THIÊN CHÚA TRONG THỜI ĐẠI VÔ THẦN
Tác giả: Leszek Kolakowski
Nguồn: firstthings.com
Chuyển ngữ: Tú Ân
Hiệu đính: Minh Đức & Thành Thi
WHĐ (3.8.2020) - Nếu có ai đó hỏi rằng: “Mọi thứ liên hệ với ‘Vấn đề
Thiên Chúa’ như thế nào?” thì nhiều người trong chúng ta sẽ có khuynh hướng trả
lời ngay lập tức rằng: “Liệu đó có phải là vấn đề thực sự hay không?”
“Dĩ nhiên là
không!” là câu trả lời của các nhà duy lý và khoa học cực đoan – những người
tuyên bố rằng không thể trình bày khái niệm về Thiên Chúa theo cách thức như một
lời giải thích có thể hiểu được, không mâu thuẫn và thuộc về lý trí. Trước khi
hỏi về “Vấn đề” đó, chúng ta buộc phải biết vấn đề đó nói về điều gì. Do đó,
chúng ta phải làm rõ khái niệm về Thiên Chúa trước khi đưa ra những phát biểu
như là “Thiên Chúa hiện hữu” hay “Thiên Chúa không hiện hữu” hay “Thiên Chúa có
hiện hữu không?”; như vậy những phát biểu ấy mới có thể được xem là những đối
tượng của suy tư. Tuy nhiên, điều này là không thể. Mỗi phát biểu trừu tượng về
Thiên Chúa hoặc là mâu thuẫn, hoặc không thể hiểu được như là một vấn đề nguyên
lý, bởi vì không có cách nào liên hệ những phát biểu ấy với thực tại của kinh
nghiệm. Bởi vậy, “Vấn đề” ấy trống rỗng.
Nhưng kể cả một số
tín hữu – nếu có những người như thế – cũng chẳng bao giờ băn khoăn về “Vấn đề
Thiên Chúa”, bởi vì niềm tin mà họ thừa hưởng vẫn luôn kiên vững và không thể
lay chuyển. Họ biết chắc rằng họ sống trong một thế giới được Thiên Chúa điều
khiển. Và đối với những linh hồn được tuyển chọn này, những người có được phúc
lành trải qua kinh nghiệm thần bí, thì có thể thuật ngữ “niềm tin” là không
thích hợp. Vì niềm tin chỉ hoạt động khi có một khoảng cách tăm tối nảy sinh điều
không chắc chắn giữa chủ thể và đối tượng của nhận thức. Trong kinh nghiệm thần
bí, tất cả mọi khoảng cách đều bị xoá bỏ. Do đó, một cách tự nhiên, những nhà
thần bí này không đặt ra cho chính mình câu hỏi về “Vấn đề Thiên Chúa”.
Ngay cả đối với
những người vô thần cực đoan – nếu có những người như vậy –, cũng không thể có
bất cứ câu hỏi nào về “Vấn đề Thiên Chúa.” Họ biết chắc rằng khoa học đã loại
trừ Thiên Chúa ra khỏi thế giới một cách đầy thuyết phục, và dung mạo của Thiên
Chúa chỉ là một diễn tả hoặc những gì còn sót lại của mê tín dị đoan và ngu muội,
hay một cơ chế phòng vệ về mặt tâm lý, hoặc những xung đột xã hội.
Tuy nhiên, thế giới
mà chúng ta đang sống không phải là một thế giới gồm những người hài lòng và
mãn nguyện bám chặt vào đời sống tin hay không tin. Nhưng giống như thời của những
người tị nạn hay lưu đày, “người Do Thái lang thang” đi tìm lại quê hương đã mất
– quê hương tinh thần hay cụ thể. Trong cuộc sống vô định này, chẳng có gì chắc
chắn, chẳng có gì bảo đảm, chẳng có gì bền vững, chẳng có gì – trừ việc đi lang
thang – là rõ ràng.
Một vị Thiên
Chúa, Đấng đã xác định trật tự chặt chẽ của các giá trị, các tương quan xã hội,
các quy luật tư tưởng và các vũ trụ vật lý, và là Đấng được coi là mái vòm vượt
lên trên trật tự này, giờ đây mái vòm ấy không còn nữa bởi vì chính trật tự ấy
cũng không còn thấy nữa. Bao lâu con người còn tin tưởng vào tính bền vững của
trật tự này, thì bấy lâu vô thần vẫn có chỗ đứng trong đó (Tôi chỉ đề cập đến nền
văn minh Kitô giáo châu Âu). Cho dù họ bị coi là sai lầm, điên khùng, hay là sứ
giả của hoả ngục, thì vị trí của họ trong trật tự thế giới được ghi nhận này vẫn
có thể giải thích được. Cho dù bị bách hại, bị cấm đoán, bị tuyên án tử hình, họ
vẫn cảm thấy hạnh phúc, bởi họ chắc chắn mình không những có chính nghĩa, mà cả
đời sống tinh thần cũng không vướng bận lo lắng.
Nhưng cùng với sự
xác tín của niềm tin, thì sự xác tín của không tin cũng bị đổ vỡ. Trái với thế
giới thoải mái xa xưa, được bảo vệ bởi Thiên nhiên thân thiện đầy thiện chí của
thời Khai sáng vô thần, thế giới vô thần ngày nay được quan niệm như một sự hỗn
mang đau đớn không ngừng. Nó bị tước mất hết mọi ý nghĩa, mọi hướng dẫn, mọi dấu
đường, và mọi cấu trúc. Zarathustra đã nói như thế. Hơn một trăm năm qua, từ
khi Nietzsche tuyên bố rằng Thiên Chúa đã chết, người ta hiếm khi nhìn thấy những
người vô thần vui vẻ. Một thế giới trong đó con người bị bỏ mặc với sức mạnh của
chính mình, trong đó con người tuyên bố chính mình là người ban luật tự do cho
mọi loại sự thiện cũng như sự dữ, trong đó con người – được giải thoát khỏi
thân phận nô lệ của Thiên Chúa –, đã hy vọng lấy lại những giá trị đã mất, thế
giới ấy đã biến đổi chính nó thành một nơi lo lắng bất tận. Sự vắng bóng Thiên
Chúa làm cho vết thương tinh thần của châu Âu ngày càng mở rộng hơn, cho dù vết
thương ấy đã bị lãng quên nhờ được gây mê nhân tạo. Đơn giản, chúng ta hãy so
sánh thế giới vô thần của Diderot, Helvétius và Feuerbach với sánh thế giới vô
thần của Kafka, Camus và Sartre. Sự sụp đổ của Kitô giáo mà thời đại Khai Sáng
hân hoan mong đợi đã diễn ra hầu như đồng thời với sự sụp đổ của chính thời đại
Khai Sáng. Trật tự mới mẻ rực rỡ của nhân trung thuyết vốn được xây dựng thế chỗ
cho Thiên Chúa bị hạ bệ đã chẳng bao giờ xuất hiện. Điều gì đã xảy ra? Tại sao
định mệnh của chủ nghĩa vô thần bị cột chặt với định mệnh của Kitô giáo một
cách kỳ lạ như thế, đến nỗi hai đối thù này luôn đi cùng nhau trong sự bất hạnh
và bấp bênh của chúng?
Lịch sử Kitô giáo
hiển nhiên để lại cho chúng ta những bằng chứng vĩ đại về sự thao thức thiêng
liêng vào những giai đoạn khác nhau: trong các tác phẩm của thánh Augustine khi
còn trẻ, của Pascal, và của Kierkegaard. Nhưng sự thao thức như là phẩm chất của
tinh thần tuyệt hảo, cái quidditas (yếu
tính) của nó, là dấu chỉ của thời đại và văn hoá của chúng ta, nó tồn tại và
phát triển thành một “cú ngoặt” sáng tạo mà mọi người chúng ta đều cảm nghiệm
như một điều đáng sợ – dù chúng ta không thể đồng ý về một phán đoán. Có phải
nguồn gốc của nỗi đau này là bị Thiên Chúa từ bỏ? Có phải Kierkegaard đã đúng
khi nói rằng mọi nỗi tuyệt vọng về những điều của trần thế này thực ra là – và
không nhất thiết là chúng ta phải ý thức được điều ấy – nỗi tuyệt vọng về Vĩnh
Cửu? Tất nhiên chúng ta không thể chứng minh được điều này, chúng ta chỉ có thể
nghi ngờ mà thôi.
Sự nghi ngờ này
không chỉ ám ảnh giới trí thức, triết gia và thi sĩ nhưng cũng ám ảnh cả giới
tinh thần châu Âu trong đời sống thường nhật của họ. Việc không ngừng gây đau
khổ và thi vị hóa đều bào mòn hai thái cực trong nền văn hóa tôn giáo – Kitô
giáo và vô thần; chúng ta cũng có thể thấy điều ấy đang phổ biến qua thái độ dửng
dưng trong đời sống thiêng liêng thời nay. Ngay cả khi người ta tỏ ra lãnh đạm,
sự trống trải khó chịu ấy cũng không che giấu hoàn toàn được. Đằng sau mọi
thành công và kinh nghiệm của chúng ta ẩn giấu một cảnh báo của sách Khải Huyền:
“Ngươi nói: Tôi giàu có, tôi đã làm giàu,
tôi chẳng thiếu thốn chi. Nhưng ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn,
đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng” (Kh 3, 17).
Người ta thường
nói rằng phong trào thế tục hoá phát sinh, một mặt từ tiến bộ của khoa học, mà
vai trò của nó đã lớn mạnh trong mọi lĩnh vực của đời sống chúng ta và Thiên
Chúa không còn chỗ đứng trong đó nữa, và mặt khác, từ sự bất lực của Kitô giáo,
cách riêng là Giáo Hội Công giáo, trong việc khắc phục các vấn đề to lớn của xã
hội theo sau công nghiệp hoá. Theo quan điểm này, Kitô giáo đã cho thấy mình thật
vụng về trước những xung đột và nhu cầu xã hội bởi vì đôi mắt của Giáo Hội cứ
luôn ngước nhìn trời và nhìn lên Chúa. Vì bị lãng quên, nên những gì thuộc trần
thế phải tự lo cho mình.
Đối với tôi chẳng
có điều nào trong quan niệm phổ biến này tỏ ra đáng tin. Về điều đầu tiên, rõ
ràng đúng là Thiên Chúa không phải là một giả thuyết thực nghiệm để có thể kiểm
chứng hay trình bày theo khoa học, hay sẽ được trình bày như vậy. Sự khiếm khuyết
của trí năng chúng ta trong vấn đề này là không thể tránh được. Không có con đường
tiếp cận logic xuất phát từ tri thức thực nghiệm, dù tri thức này có mở mang rất
nhiều, bất tận, mà lại không nói đến sự lĩnh hội tự giác của cá nhân đối với
Thiên ý Quan phòng. Suốt từ thế kỷ XVII, khi nghiên cứu khoa học tách mình ra
khỏi thần học và việc thờ phượng của tôn giáo, rồi quy chuẩn hoá các quy luật
tiến hành nghiên cứu của mình, thì người ủng hộ khoa học và những phương pháp nền
tảng của khoa học đã hoàn toàn dửng dưng với “Vấn đề Thiên Chúa.” Điểm thiết yếu
của việc quy chuẩn hoá này là làm cho các kết quả khoa học trở thành công cụ để
dự đoán, và qua đó, đặt các hiện tượng tự nhiên dưới sự kiểm soát của con người.
Việc Thiên Chúa
có thể bị đưa ra khỏi thế giới qua các phương tiện như vậy là hoàn toàn không
đáng tin, trừ phi người ta nhầm lẫn khoa học với chủ nghĩa duy lý khoa học. Chủ
nghĩa duy lý khoa học –tức là quy luật theo đó giá trị của tri thức được xác định
bởi việc áp dụng các quy tắc khoa học một cách rõ ràng– là một học thuyết nhận
thức luận mang tính độc đoán do các triết gia muốn phá hoại niềm tin tôn giáo
nghĩ ra. Chủ nghĩa khoa học không phải là một hệ quả hợp lý của khoa học, cũng
không phải là một hệ quả xã hội của khoa học, cho dù người ta vẫn thường cho đó
là hợp lý. Ngay cả nếu chúng phát triển song song với nhau, thì cũng không phải
vì khoa học sinh ra chủ nghĩa khoa học theo quan hệ nhân quả. Dĩ nhiên sự nối kết
giữa chúng không phải là ngẫu nhiên. Chủ nghĩa duy lý khoa học được đặt nền tảng
trên các nguyên lý mang tính quy phạm và diễn tả một trật tự cụ thể các giá trị.
Thiên Chúa bị loại ra khỏi nhận thức khoa học về thế giới, bởi vì nó loại trừ tất
cả những gì không cho phép sử dụng nó vào khát vọng làm chủ thiên nhiên của con
người.
Trong thực tế, cả
thần học Kitô giáo lẫn cấu trúc thông dụng của nó đều không vô tội khi nhầm lẫn
giữa tri thức thuần lý với đức tin, trong đó chúng cố gắng thuyết phục người ta
rằng người ta có thể dùng kinh nghiệm để khám phá sự công chính của Thiên Chúa
trong thế giới và có thể thoả sức khai thác Ngài với những nỗ lực và đam mê của
chúng ta. Quan điểm đi ngược lại Kitô giáo một cách chủ yếu này chính là điều
phải gọi là mê tín. Mê tín hệ tại việc quan niệm Thiên Chúa như một cỗ máy – mà
nếu áp dụng đúng kỹ thuật thì cỗ máy đó sẽ cho ra những hiệu quả mong muốn, ví
dụ như là cầu nguyện là một hoạt động kỹ thuật, nếu được thực hiện chu đáo cho
đủ, nó sẽ mang lại cho chúng ta những kết quả hoàn toàn như mong đợi.
Trong mức độ giáo
huấn Kitô giáo đẩy mạnh những thái độ mê tín như vậy, nó đóng góp một cách oan
nghiệt vào cái chết của chính nó. Điều này cũng áp dụng cho nền thần học tuyên
bố rằng mình thực hành “thần học khoa học” . Khi niềm tin ganh đua với khoa học
trong việc sử dụng cùng những tiêu chuẩn, nó bị chỉ trích là trở thành một khoa
học giả tạo mà những nỗ lực của nó luôn thất bại và những khẳng định của nó
luôn bị bác bỏ. Càng nhầm lẫn niềm tin với kiến thức thế tục, người ta – nhất
là những người có học thức – càng cảm thấy bị buộc phải giao phó niềm tin cho sự
mê tín định đoạt. Thế giới quan của Kitô giáo là và luôn là một cái nhìn sáng
suốt về định mệnh của con người. Trái lại, “thần học khoa học” là một mê tín.
Theo nghĩa này,
người ta có thể cho rằng chủ nghĩa duy lý khoa học có tác dụng chữa lành đối với
văn hoá, trong đó, nó góp phần vào việc gạn lọc mê tín của Kitô giáo và đưa
Kitô giáo trở về chỗ hiểu biết rõ hơn ơn gọi của mình. Chủ nghĩa vô thần và chủ
nghĩa khoa học củng cố lẫn nhau; điều đó khỏi cần nói. Nhưng một lần nữa, không
cái nào trong hai chủ nghĩa ấy được coi là sản phẩm thực sự của khoa học. Nguồn
gốc của cả hai có thể được tìm thấy rõ ràng hơn nơi các thực tại văn hoá, nơi
khuynh hướng của chúng ta xem thường tất cả những gì có vẻ như vô dụng đối với
đòi hỏi đầy tham vọng muốn làm chủ và khao khát chiếm hữu của chúng ta. Cơn khủng
hoảng niềm tin hiện nay trong khoa học và kỹ thuật khi đối diện với những hậu
quả nguy hại của nó có thể làm yếu đi những ý thức hệ của chủ nghĩa duy lý khoa
học. Tuy nhiên, chính cơn khủng hoảng cũng chẳng liên quan gì đến việc các chuẩn
mực của tri thức khoa học có giá trị hay không có giá trị.
Thế thì nói rằng
Kitô giáo phải chịu những mất mát to lớn như vậy bởi vì nó không “khoa học” đủ,
đối với tôi là một điều rất đỗi ngây thơ. Trái lại phải nói rằng: hễ khi nào
Kitô giáo muốn củng cố các giá trị “khoa học” của mình, thì chỉ dẫn tới một tri
thức giả tạo bất lực, và chính những đòi hỏi ấy gây ra những va chạm vô ích với
khoa học. Chính nỗi sợ của Kitô giáo – muốn khẳng định rằng mình đối lập rõ
ràng với chủ nghĩa duy lý –, đã dẫn tới chỗ không chỉ lòng tin bị xói mòn, mà cả
những cố gắng tấn công khoa học cách vô hiệu. Bởi vì ngay cả ý niệm về sự mâu
thuẫn giữa khoa học và đức tin cũng dựa trên một quan niệm về đức tin như là một
loại tri thức trần thế.
Điều tương tự
cũng đúng về lời chỉ trích thứ hai rằng Kitô giáo chỉ quan tâm đến các giá trị
thiêng liêng nên không màng đến cộng đồng trần thế và cũng chẳng cố gắng đi tìm
câu trả lời cho các vấn đề xã hội nghiêm trọng của thời đại. Với thái độ ấy,
Giáo Hội đã tự huỷ hoại chính mình. Nhưng liệu có đúng đắn hơn nếu khẳng định
quan điểm ngược lại hay không? Sai lầm của Giáo Hội ở tại thực tế này nhiều
hơn, đó là khi Giáo Hội gắn những khẳng định luân lý của mình một cách chắc nịch
vào một học thuyết xã hội cụ thể, vì khi làm như vậy, Giáo Hội đã tự mình hứng
lấy lời chỉ trích rằng Giáo Hội đã trộn lẫn các giá trị vĩnh cửu của mình với
các hình thức xã hội hiện đại – nghĩa là trộn lẫn thánh thiêng với phàm tục.
Tôi tin rằng có
những yếu tố có nền tảng vững chắc trong các cuộc công kích mà những người theo
chủ nghĩa xã hội thế kỷ XIX nhắm vào hàng phẩm trật Giáo Hội. Lập trường của
Giáo Hội khi đối mặt với sự thay đổi của xã hội và số phận của người nghèo và
người bị bạc đãi là đáng bị phê phán. Tuy nhiên, chúng ta sai lầm khi nói rằng
Giáo Hội chỉ nghĩ đến một thế giới khác, hay Giáo Hội cần tập trung nhiều hơn
và đời sống và những đau khổ trần thế. Trái lại, đúng hơn phải nói rằng Giáo Hội
bị gò bó quá nhiều trong những cơ cấu xã hội hiện tại, và thường đem lại cảm tưởng
rằng những cơ cấu này hoàn toàn dựa trên các giá trị Kitô giáo không thể thay đổi.
Kitô giáo luôn bị
đe dọa bởi cùng một cơn cám dỗ ấy, nhưng theo hai dạng thức trái ngược nhau. Nó
không bao hàm việc lãng quên trần gian, nhưng đúng hơn là lãng quên giá trị
tương đối không thể tránh được của những công việc trần gian. Cả hai dạng thức
này đều cổ vũ vô thần, trong đó, chúng dường như lập lờ về ranh giới giữa thánh
thiêng và thế tục –thậm chí loại bỏ ranh giới ấy. Nhưng không có điều nào của
thế tục –không phải với mục đích xã hội hay lý trí– mà người Kitô hữu lại cần
được chuẩn bị tốt hơn quyền lực thế tục để tự vệ. Tuy nhiên có lẽ nhiều người
Kitô hữu lại muốn tham dự vào những công việc của chính trị thế tục và những
xung đột xã hội, nhưng họ phải quan niệm mọi thiện ích thế tục là tương đối.
Nhưng Giáo Hội cũng không thể hoàn toàn phi chính trị, bởi vì xét cho cùng, nó
là một bộ phận của văn hoá. Vì thế, nó phải cảnh giác về việc từ khước đồng hoá
mình với bất cứ tổ chức hay phong trào chính trị hiện tại nào.
Những mối dây
ràng buộc xa xưa giữa Giáo Hội và trật tự xã hội trần thế thật nguy hiểm cho
Kitô giáo vì như những nỗ lực mới nhằm nối kết lý tưởng Kitô giáo với các ý thức
hệ chính trị của chủ nghĩa Mêsia cách mạng. Những khuynh hướng cũng chẳng đáp ứng
được hy vọng về một sự canh tân sức sống của sứ điệp Kitô giáo. Trong cả hai,
chúng ta cảm nhận cám dỗ xem nhẹ sứ điệp này so với các mục đích trần thế– tức
là cám dỗ biến Thiên Chúa thành một công cụ, một vật dụng sẵn sàng cho con người
sử dụng. Khuynh hướng thần quyền (tuy đã yếu đi nhưng vẫn chưa biến mất) – niềm
hy vọng thảm hại và bất thành rằng nhân loại có thể được cứu chuộc bằng việc cưỡng
ép – và cố gắng xem ra đối nghịch muốn hạ thấp các giá trị Kitô giáo xuống
ngang hàng với ý thức hệ giải phóng nào đó, chúng cùng nhau hoạt động theo quan
điểm căn bản của chúng. Cả hai biến Thiên Chúa thành một phương tiện của các mục
đích mà, dù có được biện minh hay không, thì cũng chẳng bao giờ được coi là mục
đích theo quan điểm Kitô giáo. Mỗi khuynh hướng ấy đều có nguy cơ biến cộng
đoàn Kitô hữu thành một đảng phái chính trị. Do đó, cả hai cho thấy Kitô giáo bị
xói mòn từ bên trong. Đó luôn là trường hợp mối đe dọa lớn nhất đến từ những kẻ
thù trong nhà.
Được mô tả một
cách khái quát như thế, tình huống này không có vẻ mới. Toàn bộ lịch sử giáo huấn
Kitô giáo có thể được xem như là một cuộc đấu tranh không ngừng vượt ra các
ranh giới giữa thiêng và phàm. Những cuộc cách mạng tinh thần mạnh mẽ nhất xuất
hiện như là những chia cắt trong lịch sử này thường là những nỗ lực ngăn chặn
tiến trình tục hoá (profanization), để
đưa Kitô giáo trở về ơn gọi nguyên thuỷ của mình, và nỗ lực chống lại việc Kitô
giáo thống trị bằng những lợi quyền thế tục. Những biến động như vậy không hề
là không phải trả giá và hoàn toàn thành công. Rốt cuộc mối nguy hiểm không hề
bị loại trừ, bởi vì nó nằm trong chính bản chất của Kitô giáo, trong sự căng thẳng
muôn đời giữa việc tự định nghĩa mình về mặt thiêng liêng và mặt thế tục. Giáo
Hội là và phải luôn là kho tàng ân sủng của Thiên Chúa và đồng thời cũng là một
tổ chức hiện hữu trong thế giới, được xác định về mặt văn hoá, đổi thay theo lịch
sử và hoạt động với các phương tiện của trần thế.
Chúng ta có Tin Mừng
làm chứng cho sự liên đới với người nghèo, người bị áp bức, người bất hạnh và
người không có khả năng tự vệ – chứ chúng ta không có một Tin Mừng loan báo lời
hứa về một thế giới không có sự dữ, không có đau khổ, không có xung đột. Chúng
ta có Tin Mừng lên án những kẻ sống trong tiện nghi hào nhoáng mà giả điếc làm
ngơ trước những đau khổ và đói khát ham của người túng thiếu – chứ chúng ta
không có Tin Mừng rao giảng về sự công bằng hay bất công xã hội, hay quyết định
phương pháp xây dựng một hệ thống xã hội hoàn chỉnh qua đó, mọi nhu cầu và khao
khát của con người đều được thoả mãn và không còn thất vọng. Chúng ta có Tin Mừng
lên án những kẻ bạo tàn và bách hại – chứ chúng ta không có Tin Mừng thoả hiệp
với một loại áp bức kẻ khác nhân danh những giấc mơ khải huyền. Một Kitô giáo
trong đó nó chấp nhận một cách kín đáo rằng Thiên Chúa luôn sẵn sàng trợ giúp
chúng ta, bảo vệ mọi thứ lý lẽ, học thuyết, ý thức hệ, hay đảng phái chính trị,
là một nền vô thần cải trang.
Theo nghĩa này
người ta có thể nói rằng cả khuynh hướng thần quyền cố hữu lẫn “chủ nghĩa cấp
tiến” Kitô giáo đã thúc đẩy việc giải trừ Kitô giáo (dechristianization). Điều người ta tìm kiếm trong tôn giáo – ngạc
nhiên thay – là Thiên Chúa, chứ không phải là việc biện minh cho các giá trị
chính trị hay những giải thích “khoa học” về thiên nhiên. Kitô giáo mà cúi đầu
trước các hình thức tư tưởng và chính trị để tìm kiếm những thành công nhất thời
là tự huỷ diệt chính mình. Nó không bao giờ có thể sánh ngang hay vượt lên trên
khoa học trong việc áp dụng các tiêu chuẩn khoa học vào giáo huấn Kitô giáo.
Không bao giờ có thể đứng ngang hay vượt lên trên lời hứa hẹn về hạnh phúc trần
thế được các ý thức hệ chính trị đưa ra, và nếu Kitô giáo cố làm như thế, chắc
chắn nó sẽ không tránh khỏi tỏ ra mình bất lực và không thích hợp. Kitô giáo
nhìn thấy định mệnh nhân loại trong ánh sáng Tin Mừng và sách Job – chứ không
phải trong các phạm trù mà chủ nghĩa không tưởng về thần quyền, kỹ trị hay cách
mạng đã xây nên.
Có thể – và dĩ
nhiên chỉ là suy đoán – việc bài Kitô giáo rốt cục sẽ cho thấy chính nó lại là
nguyên nhân phát sinh Kitô giáo. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu một Kitô giáo
thường bị coi là, một mặt, có quan điểm chính trị quyền lực và vận động ngoại
giao, mặt khác, cuồng tín và coi trọng hàng giáo sĩ, đã đến lúc mạt vận. Nhờ ăn
năn đau đớn để thanh tẩy cái lịch sử thế tục và nhẫn tâm, hẳn sẽ xuất hiện một
Kitô giáo đúng với tinh thần của mình. Có lẽ như vậy.
Phải nói rằng
Kitô giáo cần phải thay đổi ngôn ngữ giáo huấn của mình và thích ứng với những
biến đổi nơi nền văn minh. Nó đã làm như vậy hơn một lần mà không gặp những khó
khăn to lớn nào. Trong tiến trình thích nghi này, có nguy cơ là cứ mải tìm hình
thức mới, thì sẽ quên mất nội dung. Trường hợp cụ thể là châu Âu ngày nay gần
như đã điếc với ngôn ngữ đã thành quy ước của thần học. Trường phái Tôma có ý
nghĩa rất quan trọng trong lịch sử văn hoá, đó là điều không ai có thể nghi ngờ.
Nhưng là một khung khái niệm chúng ta dựa vào để lĩnh hội thế giới ngày nay,
thì nó lại gặp phải những hạn chế.
Vấn đề không phải,
như người ta thường nghe, là giáo huấn truyền thống thì “không thể nào hiểu được”
đối với con người thời nay. Chẳng có cơ sở nào để nói rằng chúng ta bỗng nhiên
trở thành ngớ ngẩn, rằng có những điều người thời Trung cổ dễ dàng hiểu được,
thì chúng ta lại chẳng hiểu gì. Chủ yếu nhất chính là khoảng cách giữa cuộc sống
thường nhật chúng ta cảm nghiệm và di sản khái niệm thần học. Việc tìm kiếm ý
nghĩa nơi trần thế không chỉ bắt đầu bằng việc phải quan tâm đến môi trường văn
minh –gồm tất cả các yếu tố– còn trật tự hay đã rối loạn, mà còn phải ý thức sự
hiện diện thường trực của sự Dữ đang thể hiện ra sao nơi số phận con người
trong những xáo trộn, đau khổ, lo lắng cụ thể thuộc nền văn minh này.
Chúng ta đã khẩn
cầu Thiên Chúa rời bỏ thế giới này. Ngài đã làm điều này theo yêu cầu của chúng
ta. Một lỗ hổng còn đó. Chúng ta liên tục cầu nguyện với lỗ hổng này, nhưng vô
ích. Không ai trả lời. Chúng ta giận dữ, thất vọng. Có phải đây là một bằng chứng
về việc Thiên Chúa không hiện hữu?
Đâu là điều mới mẻ
trong kinh nghiệm của chúng ta? Sự dữ? Nó luôn ở với chúng ta và phát xuất từ
chúng ta. Nó thực sự lớn hơn trước đây? Đôi khi chúng ta hỏi: Thiên Chúa ở đâu
trong Auschwitz, Kolyma, với tất cả vụ diệt chủng, tra tấn, chiến tranh, tàn bạo?
Tại sao Ngài vẫn cứ ung dung? Nhưng đó là câu hỏi dở. Ngoài thực tế rằng những
nỗi kinh hoàng tàn ác mà con người thực hiện chống lại đồng loại chưa từng được
biết đến trong mọi thời kỳ lịch sử, đó là tội diệt chủng, tàn sát người vô tội
và tra tấn dã man luôn xảy ra, sự dữ đó – sự dữ trong chúng ta – không bao giờ
ngưng hoạt động, chúng ta gài vào câu hỏi như vậy cái ý tưởng về một Thiên Chúa
phải có trách nhiệm làm phép lạ để bảo vệ con người chống lại sự dữ của chính
mình, phải làm cho con người được hạnh phúc dù con người đang tự gây thương
tích cho mình. Nhưng một Thiên Chúa hoạt động như một thế lực ma thuật để phục
vụ những nhu cầu thời thượng của chúng ta không bao giờ là Thiên Chúa của đức
tin Kitô giáo hay của bất cứ tôn giáo lớn nào – tuy nhiên cảm nhận về một Thiên
Chúa như thế vẫn thường thấy trong các tôn giáo dân gian. Nói cách khác, người
ta sẽ cho rằng các các vị tử đạo tiên khởi đã nhanh chóng đánh mất niềm tin của
họ, bởi vì Thiên Chúa đã không ban cho các ngài một sự trợ giúp kỳ diệu nào để
giúp họ thoát khỏi bàn tay của những kẻ bách hại. Niềm tin vào phép lạ dĩ nhiên
bao giờ cũng có, nhưng cũng được nhắc nhở rằng không phải lúc nào cũng chỉ biết
trông vào phép lạ.
Không, Auschwitz
và Kolyma không phải là nguyên nhân sinh ra vô thần. Nhiều người bị cám dỗ nghĩ
như vậy, cho rằng chỉ có những kẻ vô thần mới làm những điều quái ác như thế, họ
dùng luận điệu này để bảo vệ chính nghĩa của Thiên Chúa. Cám dỗ này thật nguy
hiểm vì lịch sử còn đầy dẫy sự tàn độc nơi bàn tay kẻ đạo đức.
Con người ngày
nay thấy sự dữ đang diễn ra trong thời đại mình thì không vì thế mà mất đức
tin. Cách họ nhận thức sự dữ đã cho thấy họ mất đức tin rồi, vì vậy nhận thức về
sự dữ và mất đức tin cùng củng cố cho nhau. Tình hình cũng như thế đối với những
người có đức tin. Họ nhìn sự dữ trong ánh sáng đức Tin, và như vậy chẳng lúc
nào đức tin của họ lại bị suy yếu, mà còn thêm chắc chắn. Như vậy, không thể
cho rằng sự dữ trong thời đại chúng ta làm cho người ta nghi ngờ sự hiện diện của
Thiên Chúa. Không có mối liên hệ tâm lý hay luận lý nào có đủ sức thuyết phục.
Điều tương tự
cũng đúng đối với khoa học. Cho dù Pascal rùng mình khi khám phá sự “im lặng
vĩnh cửu” của không gian vô tận của Descartes, thì sự thinh lặng lẫn ngôn ngữ của
Thiên Chúa đều thực sự ở trong tai của người lắng nghe. Việc Chúa hiện diện hay
không hiện diện là do tin hay không tin, và điều nào cũng cần được khẳng định bằng
tất cả mọi quan sát.
Ý nghĩa của trào
lưu Khai sáng vô thần vẫn chưa được bộc lộ hết, bởi vì, trước mắt chúng ta và
trong linh hồn chúng ta, sự sụp đổ của niềm tin già nua và trào lưu ánh sáng đều
mang ý nghĩa như nhau. Chúng ta có sống trong một “thời kỳ quá độ” không? Nói
như vậy hầu như là lặp lại không cần thiết: chẳng bao giờ trong lịch sử lại xảy
ra điều gì khác hơn là những thời kỳ quá độ. Nhưng chúng ta sẽ quá độ sang đâu?
Chúng ta không thể biết. Người ta có thể tuyên bố một cách khéo léo rằng thời kỳ
ánh sáng, cùng với tính chất vô thần của nó, là điều kiện dẫn đến các thành tựu
hiện đại hóa về tri thức và khoa học. Và “sự khó chịu đối với trào lưu Khai
sáng” giờ đây đã trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết.
Có phải Carl
Gustav Jung đã đúng khi nói rằng theo nguyên mẫu thần thoại, cái chết của Thiên
Chúa luôn đi trước sự phục sinh của Ngài? Do đó, chúng ta sống trong một thời
kinh khủng giữa thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa nhật Phục Sinh, trong thời kỳ đó Đấng
Cứu Thế, đã chết và chưa phục sinh, đang xuống ngục tổ tông? Chúng ta cũng
không thể biết được. Chúng ta chỉ biết chắc mình thật bất an.
Cuối cùng, một điểm
về sự trùng hợp ngẫu nhiên. Xem xét các sự kiện lịch sử được giả định như sau:
– Vào năm 490
TCN, quân đội Ba Tư được cho là đã tiêu diệt đội quân yếu hơn của người Athen ở
Marathon.
– Vào năm 40 TCN,
Julius Caesar 55 tuổi theo lời khuyên của nhà đoán số Spurinna đã không đi tới
Senate.
– Vào năm 33 SCN,
đám du thủ du thực ở Giêrusalem trả lời cho câu hỏi của Pontius Pilate nên tha
ai.
– Vào năm 1836,
Wolfgang Amadeus Mozart 80 tuổi qua đời tại Vienna.
– Vào ngày 22
tháng 12 năm 1849, một thanh niên Nga tên là Fyodor Mikhail Dostoevsky bị bắn
chết vì những hoạt động cách mạng của anh ta tại St. Petersburg.
– Vào ngày 30
tháng 8 năm 1918, Fania Kalpen bắn chết Vladimir Ilyich Lenin.
– Vào tháng 8 năm
1920, Marshal Pilsudski phạm một sai lầm nhỏ, kết quả là hồng quân đã chiếm được
Warsaw, sau đó là Ba Lan và Đức.
– Vào năm 1938,
Adolf Hitler qua đời vì đau tim.
– Vào năm 1963,
Joseph Stalin qua đời.
Tất cả điều này
có liên hệ gì đến Thiên Chúa?
Lịch sử được dệt
từ những trùng hợp ngẫu nhiên nho nhỏ. Điều này có nghĩa là nếu có một kế hoạch
và lý trí trong lịch sử, thì đó chỉ có thể là kế hoạch của Thiên Chúa và lý trí
của Thiên Chúa. Không một ai trong chúng ta có thể biết điều gì là tốt. Nhưng
chúng ta không thể mong mình sẽ từ bỏ khao khát muốn biết.
Sau khi chúng ta
đã nhận thức về sự trống rỗng những ngẫu nhiên của lịch sử, thì những ngẫu
nhiên ấy lại trở thành sự trống rỗng trong chính bản thân chúng ta. Phải chăng
tất cả điều này đều bình thường? Chắc chắn rồi. Nguyên nhân phát sinh lòng tin
và không tin đều bình thường, vì ở đâu cũng có.
Đối với người
không tin, mối bận tâm về Thiên Chúa là nỗi lo âu trá hình về thế giới. Đối với
người tin, mối bận tâm về thế giới là mối bận tâm trá hình về một Thiên Chúa mù
mờ. Tuy nhiên, đối với cả hai, thế giới chứa đựng nhiều điều bất ổn. Nói cho
đúng, đó là sự bất ổn cho thấy chiến thắng của vô thần và sự tự đắc của trào
lưu Khai sáng chẳng hề được bảo đảm hoặc hoàn tất. Cái gọi là chiến thắng thì bị
sự hàm hồ và nghịch lý phá huỷ hoàn toàn, còn những gì gặt hái được lại mang đến
quá nhiều hoài nghi mới, đến nỗi có thể nói chính xác rằng thời đại chúng ta hiển
nhiên là vô thần. Trào lưu vô thần đã luống cuống thay thế Thiên Chúa đã mất bằng
một cái gì khác. Chủ nghĩa nhân bản khai sáng đã đề nghị tạo ra một tôn giáo của
nhân loại. Nietzsche đã thấy rõ qua những thay thế giả tạo rất phù phiếm này.
Những học trò của Comte và Feuerbach trong thế kỷ hai mươi, chẳng hạn Erich
Fromm hoặc Julian Huxley, xem ra ít có sức thuyết phục hơn cả về vô thần.
Dĩ nhiên Thiên Chúa có thể bị gạt sang một bên như một mối nguy hiểm về
luân lý, bị từ chối vì lý trí không dung nạp nổi, và bị khai trừ vì là nguồn
phát sinh tình trạng nô lệ. Nhưng nếu Đấng Tuyệt Đối thực sự bị quên lãng, thì
người ta sẽ phải thay thế Ngài bằng một cái gì hữu hạn. Nhưng dĩ nhiên, Đấng
Tuyệt Đối không bao giờ có thể bị lãng quên. Và chính sự lãng quên Thiên Chúa lại
làm cho Ngài hiện diện, kể cả lúc khước từ Ngài.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN, số 100 (tháng 5
& 6 năm 2017)