THÊM LÒNG BIỆT KÍNH MẸ MA-RI-A NHÂN DỊP KỶ NIỆM MẸ HIỆN RA Ở FA-TI-MA
Lm. Giuse Tạ Huy Hoàng
WHĐ (3.10.2020)
1. Trong niềm
tin…
Với cái nhìn đức
tin vững vàng trong thời đại của lòng Chúa xót thương – ứng dụng cách uyển chuyển
vào kiểu nói “tên gọi đúng với nội dung”[1]
– chúng ta có thể nhận ra một ý nghĩa rất tích cực: các tước hiệu dành cho Đức
Mẹ Ma-ri-a như Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Đấng Bị Đóng Đinh, Đấng Phục Sinh…, sẽ tuyệt
vời hơn khi thêm vào một sự thật Mẹ là Đức bà Lòng Xót Thương, Đức Mẹ Lòng Chúa
Thương Xót (vì Đức Ki-tô Giê-su, Con của Mẹ, là mặc khải đầy đủ và tuyệt vời nhất
về Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót).[2]
Chẳng vậy mà, Đức Mẹ Ma-ri-a còn được gọi là Đức bà Lòng Xót Thương, Đức Mẹ
Lòng Chúa Thương Xót.[3]
Trong bối cảnh của
thời đại lòng Chúa thương xót – chúng ta cùng suy gẫm đôi chút về kỳ tích hiện
ra của Mẹ Ma-ri-a vì hòa bình cho nhân loại, vì lòng xót thương: Mẹ là “Mẹ
Fa-ti-ma… cầu cho chúng con”.[4]
Xin Mẹ Fa-ti-ma chuyển cầu bình an của Chúa Ki-tô Giê-su cho chúng con.
Thầy để lại bình
an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không
theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.(Ga 14,27)
Vâng, với mục
đích mang sứ điệp hòa bình chân chính đến cho nhân loại – là bình an của Thầy
Giê-su, (x. Ga 14,27-31) Con của Mẹ, từ đó làm xuất phát sự bình an đích
thực cho tâm hồn, cho nhân loại không còn phải “xao xuyến, sợ hãi”, cho thế giới
được cảm nếm hòa bình đích thực – Mẹ Fa-ti-ma đã hiện ra với ba trẻ Lu-xi-a,
Phan-xi-cô, Gia-xin-ta để trao sứ điệp: “Ăn năn đền tội và cầu nguyện là điều
kiện để bảo đảm cho nền hòa bình thế giới và sự bình an của mỗi tâm hồn”.
Vậy để mưu cầu
bình an cho tâm hồn, là nền tảng để kiến tạo hòa bình thế giới, việc thực hành
sứ điệp Fa-ti-ma chắc chắn không thể không hệ tại việc sống triệt để tinh thần
của Thánh kinh: (1) “Các ngươi hãy ăn năn sám hối, để được sống”; (Ed 18,32) (2) “Nếu các ngươi không
ăn năn sám hối, thì các người cũng sẽ bị chết như vậy”; (Lc 13,31) (3)
“Anh em hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã đến gần”; (Mt 3,2) (4) “Nếu
các ngươi không ăn năn sám hối, thì các người cũng sẽ bị chết như vậy”; (Lc 13,3)
và dĩ nhiên, còn phải thực hiện những điều thiện thuộc các mối phúc thật của Nước
Trời. (X. Mt 5,1-12a)
Nghĩa là, sứ điệp
Fa-ti-ma dẫn đưa con người tới một trọng tâm của Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô:
“Anh em hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. (Mt 3,25)
2. Một số kỳ tích
hiện ra của Đức Mẹ
Việc Đức Mẹ
Ma-ri-a hiện ra là một thị kiến mà một hay nhiều người cho rằng họ đã trông thấy
Đức Mẹ với những động thái hay ý hướng nhắm tới họ thông qua lời nói hay cử chỉ.
Theo đó, Đức Mẹ đã từng hiện ra tại rất nhiều nơi trên thế giới, và các kỳ tích
hiện ra như vậy thường mang tên chính nơi chốn xảy ra, hoặc tên do Đức Mẹ tỏ lộ
cho biết, hoặc từ khía cạnh kỳ tích hiện ra được miêu tả. Trong lịch sử hơn
2.000 năm qua, có hàng ngàn sự kiện được xem là kỳ tích Đức Mẹ hiện ra. Dẫu vậy,
chỉ có một số không nhiều trường hợp được Giáo hội chính thức công nhận. Còn một
số trường hợp khác, tuy không được chính thức công nhận, nhưng tín hữu được
Giáo hội cho phép sùng kính và lui tới hành hương.[5]
Khi ban hành “Những
chuẩn mực liên quan đến cách thức tiến hành cách phân định sự việc được cho là
những cuộc hiện ra hay mặc khải”,[6]
Bộ Đạo Lý Đức Tin (Sacred Congregation for the Doctrine of the Faith),
ngày 25 tháng 02 năm 1978, đã công bố tài liệu trên. Trong đó có đoạn: Vị giám
mục sở tại…
… có thể bắt đầu
một tiến trình do sáng kiến riêng của mình hay nhân vì lời xin của một tín hữu
để điều tra các sự kiện liên quan tới một vụ việc hiện ra. Giám mục có thể
không xem xét vụ hiện ra nếu muốn, đặc biệt khi nghĩ rằng câu chuyện sẽ không
đi đến đâu. Hội đồng giám mục có thể can thiệp nếu giám mục sở tại yêu cầu, hay
nếu biến cố trở thành quan trọng trên bình diện quốc gia, hay ít nhất trên bình
diện rộng rãi hơn một giáo phận. Cả Tòa thánh cũng có thể can thiệp, nếu có lời
xin của chính giám mục sở tại, hay do lời thỉnh cầu của một nhóm tín hữu, hay
do sáng kiến của Tòa thánh muốn điều tra vụ việc hiện ra nào.[7]
3. … được Giáo hội
chính thức chấp nhận
Một số kỳ tích Đức
Mẹ hiện ra sau đây đã được Giáo hội chính thức chấp nhận: (1) Đức bà Canh Giữ
(I-ta-li-a, 1490); (2) Đức bà Gu-a-đa-lu-pê (Mê-hi-cô, 1531);[8]
(3) Đức bà Laus (Pháp, 1664-1718); (4) Đức bà Cứu Giúp Champion (Hoa Kỳ, 1859);
(5) Đức bà Aparecida (Bra-xin, 1717); (6) Đức Nữ vương Các Thánh (I-ta-li-a,
1796); (7) Đức bà Mề Đai Phép Lạ (Pháp, 1830);[9]
(8) Đức bà Phép Lạ (Rô-ma, 1842); (9) Đức bà La Salette (Pháp, 1846); (10) Đức
bà Làm Phép Lạ (Taggia,1855); (11) Đức bà Lộ-đức (Pháp, 1858);[10]
(12) Đức bà Pontmain (Pháp, 1871); (13) Đức bà Gietrzwald (Ba Lan, 1877); (14)
Đức bà Knock (Ai-len, 1879); (15) Đức Mẹ Fa-ti-ma (Bồ Đào Nha, 1917);[11]
(16) Đức bà Beauraing (Bỉ, 1932-1933); (17) Đức Trinh nữ Người Nghèo (Bỉ,
1933); (18) Đức bà của Mọi Dân Tộc (Hà Lan, 1945-1959); (19) Đức bà Khóc
Siracusa (I-ta-li-a, 1953); (20) Đức bà A-ki-ta (Nhật Bản, 1973); (21) Đức bà
Ma-ri-a Trinh Nữ và Hòa Giải Mọi Dân Tộc (Vê-nê-giu-ê-la, 1976); (22) Đức bà
Ki-bê-hô (Rwanda, 1981); (23) Đức bà Mân Côi của Thánh Ni-cô-la (Ác-hen-ti-na,
1983). Tại tuyệt đại đa số các nơi này, nhà nguyện, nhà thờ, đền thánh, trung
tâm hành hương đã kỳ vĩ mọc lên.
Lịch sử còn ghi,
ngay tại Rô-ma, Đức Mẹ Ma-ri-a cũng đã từng hiện ra rất sớm (352) với Đức Giáo
hoàng Li-bê-ri-ô và nhà quyền quý Giô-van-ni. Chẳng vậy mà, một ngôi nhà thờ vĩ
đại – Vương cung Thánh Đường Đức Bà Cả, cũng được gọi là Đền thờ Đức Bà Xuống
Tuyết, Đền thờ Máng Cỏ – đã được xây dựng.[12]
Theo đó, các nhà
nguyện, nhà thờ, đền thánh, trung tâm hành hương… rất nổi tiếng ở những nơi nói
trên đã, hằng năm, thu hút hàng triệu tín hữu cũng như du khách hành hương đến
kính viếng nguyện cầu.[13]
Thậm chí, ngay như tại Tre Fontane (Rô-ma, 1947) – tuy không được Giáo hội
chính thức công nhận về việc Đức Mẹ có đã thực sự hiện ra với Bruno
Cornacchiola và ba người con của ông hay không – thì một ngôi nhà nguyện nhỏ
cũng đã được xây dựng vào năm 1956.[14]
4. Tại Fa-ti-ma
Vào năm 1917,
Fa-ti-ma (Bồ Đào Nha) là một làng quê,[15]
một giáo xứ nhà quê với khoảng 2.500 giáo dân sống rải rác trong các thôn xóm
(ngày nay, Fa-ti-ma đã trở nên phố thị sầm uất, là linh địa thuộc Ourém,
Santarém).[16]
Đang khi Thế chiến
Thứ Nhất (1914) nổ ra, hủy diệt, làm chết rất nhiều sinh mạng,[17]
thì trong làng quê Fa-ti-ma có gia đình Santos (con gái là Lu-xi-a) và gia đình
người em họ là Marto (con trai là Phan-xi-cô, con gái là Gia-xin-ta), được Đức
Mẹ hiện ra, nói với các em là “hãy lần chuỗi Mân Côi hằng ngày để cầu nguyện
cho thế giới được hòa bình…”.
Cả hai gia đình
Santos và Marto lúc bấy giờ đều cư ngụ trong thôn Aljustrel.[18]
Thế rồi, như để
chuẩn bị cho ba trẻ Lu-xi-a, Phan-xi-cô và Gia-xin-ta sẽ trở nên những sứ giả của
Mẹ Thiên Chúa thì vào “quãng thời gian cả năm trước ngày 13-5-1917”, thiên thần
đã hiện ra với ba trẻ “ít là ba lần”.[19]
Có lần, vị thiên thần quì bên cạnh ba trẻ và bảo chúng lặp lại ba lần lời cầu
nguyện sau:
Lạy Ba Ngôi Rất
Thánh là Cha, Con và Thánh Thần, con dâng cho Chúa Mình, Máu châu báu, Linh hồn
và Thiên Tính Chúa Giê-su hiện diện trong các nhà Tạm trên khắp thế giới, để đền
tạ những xúc phạm, phạm thánh và thờ ơ hằng xúc phạm đến Chúa Giê-su. Xin vì
công nghiệp vô cùng của Thánh Tâm Chúa Giê-su và của Trái tim Vô Nhiễm Đức Mẹ
Ma-ri-a, ban cho các tội nhân ơn ăn năn hối cải.[20]
Còn nhớ, mỗi khi
thuật lại với cha mẹ về việc trên, cả ba đều bị la rầy khiển trách, bị người lớn
cho là đặt chuyện hoang tưởng, không thật.[21]
Mà thật ra, mãi
sau này vẫn có những người tỏ ý hoài nghi: hoặc toàn bộ kỳ tích,[22]
hoặc một phần về những sự kiện liên quan, vì theo những vị này, ngoài thông tin
thuật lại từ Lu-xi-a thì dường như “không hề có nguồn tin nào khác xác nhận”
như thế![23] Thật
ra, Đức Mẹ còn hiện ra với Lu-xi-a trong các năm 1925 và 1929. Theo đó, cuộc phỏng
vấn diễn ra tại Pontevedra có lẽ là cuộc điều tra rắc rối nhất mà Lu-xi-a đã phải
trải qua.[24] Đã
vậy, các chỉ trích từ những người vô thần (hoặc những người theo chủ nghĩa duy
lý) thậm chí còn dữ dội và có vẻ còn phổ biến hơn nhiều.[25]
Ngay cả hiện tượng “mặt trời nhảy múa”, theo Jacques Vallée và Gilles Pinon, chẳng
qua chỉ là sự xuất hiện của các “vật thể bay không xác định” (unidentified
flying object) (UFO)![26]
Tuy nhiên, về
phía Giáo phận Leiria-Fatima, sự thật trong kỳ tích Đức Mẹ hiện ra ở Fa-ti-ma với
ba em nhỏ Lu-xi-a, Phan-xi-cô và Gia-xin-ta là khả tín, là hoàn toàn thật.[27]
Đức cha José Alves Correia da Silva, giám mục giáo phận nói trên – sau nhiều
năm tháng cầu nguyện và tìm hiểu, qua thư mục vụ ngày 13-10-1930 là: “Tầm nhìn
của các trẻ em ở Cova da Iria xứng đáng với niềm tin”[28]
– đã chính thức công nhận sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở Fa-ti-ma với ba em nhỏ
Lu-xi-a, Phan-xi-cô và Gia-xin-ta.[29]
Sau này, Lu-xi-a
đã viết hồi ký về những sự kiện Đức Mẹ hiện ra trong bốn văn bản:[30]
một bản vào năm 1935,[31]
một vào năm 1937,[32]
một vào năm 1941,[33]
và một đầu năm 1942.[34]
Các đức giáo hoàng như: Pi-ô XII, Phao-lô VI và Gio-an Phao-lô II, đã đích thân
tới Fa-ti-ma – nơi Đức Mẹ Ma-ri-a đã từng hiện ra – để cử hành thánh lễ và dâng
loài người cho Đức Mẹ.
5. Lu-xi-a kể lại…
Vâng lời Đức cha
José Alves Correia da Silva,[35]
Lu-xi-a đã trung thành kể lại – với những chi tiết còn nhớ được – các lần Đức Mẹ
hiện ra tại Fa-ti-ma:
Trọng kính Đức
cha,
... Chúa đã đoái
nhìn đến phận thấp hèn nữ tì Chúa, nên từ đây các dân tộc sẽ ca khen các công
trình của Chúa Từ Bi!
Hình như Chúa
nhân từ đã đặc biệt ban cho con ơn sớm biết dùng trí khôn, ngay từ lúc còn bé
tí teo. Con nhớ là đã ý thức được các hành động của mình, khi còn được mẹ ẵm
trên tay. Con cũng nhớ là mình được ru ngủ bằng nhiều bài ca điệu hát khác
nhau. Vì là em út của năm chị gái và một anh trai, nên các anh chị con thường
tranh nhau phần được bồng bế và chăm sóc con. Cứ mỗi lần như thế, mẹ con lại ẵm
lấy con. Nếu mẹ con bận việc thì mẹ giao con cho ba con coi sóc. Thế là ba con
bồng con, âu yếm hôn nựng con và vuốt ve con thật trìu mến.
Điều đầu tiên con
học được là kinh “Kính Mừng Maria”, vì mẹ con thường có thói quen bồng con trên
tay khi mẹ con dạy giáo lý cho chị Carolina, lớn hơn con năm tuổi. Hai chị khác
thì lớn tuổi hơn, và vì con là một con vẹt thường lặp lại mọi sự, nên mẹ con
thích cho hai chị con mang con theo, bất cứ nơi nào hai chị đi. Hồi ấy, các chị
con được coi là “đầu não của giới trẻ trong vùng”. Không một lễ lạc, một buổi
ca vũ nào mà không có sự hiện diện của các chị con. Vào các dịp lễ lớn, luôn
luôn có mục khiêu vũ. Đến mùa hái ô-liu, gần như ngày nào cũng có nhảy múa. Mẹ
và các chị con thường được mời tham dự mọi lễ cưới trong làng. Cứ mỗi lần như
thế, các chị con lại mặc áo và trang điểm cho con thật đẹp... trông như một con
búp-bê!
Chiều Chúa nhật,
trọn giới trẻ trong làng tụ họp nơi sân nhà con, mùa hè thì dưới bóng mát của
ba cây vả um tùm, mùa đông thì trong mái hiên nhà. Các bạn trẻ ở lại đó suốt buổi
chiều, chơi đùa và chuyện trò với các chị con. Vào dịp lễ Phục Sinh, thì cuộc
rút thăm trúng kẹo cũng diễn ra nơi sân nhà con. Con thường được trúng kẹo nhiều
hơn hết, vì nhiều người “giả vờ” dành phần trúng cho con, hầu làm vui lòng con.
Phần mẹ con, thì
vào các buổi chiều Chúa nhật đó, mẹ con thường ngồi nơi cửa nhà bếp trông ra
sân, như thế mẹ con có thể theo dõi tất cả những gì xảy ra bên ngoài. Khi thì mẹ
con đọc sách, khi thì mẹ con trò chuyện với các dì các cô hoặc các bà hàng xóm
đến nói chuyện với mẹ con. Mẹ con luôn giữ dáng điệu nghiêm trang thường ngày.
Mọi người đều biết những gì mẹ con nói giống như lời Kinh thánh và phải vâng lời
mẹ tức khắc. Con chưa từng thấy một người nào dám nói lời khiếm nhã trước mặt mẹ
con. Hồi ấy có tiếng đồn là chỉ mình mẹ con đáng giá hơn tất cả các đứa con gái
mẹ gọp lại.
Con nhớ rõ nhiều
lần nghe mẹ con nói: “Mẹ không hiểu sao có nhiều người thích ngồi lê đôi mách
nơi nhà người khác! Phần mẹ, không gì quý bằng ngồi nhà đọc sách. Có không biết
bao nhiêu điều tốt lành trong sách. Cuộc đời các thánh, thật là điều tuyệt đẹp!”
Chính trong bầu
khí tràn đầy tình thương và trìu mến ấy mà con lớn lên cho đến năm sáu tuổi. Và
để nói hết sự thật, thì cuộc đời bắt đầu vui tươi chào đón con. Nhất là, lòng
yêu thích khiêu vũ đâm rễ sâu trong con tim bé nhỏ của con. Và con xin thú nhận
với đức cha rằng, nếu Thiên Chúa Nhân Lành không ghé mắt từ bi trông coi con, hẳn
là ma quỷ đã lôi kéo được con đi vào con đường hư mất trầm luân đời đời rồi!
Mẹ con thường có
thói quen dạy giáo lý cho con cái, mùa hè vào những giờ nóng bức, mùa đông vào
ban tối, sau bữa ăn, ngồi trước lò sưởi, trong lúc chúng con nướng và ăn hạt dẻ.
Vì gần đến ngày
cha sở định cho các trẻ em trong xứ được Rước Lễ Trọng Thể lần đầu, mẹ con bèn
nghĩ rằng: con gái út mình vừa biết rõ giáo lý vừa tròn sáu tuổi, hẳn là con nhỏ
cũng có thể rước lễ lần đầu với chị nó. Vì nghĩ vậy nên mẹ con cho con đi theo
chị Carolina, đến dự các buổi giáo lý cha sở dạy để chuẩn bị rước lễ lần đầu.
Con sung sướng đi học giáo lý, với niềm hy vọng tràn trề: sớm được rước Chúa
vào lòng lần đầu tiên. Cha sở dạy giáo lý, ngồi nơi chiếc ghế đặt trên bục. Cha
gọi con đến bên cạnh cha, và khi một trẻ nào đó không biết trả lời câu hỏi, cha
sở liền bảo con trả lời thay, hầu làm cho đứa trẻ kia phải xấu hổ....
Hôm trước ngày Rước
Lễ Vỡ Lòng, cha sở triệu tập tất cả các trẻ đến nhà thờ, vào ban sáng, để quyết
định xem trẻ nào có thể rước lễ lần đầu. Nói sao cho hết nỗi buồn lớn lao của
con, khi cha sở gọi con đến gần, vừa vuốt ve con vừa cho con biết là con phải đợi
đến năm bảy tuổi mới được rước lễ! Con liền bật khóc và giống như thể đang đứng
bên mẹ con, con liền gục đầu trên hai đầu gối cha sở và khóc nức nở. Còn đang
khóc như vậy, thì một linh mục được cha sở mời đến giúp giải tội, bước vào. Đó
là Cha Francisco Rodri-guez da Cruz (1859-1948). Cha Cruz liền hỏi tại sao con
khóc. Và khi được cha sở cho biết lý do, cha Cruz liền dẫn con ra phòng thánh, ở
đó, cha khảo hạch con về giáo lý và về mầu nhiệm Bí tích Thánh Thể. Xong, Cha
Cruz dẫn con đến cạnh cha sở và nói: “Cha Péna, cha hãy để cho trẻ này được rước
lễ. Cô bé biết rõ hơn những trẻ khác điều mà cô bé làm”. Cha sở không chấp thuận
nên nói: “Nhưng con nhỏ mới có sáu tuổi!” Cha Cruz trả lời: “Không sao hết! Nếu
cha đồng ý thì tôi sẽ lãnh trách nhiệm”. Nghe vậy, cha sở liền nói với con: “Vậy
con hãy đi nói với mẹ con là cha sở cho phép con được rước lễ lần đầu ngày
mai”.
Niềm vui của con
không thể nào tả hết. Con ra về, vừa vỗ tay reo mừng vừa chạy suốt quãng đường
về nhà. Con hớn hở báo cho mẹ con biết tin vui. Tức khắc, mẹ con giúp con dọn
mình xưng tội vào ban chiều. Trên đường đến nhà thờ, con thưa với mẹ là con muốn
xưng tội với vị linh mục đến từ bên ngoài. Cha Cruz giải tội nơi phòng thánh,
ngồi trên một chiếc ghế. Mẹ con liền quỳ gần cửa, nơi bàn thờ lớn, với các bà mẹ
khác, đợi đến lượt con mình vào xưng tội. Nơi bàn thờ chính, trước Mình Thánh
Chúa, mẹ con dặn dò con lần cuối cùng. Khi đến phiên mình, con liền quỳ gối dưới
chân vị linh mục là người đại diện Thiên Chúa Nhân Lành, để khẩn cầu ơn tha thứ
cho các tội lỗi của con. Khi con xưng tội xong, con thấy ai cũng cười hết. Mẹ
con gọi con và nói: “Con không biết là khi xưng tội phải nói thầm, vì đó là điều
bí mật sao? Ai cũng nghe con thú tội hết. Chỉ có phần sau cùng, con nói điều gì
đó, nhưng không một ai nghe được”.
Trên đường về
nhà, mẹ con muốn dò biết điều mà mẹ con gọi là ”bí mật toà cáo giải”. Nhưng mẹ
con chỉ nhận được câu trả lời bằng cái im lặng tuyệt đối của con.
Giờ đây con xin
vén mở điều bí mật của lần xưng tội đầu tiên đó. Vị linh mục tốt lành, sau khi
nghe con nói, liền khuyên con vài lời: “Con à, linh hồn con là đền thờ Chúa
Thánh Thần. Con hãy gìn giữ linh hồn luôn trong sạch, hầu Chúa Thánh Thần có thể
tiếp tục hoạt động chí thánh của Ngài”. Khi nghe những lời này, con cảm thấy nảy
sinh lòng kính trọng sâu xa đối với bên trong linh hồn con và con hỏi cha giải
tội xem con phải làm gì. Cha liền trả lời: “Con hãy đến quỳ gối dưới chân tượng
Đức Bà đằng kia kìa. Rồi với trọn lòng tin tưởng, con hãy xin Mẹ chăm sóc con
tim con, xin Mẹ chuẩn bị lòng con xứng đáng rước Con Dấu Ái Mẹ vào ngày mai và
xin Đức Bà gìn giữ lòng con cho một mình Chúa Giê-su mà thôi”.
Trong nhà thờ có
mấy tượng Đức Mẹ. Nhưng vì các chị con có nhiệm vụ chăm sóc bàn thờ Đức Mẹ Mân
Côi, nên con có thói quen cầu nguyện trước bức tượng này. Do đó, chính lần này,
lại một lần nữa, con đến quỳ cầu nguyện trước Đức Mẹ Mân Côi, để khẩn cầu Mẹ, với
trọn lòng tha thiết, xin Mẹ gìn giữ con tim bé nhỏ con cho một mình Thiên Chúa
mà thôi. Chính vì lặp đi lặp lại nhiều lần lời cầu xin khiêm tốn này, với đôi mắt
đăm đăm nhìn bức tượng, mà con có cảm tưởng là tượng Đức Mẹ mỉm cười nhìn con với
cử điệu tràn đầy nhân ái và tỏ dấu cho con biết là Đức Mẹ nhậm lời con nài van.
Lòng con tràn ngập niềm hạnh phúc đến độ con chỉ mấp máy được một lời.
Trọn buổi tối hôm
đó, các chị con làm việc gấp rút để may cho con chiếc áo rước lễ trắng tinh với
vòng hoa đội đầu. Phần con, vì quá vui mừng nên không thể nào chợp mắt được.
Con thấy như thời gian đứng lại. Con không ngừng thức dậy và đến bên các chị
con đang làm việc để hỏi xem trời sáng chưa và khi nào thì các chị thử áo, thử
vòng hoa cho con, v.v.
Sau cùng thì buổi
sáng của ngày hồng phúc ấy cũng đến, nhưng 9 giờ sáng vẫn như còn trù trừ chưa
muốn đến! Chị Maria dẫn con vào nhà bếp – lúc đó con đã mặc chiếc áo trắng tinh
– để con xin lỗi cha mẹ con, hôn tay các ngài và xin các ngài chúc lành cho
con. Khi nghi thức chấm dứt, mẹ con nhắn nhủ vài lời sau cùng. Mẹ con nói với
con điều mà mẹ con ước ao cho con xin cùng Chúa, một khi Chúa ngự vào lòng con,
và rời con với câu nói: “Nhưng nhất là, con hãy xin Chúa cho con trở thành một
vị thánh!” Lời này như ghi khắc vào lòng con, đến độ, đó là những lời đầu tiên
con thưa cùng Chúa, ngay khi con vừa rước Chúa ngự vào lòng. Mãi cho đến ngày
hôm nay, con vẫn như còn nghe vang vọng tiếng mẹ con lặp lại với con lời nói
này....
Con lên đường đến
nhà thờ với các chị con và để áo trắng tinh của con khỏi bị dơ bẩn vì dính bụi
đường, anh con liền bồng con trên tay. Ngay khi vừa đến nhà thờ, con liền chạy
đến bên bức tượng Đức bà Mân Côi và lặp lại lời cầu nguyện con đã xin với Đức Mẹ
chiều hôm qua. Con quỳ yên đó chiêm ngắm nụ cười của Đức Mẹ vào ngày hôm trước,
mãi cho đến lúc các chị con đến tìm con dẫn tới chỗ dành cho con, nơi hàng ngũ
các trẻ em rước lễ lần đầu.
Có rất nhiều trẻ
em rước lễ vỡ lòng ngày hôm đó. Chúng con xếp thành bốn hàng, từ cuối nhà thờ
lên mãi tận gần cung thánh. Hai
hàng trẻ nam và
hai hàng trẻ nữ. Vì con là trẻ nhỏ bé nhất, nên con được xếp gần các thiên thần,
trên bậc cấp của bàn rước lễ.
Thánh lễ trọng thể
bắt đầu và càng gần tới lúc rước lễ, tim con càng đập mạnh hơn, trong niềm
trông đợi một Thiên Chúa Chí Cao, sắp từ Trời ngự xuống kết hiệp với linh hồn
bé nhỏ khốn cùng của con. Cha sở đi giữa hai hàng trẻ em để trao Mình Thánh,
Bánh các Thiên Thần. Con được hồng phúc rước lễ trước tiên. Khi vị linh mục bước
xuống các bậc cấp bàn thờ, con có cảm tưởng là tim con sắp nhảy ra khỏi lồng ngực.
Nhưng, ngay khi cha sở đặt trên môi con Bánh Thánh, con cảm nhận tức khắc niềm
thanh thản và an bình sâu xa. Sự hiện diện của Thiên Chúa Chí Nhân trở thành rõ
ràng đối với con, y như thể con nghe và trông thấy được Ngài bằng chính các
giác quan của thân xác con. Con liền thân thưa với Chúa lời khẩn cầu của con:
“Lạy Chúa, xin làm cho con trở thành một vị thánh! Xin gìn giữ tim con luôn
trong sạch, chỉ yêu mến duy nhất một mình Chúa mà thôi!”[36]
6. Đức Mẹ
Fa-ti-ma
Danh xưng Đức Mẹ
Fa-ti-ma là một trong số rất nhiều tước hiệu được kính dâng lên Mẹ Ma-ri-a.[37]
Tước hiệu này phát xuất từ việc Đức Mẹ hiện ra sáu lần với ba trẻ làng Fa-ti-ma
(Lu-xi-a, Phan-xi-cô, Gia-xin-ta) trong khoảng thời gian từ ngày 13-5 tới ngày
13- 10-1917.[38] Trước
đó khoảng một năm, Lu-xi-a, Phan-xi-cô và Gia-xin-ta cũng đã được thiên thần hiện
ra ba lần, giúp chuẩn bị để trở nên những sứ giả của Mẹ Thiên Chúa (messengers
of the Mother of God).[39]
Thế rồi, tước hiệu
Đức bà Mân Côi cũng được sử dụng để chỉ người phụ nữ là Thánh Ma-ri-a, Mẹ
Fa-ti-ma, Mẹ Thiên Chúa đã hiện ra tại Fa-ti-ma.[40]
a. Hiện ra lần đầu
tiên[41]
Trưa ngày
13-5-1917, có một bà mặc áo trắng toát (Đức Mẹ Ma-ri-a) hiện ra với ba em bé
chăn cừu là Lu-xi-a, Phan-xi-cô, Gia-xin-ta. Đức Mẹ nói với các em là hãy lần
chuỗi Mân Côi hằng ngày để cầu nguyện cho thế giới được hòa bình, kêu gọi “dâng
mình cho Thiên Chúa để chấp nhận mọi đau khổ Ngài gửi đến, như một việc đền tạ
những xúc phạm Ngài phải chịu mà cầu cho tội nhân ăn năn trở lại”.[42]
Trước khi biến đi, Đức Mẹ bảo ba trẻ hãy trở lại nơi đây đúng giờ trưa ngày 13
tháng sau.[43]
b. Hiện ra lần thứ
hai[44]
Đúng trưa ngày
13-6-1917, ba trẻ lại tới nơi hẹn, cùng đi hôm ấy có khoảng vài chục người tò
mò khác. Khi mọi người đang lần chuỗi Mân Côi, Đức Mẹ hiện ra với Lu-xi-a,
Phan-xi-cô, Gia-xin-ta.[45]
Nói đến việc sùng kính Trái tim Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ nhắc Lu-xi-a về tầm quan trọng
của việc đọc kinh Mân Côi; tỏ cho Lu-xi-a biết phải sống ở thế gian lâu hơn
Phan-xi-cô và Gia-xin-ta là vì “Chúa Giê-su muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận
biết và yêu mến”;[46]
đồng thời báo trước về cái chết của hai anh em Phan-xi-cô và Gia-xin-ta. Đức Mẹ
cũng yêu cầu Lu-xi-a phải học chữ để dễ loan báo lời căn dặn của Mẹ cho người
khác.
c. Hiện ra lần thứ
ba[47]
Trưa ngày
13-7-1917, trước sự hiện diện khoảng 4.000 người, Đức Mẹ trong trang phục “bà mặc
áo trắng” lại hiện ra với Lu-xi-a, Phan-xi-cô, Gia-xin-ta. Đức Mẹ vẫn nhắc việc
phải đọc kinh Mân Côi mọi ngày, để chiến tranh mau chấm dứt. Đức Mẹ cho thấy hỏa
ngục, rồi tỏ cho biết Bí mật Fa-ti-ma.[48]
Phần chính của Bí mật Fa-ti-ma là “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái
tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ trên toàn thế giới”.
d. Hiện ra lần thứ tư[49]
Gần một tháng
sau, ngày 10-8-1917, viên chánh tổng nơi đấy đòi ba em nhỏ Lu-xi-a, Phan-xi-cô
và Gia-xin-ta tới để tra hỏi. Đến ngày 13-8-1917 – trong khi ba em nhỏ này bị
nhốt vì tội làm rối loạn trật tự công cộng – vẫn có khoảng 18.000 người tới Đồi
Cova da Iria để chờ xem sự lạ. Nhưng không có gì đặc biệt diễn ra. Trong thời
gian đó, ba em nhỏ vẫn tiếp tục phải trải qua những tra hỏi – lần chất vấn thứ
nhất do cha xứ Manuel Marques Ferreira (+ 1945) vào cuối tháng năm 1917 – nhưng
những lần chất vấn tra hỏi không thực sự tìm thấy gì là phi pháp.[50]
Khi không còn lý
do để bị giam giữ, thì đến ngày 15-8-1917, địa phương thả ba em nhỏ Lu-xi-a,
Phan-xi-cô và Gia-xin-ta ra về.[51]
Đến Chúa nhật 19-8-2017, khi ba em dẫn đàn cừu tới Đồi Cova da Iria, thì Đức Mẹ
lại hiện ra, yêu cầu các em nói với mọi người hãy cầu nguyện cho những kẻ tội lỗi
được ơn thống hối. Đức Mẹ kêu gọi “hãy cầu nguyện thật nhiều và hy sinh cho tội
nhân; nhiều linh hồn sẽ phải sa hỏa ngục vì không có ai chịu hy sinh cầu nguyện
cho họ”.[52]
e. Hiện ra lần thứ năm[53]
Đến ngày
13-9-1917, có khoảng 30.000 người tụ họp tại Đồi Cova da Iria, cầu nguyện cùng
với Lu-xi-a, Phan-xi-cô, Gia-xin-ta. Với lần hiện ra thứ năm này, Mẹ Ma-ri-a đã
cho biết “Thiên Chúa hài lòng về những hy sinh của các con (Lu-xi-a,
Phan-xi-cô, Gia-xin-ta). Chúa không muốn các con (Lu-xi-a, Phan-xi-cô,
Gia-xin-ta) mang dây thừng mà ngủ, song chỉ đeo ban ngày thôi”. Cũng trong lần
hiện ra này, khi hiện ra, Đức Mẹ cho biết vào tháng sau thì Chúa, Thánh Giu-se…
sẽ cùng hiện ra.[54]
f. Hiện ra lần thứ sáu[55]
Đến ngày
13-10-1917, một đám đông khoảng 70.000 người,6 với rất nhiều phóng viên ảnh và
các ký giả, tụ tập tại Đồi Cova da Iria. Hầu hết mọi người đều lần chuỗi, đọc
kinh cầu nguyện. Lần này, Đức Mẹ cho biết Mẹ là ai và Mẹ muốn gì khi Mẹ hiện ra
ở Fa-ti-ma, như Mẹ đã hứa với Lu-xi-a, Phan-xi-cô, Gia-xin-ta vào lần hiện ra
thứ nhất và thứ ba. Hôm ấy, mưa như trút nước, nhưng đến giữa trưa, Đức Mẹ đã
hiện ra với ba em nhỏ và cho biết mình chính là Đức Nữ trinh Ma-ri-a, là Mẹ Rất
Thánh Mân Côi và ngỏ ý muốn xây một nguyện đường tại đây.
Tỏ ý muốn nhân loại
“đừng xúc phạm đến Thiên Chúa là Chúa của chúng ta nữa, vì Ngài đã bị xúc phạm
nhiều lắm rồi”, Đức Mẹ mời gọi cầu nguyện, lần chuỗi mỗi ngày, yêu cầu những kẻ
có tội hãy mau sám hối và loan báo Thế chiến Thứ Nhất sẽ sớm chấm dứt.[56]
Khi Đức Mẹ biến đi thì mưa cũng tạnh, mặt trời xuất hiện trên bầu trời xanh biếc.
Đám đông có thể nhìn thẳng vào mặt trời và thấy mặt trời nhảy múa, tung ra các
chùm tia sáng nhiều màu. Mặt trời dường như xuống thấp gần trái đất, khiến đám
đông sợ hãi.[57]
7. Hiểu về Sứ điệp
Fa-ti-ma
Mẹ Fa-ti-ma truyền
dạy sứ điệp “Ăn năn đền tội, chuyên cần cầu nguyện, siêng năng lần hạt Mân Côi,
và biệt kính Trái tim Mẹ” để mưu cầu bình an cho mỗi tâm hồn, là nền tảng kiến
tạo hòa bình thế giới.[58]
Theo đó, việc thực hành sứ điệp Fa-ti-ma chắc chắn phải hệ tại việc sống triệt
để tinh thần của chính Tin mừng Đức Ki-tô Giê-su, Con của Mẹ. Nghĩa là, như
cách thức chính Đức Ki-tô đã từng sử dụng: “Nếu các ngươi không ăn năn sám hối,
thì các người cũng sẽ bị chết như vậy”. (Lc 13,3) Bởi muốn được hưởng nền
hòa bình đích thực, nhân loại cần phải thực hiện những điều kiện thuộc các mối
phúc thật của Nước Trời:[59]
1 Khi ấy, Chúa
Giê-su thấy đám đông dân chúng, Người lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến
gần bên. 2 Người mở miệng dạy họ rằng: 3 “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì
Nước trời là của họ. 4 Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia
nghiệp. 5 Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. 6 Phúc thay ai
khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng. 7 Phúc
thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. 8 Phúc thay ai
có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. 9 Phúc thay ai xây dựng
hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. 10 Phúc thay ai bị bách hại vì sống
công chính, vì Nước trời là của họ. 11 Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người
ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. 12 Anh em hãy vui mừng hớn hở,
vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”. (Mt 5,1-12a)
Nói khác đi, được
Đức Mẹ hiện ra, ban lời nhắn nhủ ở Fa-ti-ma, ba trẻ – chủ yếu là Lu-xi-a,[60]
vì Phan-xi-cô và Gia-xin-ta mất sớm[61]
– luôn dốc lòng rao truyền sứ điệp Tin mừng theo giáo huấn của Giáo hội: (1) Ăn
năn cải thiện cuộc sống;[62]
(2) Siêng năng lần Chuỗi Mân Côi (Tin mừng thu gọn);[63]
và (3) Tôn sùng Trái tim Vô Nhiễm Nguyện Tội Mẹ Ma-ri-a (“biệt kính” Trái tim Mẹ
như Giáo hội dạy).
Nghĩa là, nếu sứ
điệp Fa-ti-ma dẫn đưa con người tới trọng tâm của Tin mừng: “Anh em hãy ăn năn
sám hối vì Nước Trời đã đến gần”…, (Mt 3,2) thì cũng có thể nói, khi sống
và rao truyền sứ điệp Fa-ti-ma là lúc chúng ta nỗ lực sống và rao truyền các mối
phúc thật của Hiến chương Nước Trời.
8. Ba bí mật của
Fa-ti-ma
a. Hai Bí mật Đầu Tiên
Bí mật đầu tiên
là một thị kiến về hỏa ngục mà Lu-xi-a đã mô tả trong hồi ký thứ ba của mình
như sau:
Ðức Bà cho chúng
con thấy một biển cả lửa hồng dường như ở dưới mặt đất. Chìm ngập trong lửa này
là quỷ dữ và các linh hồn dưới hình thể con người, giống như những cục than hồng
trong suốt, đen đủi hoặc xám xịt. Họ nổi lên trong đám cháy, bị các ngọn lửa
nâng lên cao, những ngọn lửa này phát ra từ thân mình họ cùng với một đám khói
lớn. Họ lại rớt xuống mọi phía, giống như những tia lửa trong một đám cháy lớn,
vô trọng lượng hoặc mất thăng bằng, giữa những tiếng la hét và rên rỉ vì đau đớn
và tuyệt vọng, làm kinh khiếp chúng con và làm chúng con run lên vì sợ hãi. Các
quỷ dữ có thể được phân biệt do các hình thù gây kinh hãi và ghê tởm, giống như
những con vật khủng khiếp và chưa bao giờ thấy, tất cả đều đen đủi và trong suốt.
Thị kiến này kéo dài một lúc. Làm sao chúng con có thể bày tỏ lòng biết ơn cho
xứng với Mẹ yêu dấu trên trời của chúng con, Ðấng đã báo trước cho chúng con
trong lần hiện ra thứ nhất khi hứa rằng ngài sẽ đem chúng con về trời. Bằng
không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết điếng vì sợ hãi và kinh khiếp”.[64]
Bí mật thứ hai được
Lu-xi-a viết trong hồi ký thứ ba của mình:[65]
Sau đó mắt chúng
con hướng về Đức bà. Ngài hết sức âu yếm và buồn bã nói với chúng con: Chúng
con đã thấy hỏa ngục, nơi mà các linh hồn tội lỗi đáng thương đi vào. Ðể cứu vớt
họ, Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới việc sùng kính Trái tim Mẹ Vô Nhiễm.
Nếu điều Mẹ nói với
các con được thực hiện, nhiều linh hồn sẽ được cứu và sẽ có hòa bình. Chiến
tranh sẽ kết thúc: nhưng nếu dân chúng không ngừng xúc phạm đến Thiên Chúa, một
cuộc chiến tranh tồi tệ sẽ xảy ra trong triều đại của Đức Giáo hoàng Pi-ô XI.
Khi thấy đêm tối được một thứ ánh sáng chưa từng biết chiếu sáng, chúng con hãy
biết rằng đó là dấu chỉ lớn lao mà Thiên Chúa ban cho các con để biết rằng Ngài
sắp trừng phạt thế gian vì những tội ác của thế gian, bằng chiến tranh, đói
kém, và những bách hại đối với Hội thánh và đức giáo hoàng. Ðể tránh điều này,
Mẹ sẽ xin hiến dâng nước Nga cho Trái tim Mẹ Vô Nhiễm, và hiệp thông đền tạ vào
ngày thứ bảy đầu tháng. Nếu lời cầu xin của Mẹ được chấp nhận, nước Nga sẽ hoán
cải và sẽ có hòa bình; nếu không, nó sẽ phổ biến những lầm lạc trên khắp thế giới,
gây nên những chiến tranh và bách hại cho Hội thánh. Những kẻ lành sẽ bị giết hại;
đức giáo hoàng sẽ đau khổ nhiều; nhiều quốc gia sẽ bị tiêu diệt. Cuối cùng,
Trái tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ toàn thắng. Đức giáo hoàng sẽ hiến dâng nước Nga
cho Mẹ, nước ấy sẽ được hoán cải, và một giai đoạn hòa bình sẽ được ban cho thế
giới.[66]
b. Bí mật Thứ Ba
Năm điều đáng lưu
ý của Bí mật Thứ Ba ở Fa-ti-ma, theo Philip Kosloski, chính là: (1) “Thống hối,
thống hối, thống hối!”; (2) “Chúng ta đã rèn nên Lưỡi gươm Rực Lửa”; (3) “Tương
lai không được tạc vào đá”; (4) “Máu các vị tử đạo là hạt giống của Giáo hội”;
(5) “Đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”.[67]
Bí mật thứ ba là thị kiến về cái chết của vị giáo hoàng và các nhân vật khác
trong đạo. Đức Giám mục Giáo phận Leiria ghi rằng:
Sau hai phần mà
con đã giải thích, phía bên trái của đức bà và cao hơn một ít, chúng con đã thấy
một thiên thần cầm một thanh gươm bằng lửa nơi tay trái; gươm lấp lánh và phát
ra những tia lửa dường như muốn đốt cháy thế gian; nhưng chúng tắt ngúm khi chạm
đến ánh quang chiếu tỏa từ tay phải của đức bà hướng về trần gian: chỉ về trái
đất bằng tay phải, thiên thần lớn tiếng thốt lên: “Ðền tội, Ðền tội, Ðền tội!”.
Và chúng con thấy trong một luồng sáng lớn là Thiên Chúa: “một cái gì tương tự
như cách người ta xuất hiện trong một tấm gương khi người ta đi ngang qua’ một
giám mục bận đồ trắng “chúng con có cảm nhận đó chính là đức giáo hoàng”. Các
giám mục, các linh mục, các tu sĩ nam nữ khác leo lên một ngọn núi dốc thẳng,
trên đỉnh núi có một thánh giá lớn làm bằng thân cây thô nhám như thể của một
cây bần với vỏ cây. Trước khi đến đó, đức giáo hoàng đi qua một thành phố lớn,
một nửa bị tàn phá và một nửa rung chuyển, với bước chân nghiêng ngả, buồn khổ
vì đau đớn và ưu phiền, ngài cầu nguyện cho các linh hồn của những thân xác
ngài gặp trên đường; khi đã lên đỉnh núi, quỳ dưới chân thánh giá lớn, ngài đã
bị một nhóm lính giết hại bằng đạn và mũi tên, và cùng một cách thức như thế
các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ khác, và các giáo dân thuộc mọi giai cấp
và địa vị xã hội khác nhau lần lượt bị giết hại. Bên dưới hai cánh tay của
thánh giá có hai thiên thần, mỗi vị cầm trong tay một chiếc bình bằng pha lê,
trong đó các ngài hứng máu của các vị tử đạo và với máu đó các ngài rảy trên
các linh hồn đang tiến về Chúa.
9. Để kết
Có thể nói, trong
cái nhìn đức tin vững vàng và trong sự hiểu biết thiết yếu về Thánh kinh, Thánh
truyền cũng như giáo huấn của Giáo hội, chúng ta hãy để cho sứ điệp Fa-ti-ma
làm tan chảy sự chai đá của tâm trí chúng ta, giúp chúng ta hướng đến trọng tâm
của Tin mừng và nỗ lực thực hiện những giá trị cực quý hôm nay, trong các mối
phúc thật của Nước Trời mai sau.
Vì thế, theo bối
cảnh thần học đương đại, tước hiệu “Ðức mẹ Ma-ri-a là Mẹ của Lòng Thương Xót”
trong cuộc sống của chúng ta có thể được coi là một sự “hiện tại hóa” với ý
nghĩa rất cụ thể, thật đầy đủ và vô cùng súc tích. Chẳng vậy mà, mỗi khi có dịp
xướng đọc các tước hiệu của Đức Mẹ – trong Kinh Cầu Đức Bà chẳng hạn – chúng ta
hãy tận dụng cơ hội thật tốt này để cũng thành tín thưa lên: “Lạy Mẹ Fa-ti-ma…
xin cầu cho chúng con”.[68]
Và vì hai em nhỏ
Phan-xi-cô và Gia-xin-ta ngày nào đã được Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II nâng
lên hàng đáng kính ngày 13-5-1989, được phong chân phước ngày 13-5-2000,[69]
và được Đức Thánh Cha Phanxicô phong hiển thánh ngày 13-5-2017[70],
chúng ta cũng thưa: “Lạy hai Thánh Phan-xi-cô và Gia-xin-ta Làng Fa-ti-ma… xin
cầu cho chúng con”.
Trích Tập san Hiệp
Thông / HĐGM VN, Số 101 (tháng 7 & 8 năm 2017)
[1] Theo kiểu nói chính danh (正名), các tước hiệu dành cho Đức mẹ Ma-ri-a cần được
nhìn qua lăng kính thời đại của lòng Chúa xót thương, cách riêng trong bài này,
không chỉ là tước hiệu, Đức mẹ Fa-ti-ma cũng chính là Đức bà Lòng Xót Thương.
[4] Trong Kinh Cầu Đức Bà (Litaniae
Lauretanae), Ðức mẹ Ma-ri-a “Mẹ của Lòng Thương Xót” đã được xưng tụng cách
đặc biệt qua ít là bốn mươi chín tước hiệu sau đây: “(1) Rất thánh Đức Bà
Ma-ri-a… (49) Nữ vương Ban Sự Bình An”.
[5] Trong số những nơi “được Giáo hội cho phép sùng
kính và lui tới hành hương” này, có các nơi sau: (1) Đức bà Caravaggio
(I-ta-li-a, 1432); (2) Đức bà Ma-ri-a (Parete, I-ta-li-a, 1514); (3) Đức bà các
Thiên Thần (Arcola, 1556); (4) Đức bà Coromoto (Vê-nê-giu-ê-la, 1652); (5) Đức
bà của Lòng Thương Xót (Rimini, 1850); (6) Đức Ma-ri-a Rất Thánh Sầu Bi
(I-ta-li-a, 1888); (7) Đức Trinh nữ Sầu Bi (Quito, 1906); (8) Đức bà Đá Tảng
(Belpasso, 1981-1986).
[6] Anh ngữ: Norms Regarding the Manner of
Proceeding in the Discernment of Presumed Apparitions or Revelations.
[7] X. Sacred Congregation for the Doctrine of the
Faith, Norms Regarding the Manner of Proceeding in the Discernment of
Presumed Apparitions or Revelations (25-2-1978), lấy ngày 01-01-2017.
[8] Trên Đồi Tepeyac (Mê-hi-cô, 1531) Đức mẹ Ma-ri-a
hiện ra với Juan Diego Cuauhtlatoatzin, thổ dân Aztec. Năm 1717, tuy đức mẹ
không hiện ra tại Aparecida của Bra-xin, nhưng một nhóm dân chài đã tìm thấy tại
đó một bức tượng đức mẹ. Đây là lý do làm nảy sinh việc xây dựng đền thánh vĩ đại
tại Aparecida.
[9] Từ thời Đức Giáo hoàng Grê-gô-ri-ô XVI, Giáo hội
có thái độ “thuận tiện” đối với kỳ tích Đức bà Mề Đai Phép Lạ; Đức mẹ Ma-ri-a
hiện ra với Caterina Labouré (Pháp, 1830).
[11] Năm 1917, Đức mẹ Ma-ri-a đã hiện ra sáu lần với
ba trẻ là Lu-xi-a, Gia-xin-ta và Phan-xi-cô. Thật vậy, Giáo hội đã chính thức
chuẩn thuận những tường thuật về cuộc hiện ra của Đức mẹ Fa-ti-ma và những sứ
điệp trao cho ba trẻ (x. “Approvals by the Popes”, lấy ngày
01-01-2017 từ https://fatima.org/about/fatima-the-facts/approvals-by-the-popes/ ).
[12] Vương cung Thánh Đường Đức Bà Cả là một trong bốn
vương cung thánh đường lớn ở Rô-ma, và là đền thờ lớn nhất dâng kính Rất
Thánh Trinh nữ Ma-ri-a (the largest church in Roma dedi-cated to the Blessed
Virgin Mary) (x. https://vi.wikipedia.org/ )
[13] Theo một thống kê ước định gần đây, hằng năm có
khoảng 12 triệu tín hữu và du khách hành hương đến Aparecida, bảy triệu người đến
Gu-a-đa-lu-pê, hơn bảy triệu người đến Fa-ti-ma, khoảng năm triệu người đến Lộ-đức….
[14] Tuy không được Giáo hội chính thức công nhận,
nhưng Tre Fontane được Đức Giáo hoàng Pi-ô XII cho phép xây một nhà nguyện nhỏ
năm 1956 kính đức mẹ và giao cho các tu sĩ Phan-xi-cô Viện Tu trông coi. Tre
Fontane cũng vinh dự được Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II chấp thuận tên gọi
“Thánh Ma-ri-a của Ngàn Năm Thứ Ba ở Tre Fontane” (vào năm 1997).
[15] Có lẽ bắt nguồn từ tiếng Ả-rập, Fatima là tên của một công chúa xứ Ả-rập. Khi trở thành hôn thê của Bá tước Ourém, công chúa đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy (x. http://caritasvietnam.org/su-diep-fatima ).
[16] Vào thời đức mẹ hiện ra với ba trẻ Lu-xi-a,
Phan-xi-cô và Gia-xin-ta, người lớn lao động trên các đồng ruộng, trẻ em cũng
phải giúp đỡ cha mẹ những việc nhẹ nhàng hơn: chăn bò, dê, cừu…. Phần lớn dân
cư đều mù chữ, chỉ khoảng 10% phụ nữ biết đọc, biết viết (x. Résumé des
thèses de Selde).
[17] Bồ Đào Nha tham gia thế chiến từ tháng 5 năm 1916
với khoảng 50.000 binh sĩ (x. L’entrée du Portugal dans la Grande Guerre par
Jean-Louis Philippart sur le site de l’Anovi).
[18] Gia đình Santos có một con gái tên là Lu-xi-a,
sinh ngày 22-3-1907. Gia đình Marto có một con trai là Phan-xi-cô, sinh ngày
11-6-1908 và một con gái là Gia-xin-ta, sinh 11-3-1910. Ba em nhỏ này thường
chăn súc vật tại Đồi Cova da Iria, cách thôn Aljustrel chừng hai cây số. Hiện
nay, Aljustrel là một phố thị thuộc Beja, Bồ Đào Nha, có
diện tích khoảng 458 km²; dân số của Aljustrel khoảng 10.567 người (năm 2001)
(x. http://www.-statoids.com/ypt.html).
[19] “The apparitions of Our Lady were advanced one
year before by three apparitions of an angel who prepared the little seers to
become messengers of the Mother of God” (https://www.theholyrosary.org/fatimaapparitions , lấy ngày 01-12-2016).
[20] Một số nhà thần học cảm thấy khó khăn với lời
nguyện này: (1) Không cần phải hiểu sát nghĩa từng chữ; (2) Hình thức của lời cầu
giống nhiều lời cầu nguyện phổ thông khác (x. Hồi ký Lu-xi-a, 86).
[21] Tuy nhiên, thiên thần vẫn cứ hiện ra với Lu-xi-a,
Phan-xi-cô và Gia-xin-ta, và có lần khác lại dạy ba trẻ cầu nguyện như sau: “Lạy
Chúa, con tin, con thờ lạy, con trông cậy và con yêu mến Chúa. Con xin Chúa tha
thứ cho những ai không tin, không thờ lạy, không trông cậy, và không yêu mến
Chúa” (https://vi.wikipedia.org/wiki...).
[23] Chẳng hạn, tuy không phủ nhận việc đức mẹ hiện ra
sáu lần ở Fa-ti-ma, nhưng Lm. Edouard Dhanis, S.J., (+ 1978) và Tu sĩ
René Laurentin tỏ ý hoài nghi các lần thiên thần hiện ra trước đó vào các năm
1915 và 1916, cùng các lần đức mẹ hiện ra với Lu-xi-a sau này: trong các năm
1925 và 1929. Lm. Jean Cardonnel, O.P., phủ nhận bí mật thứ ba trong
toàn bộ kỳ tích Fa-ti-ma (x. Jean Cardonnel, “Le faux troisième secret de
Fatima” trong Le monde du samedi, 3 juin 2000).
[24] Cuộc phỏng vấn diễn ra tại Pontevedra từ ngày 16
tới 20 tháng 9 năm 1935. Antero de Figueiredo (1886-1935) dùng cuộc phỏng vấn
cho tác phẩm của ông là Fa-ti-ma: ơn phước - bí mật - mầu nhiệm (Lisbon,
1936).
[25] Sau hai năm tìm tòi, thì đến năm 1977, Gérard de
Sède đưa ra bản khảo luận về các sự việc đức mẹ hiện ra ở Fa-ti-ma là sự “gian
trá” của ba trẻ Lu-xi-a, Phan-xi-cô và Gia-xin-ta, cũng như sự không trung thực
của các gia đình nơi đấy. Theo ông, hiện tượng mặt trời nhảy múa đơn giản chỉ
là ảo giác (hallucination) (x. Gérard de Sède, Fatima: enquête sur
une imposture [Éditions Alain Moreau, 1977], 294).
[27] Xem lại phần trình bày trên – “Một số kỳ tích đức
mẹ hiện ra” – ta nhận thấy, có ít là 23 kỳ tích đức mẹ hiện ra đã được Giáo hội
chính thức chấp nhận.
[28] X. Leo Madigan, ”The visions of the children in
the Cova da Iria are worthy of belief” trong A Pilgrim’s Handbook to Fatima (2001),
58.
[29] X. Mark I. Miravalle, et al., Mariology: A
Guide for Priests, Deacons, Seminarians, and Consecrated Persons (Thánh
mẫu học: Bản hướng dẫn các linh mục, phó tế, chủng sinh, và những người thánh
hiến) (ISBN-10: 15791-83557, 2008), 880.
[38] X. Fatima Apparitions (x. https://www.theholyrosary.org/fatimaapparitions ,
lấy ngày 01-12-2016).
[39] “The apparitions of Our Lady were advanced one
year before by three apparitions of an angel who prepared the little seers to
become messengers of the Mother of God.” (http://www.theholy-rosary.org/fatimaapparitions,
lấy ngày 01-12-2016).
[40] Ba trẻ kể lại rằng người phụ nữ này đã đích thân
xưng mình là “Đức mẹ Mân Côi”. Vì thế, tước hiệu bao gồm cả hai tước hiệu nói
trên tất sẽ là “Đức mẹ Mân Côi Fa-ti-ma” (Nossa Senhora do Rosário de Fátima).
[41] X. First Apparition of Our Lady (x. https://www.theholyrosary.org/fatimaapparitions, lấy ngày 01-12-2016).
[42] Theo Lu-xi-a, việc dâng hiến nước Nga cho Mẹ
Ma-ri-a sẽ mở ra một kỷ nguyên của hòa bình (x. De Marchi 1952).
[43] Gia-xin-ta về nhà thuật lại sự việc cho cha mẹ
nghe. Tin này loan truyền nhanh khắp làng. Mọi người tỏ ra không tin. Vị linh mục
chính xứ gặng hỏi thông tin từ Lu-xi-a, và cũng không tin. Trong báo cáo gửi
lên giám mục giáo phận (Leiria), ngài viết: “cần phải xa lánh chuyện này”.
[44] X. Second Apparition of Our Lady (x. https://www.theholyrosary.org/fatimaapparitions, lấy ngày 01-12-2016).
[45] Những người đi theo không nhìn và nghe thấy gì,
chỉ nhìn thấy cành cây nhỏ (nơi đức mẹ hiện đến) trĩu xuống, rồi sau đó bật lên
(khi đức mẹ biến đi)
[46] Đức Mẹ còn nói thẳng với Lu-xi-a: “Ta sẽ sớm đưa
Phan-xi-cô và Gia-xin-ta về trời, còn con, con sẽ ở lại thế gian một thời gian.
Chúa Giê-su muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”.
[47] X. Third Apparition of Our Lady (x. https://www.theholyrosary.org/fatimaapparitions, lấy ngày 01-12-2016).
[48] Năm 1942, hai bí mật đầu đã được công bố, còn bí
mật thứ ba thì mãi tới năm 2000, mới được công bố
[49] X. Fourth Apparition of Our Lady (x. https://www.theholyrosary.org/fatimaapparitions, lấy ngày 01-12-2016).
[50] X. Louis Kondor, Sister Lucia’s Memoirs ( Hồi
ký của Lu-xi-a) (1976). Từ Lisbon đến theo lời mời của cha sở để giúp các
trẻ em xưng tội, Phan-xi-cô Cruz, S.J. (1859-1948), vị linh mục thánh thiện,
cũng từng tham gia chất vấn. Sau này, ngài còn góp phần vào những thủ tục phong
chân phước.
[53] X. Fifth Apparition of Our Lady (x. https://www.theholyrosary.org/fatimaapparitions, lấy ngày 01-12-2016).
[54] X. http://www.liendoanconggiao.net/index.php;
http://vnlogis-tics.vn/vn/tin-tuc/cdg-duc-me-fatima...
[55] Theo Avelino de Almeida, Phóng viên báo O Século,
đám đông hôm ấy khoảng từ ba mươi đến bốn mươi ngàn người; nhưng theo GSTS.
Joseph Garrett, thì hôm ấy có đến cả trăm ngàn người (x. The True Story of
Fatima, Catechetical Guild Entertainment Society [Minnesota: St. Paul,
1952], 177, 185-7).
[56] Việc lạ xảy ra trong khoảng mười phút, sau đó mọi
sự trở lại bình thường. Hiện tượng này được hầu hết đám đông chứng kiến, và một
số người ở cách đó hàng dặm cũng nhìn thấy (x. Journal of Meteorology,
Vol. 14, no. 142, October 1988). Báo Ilustração Portugueza ngày 29-10-1917 có
đăng ảnh chụp cảnh đám đông dân chúng đang ngẩng nhìn Phép lạ Mặt Trời (khi Đức
Mẹ hiện ra ở Fa-ti-ma).
[57] Tuy nhiên, trong khoảng thời gian này, các nhà
khoa học trên thế giới không hề ghi nhận một hiện tượng khác thường nào của mặt
trời.
[58] Mẹ Fa-ti-ma đã hiện ra với Lu-xi-a, Phan-xi-cô,
Gia-xin-ta để trao sứ điệp hòa bình chân chính cho nhân loại (x. https://ducmefatimamancoi.org/a151/trong-tam-cua-su-diep-fatima ).
[59] Điều quan trọng cần xác tín là khi trao sứ điệp
Fa-ti-ma, Đức mẹ Ma-ri-a làm theo cách thức của Thánh kinh, chẳng hạn như: (1)
“Các ngươi hãy ăn năn sám hối, để được sống” (Ed 18,32); (2) “Anh em hãy
ăn năn sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2); (3) “Nếu các ngươi
không ăn năn sám hối, thì các người cũng sẽ bị chết như vậy” (Lc 13,3).
[60] Lu-xi-a sinh ngày 22-3-1907 và qua đời ngày
13-01-2005, thọ hơn 97 tuổi (x. http://www.kinhmungmaria.com)
[61] Gia-xin-ta Marto ngã bệnh khoảng tháng 10 năm
1918, và không lâu sau đó, Phan-xi-cô Marto cũng ngã bệnh. Cả hai đều bệnh nặng.
Nhiều lần Gia-xin-ta nói với Lu-xi-a: “Em cảm thấy trong ngực đau đớn lắm.
Nhưng em không nói gì với má em. Em muốn chịu đau đớn vì Chúa để đền tạ Trái
Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ Ma-ri-a, để cầu cho đức thánh cha và cho tội nhân trở lại”
(x. Kondor, Sister Lucia’s…, 125). Gia-xin-ta được đưa tới Bệnh viện
Thánh Âu-tinh tại Vila Nova de Ourem ngày 01-7-1919, rời ngày 31-8-1919; ngày
02-02-1920, Gia-xin-ta được đưa tới Bệnh viện Dona Estefania, tại đây
Gia-xin-ta qua đời lúc 10 giờ 30 tối. Phan-xi-cô mất khi 11 tuổi (sinh ngày
11-6-1908 và qua đời ngày 04-4-1919); còn Gia-xin-ta mất khi 10 tuổi (sinh ngày
11-3-1910 và qua đời ngày 20-2-1920) (x.
http://vi.radiovaticana.va/news-/2017).
[65] Bí mật thứ hai bao gồm những hướng dẫn của đức mẹ
để cứu các linh hồn trong hỏa ngục và biến đổi thế giới theo đức tin Ki-tô
giáo.
[67] X. Vũ Văn An, Fa-ti-ma, Đức Gio-an Phao-lô II
và Bí mật Thứ Ba (x. http://conggiao.info/fatima-duc-gioan-phaolo-ii-va-bi-mat-thu-ba-d-35590 ).
[68] Thật vậy, Ðức mẹ Ma-ri-a đã được xưng tụng cách đặc
biệt bằng rất nhiều tước hiệu. Cụ thể, Kinh Cầu Đức Bà nêu lên cả tước hiệu
chính thức lẫn không chính thức của Đức bà Ma-ri-a (có một số tước hiệu mang ý
nghĩa “chưa chuẩn lắm” lắm về phương diện thần học).
[69] Phan-xi-cô và Gia-xin-ta mất sớm trong đợt dịch
cúm Tây Ban Nha: Phan-xi-cô chết năm 1919, Gia-xin-ta chết năm 1920. Hiện nay,
hai ngôi mộ của các ngài đang đặt trong Vương cung Thánh Đường Fa-ti-ma (Bồ Đào
Nha).