nội dung sao cho phù hợp với tầm mức tiếp thu của
người nghe, và cuối cùng là, phải kiểm điểm lại bản thân để coi, có nét gì
tương phản lộ rõ với chủ đề mà mình sắp truyền đạt. Thì Thừa sai cũng vậy, phải
xét duyệt lại chính con người mình cách nghiêm nhặt trong suốt quá trình dài của
đời sống làm Chứng nhân và rao giảng Tin Mừng.
Với những ý tưởng vắn
gọn như vừa trình bày bên trên, thiết nghĩ chừng đấy cũng là khuôn khổ ranh mức
để bài viết có thể được phép diễn đạt. Mặc dầu chức năng Rao giảng Lời Chúa đối
với đời hoạt động Thừa sai thật sự là bao la, nhưng khi đề cập đến mô phỏng
phương hướng thực thi công việc này cho cụ thể, thì xem ra việc biên soạn cần
suy xét, cũng không nên dẫm chân hơi sâu vào lãnh vực Thần học Thánh kinh và Đường
hướng Mục vụ của các Vị chuyên môn đảm trách lo việc giảng huấn thuộc chuyên đề
này.
9. Luôn đồng hành cùng với Mẹ Maria
Nội dung phân mục
này không liên quan đến việc mô tả về bản chất con người hay phong cách hoạt động
của Thừa sai, nhưng chỉ nêu lên đôi nét hướng tới mối tương quan giữa Mẹ chúng
ta đối với cuộc đời phục vụ mà kẻ Được sai đi cần luôn ý thức gắn bó. Hầu hết
cuối mỗi Tông huấn Giáo Hoàng thuộc chủ đề Loan báo Tin mừng cũng đều có diễn đạt
về vai trò đồng hành của Mẹ trong Sứ vụ. Và ngay cả trong những giáo trình Truyền
giáo học người ta cũng thường thấy các tác giả có luận bàn đến mối dây thân thiết
giữa phương thức Truyền giáo và lòng cậy trông vào Mẹ Maria. Dường như mọi người
đều tin tưởng rằng, khi nhận lấy Sứ mệnh cao cả này thì họ cũng mang ý thức sẽ
cùng Mẹ để đem Ơn Cứu Độ đến cho muôn dân. Bài biên soạn có nhã ý xin nhường lời
cho các Nhà thần học về Thánh mẫu học để triển khai thêm ý tưởng này, về những
gì liên quan đến hoạt động Sứ vụ và quá trình thi ân giáng phúc mà Mẹ đã tác động
đến công trình kỳ diệu của Giáo Hội. Do vậy nếu thuận tiện, chúng ta sẽ cố gắng
tìm dịp tham khảo chuyên sâu hơn nơi các tư liệu để hiểu thêm mối tương quan giữa
lòng tín thác vào Mẹ Maria và việc thi hành Sứ vụ Truyền giáo. Sau đây tối thiểu
cũng xin được đề nghị vài khía cạnh nhỏ để tạm gọi là ít nhiều bày tỏ thiện ý
liên tưởng đến hành trình Loan báo Tin Mừng của Thừa sai mà tâm hồn vẫn hướng về
Mẹ.
-
Sống Chiêm niệm với Tình yêu Mẹ dành cho Giáo hội và các hoạt động sứ vụ Thừa
sai: Những đoạn có liên quan về Mẹ được thuật lại trong Phúc Âm, đặc biệt Thánh
thi Magnificat, sẽ là những đề tài dẫn dắt chúng ta đi vào Chiêm niệm trong
chuyên đề này. Tất nhiên những buổi Chiêm niệm thường chỉ được khởi sắc trong
thánh thiện khi mà ở đời sống thường ngày, Thừa sai luôn ý thức sự hiện diện
Tình yêu của Mẹ luôn kề cận bên mình.
-
Siêng năng lần hạt Mân côi.
-
Hành hương đến những nơi, theo truyền thống từng có sự hiện diện của Mẹ trong
quá khứ. Hoặc có thể ghé chân qua các khu vực Thánh thiêng mà ở đó, thường
xuyên qui tụ đông đảo cộng đồng Dân chúa, họ đến với Mẹ với muôn vàn nguyên do,
từ đó cũng vấy lên đời sống đạo đức lan tỏa đến vùng kề cận. Suốt quãng đời phục
vụ Thừa sai nếu hoàn toàn thiếu những dịp ghé chân qua các hiện trường như mô tả
thì xem ra cũng có phần thiếu sót.
10. Ý tưởng đúc kết
Không ít các tư liệu
thuộc chuyên đề này đều có đề cập về chức năng Thừa tác viên trong Sứ vụ Loan
báo Tin mừng, nó là điều gì cốt lõi đối với vai trò của Nhà truyền giáo. Tuy
nhiên, còn có một nhận thức khác kèm theo mang một ý nghĩa khá đậm nét, để miêu
tả tính chất đặc thù của quá trình hoạt động Thừa tác viên Loan báo Tin mừng:
đó là Thừa tác một chiều. Xin được phép tranh thủ thuật lại một mẩu chuyện ngắn
có thật để minh họa cho tĩnh từ “một chiều”.
Một Giáo dân nọ thường
xuyên mỗi Weed-end đến Giáo xứ để phụ trách công việc trùng tu cơ sở sinh hoạt
của Họ đạo. Vị Linh mục Quản xứ cũng hơi ngỡ ngàng và thán phục anh ta về thái
độ tận tụy làm việc mà còn tỏ ra vâng phục cách chính đáng nữa. Một hôm nọ
trong bữa cơm thân mật, anh thưa với Cha sở: “Thưa Cha, người Cha ruột của con qua đời không lâu trước khi con bắt đầu
đến làm việc tại Giáo xứ, thời gian qua con thấy sao mà Cha có nhiều nét tính
tình cá nhân có vẻ trùng hợp giống với Cha con lắm. Vậy xin cho con xem Cha,
ngoài đặc tính của người Cha linh mục trong Giáo hội, được coi như là người Cha
trần gian thay thế cho Cha ruột của con. Có điều, tình nghĩa phụ giữa chúng ta
chỉ là mối tương quan một chiều”.
Do vậy từ lúc ấy hệ
quả là, khi Vị linh mục có cần anh Giáo dân đó phụ trách công việc nặng nhọc
theo như tình huống cần thiết đòi hỏi, thì cứ xem mình trong vai trò người Cha
ruột, nên cứ sai bảo con để nó làm mà không cần e ngại gì đến sự nặng nhọc đối
với nó. Nhưng khi muốn biểu lộ đôi chút tình cảm trần thế, ví dụ chiết ra chút
ít quà cáp do các Giáo dân tặng biếu dư thừa đặng muốn cho riêng anh ta, thì tỏ
ra hết sức dè dặt, vì nghĩ rằng mình là Cha linh mục của một Họ đạo không được
phép thiên vị riêng tư, như vậy là không tốt.
Cũng thế, nếu như
trong vai trò Thừa tác viên Chăm sóc Mục vụ, sau khi thi hành bổn phận Thừa
tác, thì ít nhiều vị Giáo sĩ cũng sẽ được nhận cung cách đáp trả của chiều hướng
đáo lại, cụ thể như: Phẩm phục chuyên biệt, phương tiện ăn ở đi lại ưu đãi, hiện
diện trang trọng nơi lễ hội công cộng, sự cung kính của Giáo dân v.v... Càng rõ
nét hơn khi ta quan sát: Một Linh mục nửa đêm đến nhà một bệnh nhân để ban Phép
Xức dầu, thì liền sau đó, gia đình thân nhân của người bệnh sẽ có thái độ bày tỏ
tâm tình cung kính tri ân khá đặc biệt.
Một Nhà truyền giáo
thực thụ thì không bao giờ được liên tưởng đến mấy thứ hình ảnh đại loại như thế.
Nếu muốn có được ơn huệ của chiều hướng đáo lại thì xin hãy đợi, sẽ được tính
trong “Phần thưởng đời sau”. Mọi người đều công nhận, ngay cả một Giáo dân khi
tận tình cống hiến cho Sứ mạng Truyền giáo của Giáo Hội thì, theo Tông huấn các
Giáo hoàng, họ vẫn được xem là có dự vào Thừa tác vụ Hội Thánh, nhưng xin đừng
quên, đó chỉ là ở vai trò Thừa tác viên một chiều mà thôi.
Hiển nhiên sẽ còn rất
nhiều vấn đề khác nữa nhằm mô tả về các chiều kích hoạt động của Thừa sai. Dẫu
sao, những gì gọi là cơ bản ban đầu thì thông thường chỉ cần lưu tâm đến 6 chiều
kích: Tư chất, phẩm hạnh, Kinh Thánh, Chiêm niệm, tiềm lực Cho đi và kỹ năng
Rao giảng. Để kết thúc bài viết, một cách tóm gọn, xin được trích đoạn mô tả
tiêu biểu về Thừa sai trong Sắc lệnh Ad Gentes như sau: “Trong khi rao giảng Phúc Âm giữa muôn dân,
Nhà truyền giáo phải mạnh dạn và tin tưởng làm cho người ta nhận biết Mầu nhiệm
Chúa Kitô mà họ là sứ giả, đến nỗi trong Người, họ dám nói như phải nói, và
không xấu hổ về sự ô nhục của Thập giá. Theo gương Thầy mình, Ðấng hiền lành và
khiêm nhượng trong lòng, họ phải biểu lộ cho thấy ách Người êm ái và gánh Người
nhẹ nhàng. Họ phải làm chứng về Chúa của họ bằng đời sống Phúc Âm đích thực, đầy
kiên nhẫn, đại lượng, nhân hậu, yêu mến chân thành, và nếu cần, họ sẽ phải đổ
máu mình ra. Họ sẽ nài xin Thiên Chúa với lòng can đảm và sức mạnh để nhận
ra nguồn vui sung mãn trong nhiều thử thách khổ tâm và thiếu thốn cực độ. Họ phải
xác tín rằng đức Vâng phục là sức mạnh đặc biệt của những Thừa tác viên của
Chúa Kitô, Ðấng đã dùng sự vâng phục để cứu độ nhân loại.”[13]
Thực thi sứ vụ Loan báo Tin mừng trong bối cảnh Hội nhập Văn hóa
[3] Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Thừa Tác Vụ và Đời
Sống của Các Linh Mục Presbyterorum Ordinis, 14
[13] Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 24