P H Ầ N B A
HƯỚNG VỀ TƯƠNG LAI
VÀ NỖ LỰC XÂY DỰNG GIÁO HỘI
NHƯ LÒNG CHÚA MONG ƯỚC
Cùng với Giáo
Hội Việt Nam, chúng ta nhìn vào bối cảnh hiện tại của đất nước với cặp mắt đức
tin để phân định những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách đố cho việc thực
thi sứ mạng loan báo Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài đồng thời tìm ra một phương
thức mới để chu toàn sứ mạng ấy. Phương thức ấy là ĐỐI THOẠI với thế giới
chung quanh: với người nghèo, với nền văn hóa dân tộc và với các tôn giáo, là
yêu thương và phục vụ đồng bào – đặc biệt trong các lãnh vực giáo dục, gia
đình, bác ái, dấn thân xã hội, truyền thông và di dân.
ĐỀ TÀI 9: GIÁO HỘI VIỆT
ĐỔI MỚI NHIỆT TÌNH LOAN BÁO TIN MỪNG
A. TRÌNH BÀY
Kinh
nghiệm về sự hiệp thông trong Giáo Hội không những thúc đẩy mọi thành phần Dân
Chúa tham gia vào việc xây dựng Giáo Hội, mà còn thúc đẩy họ dấn thân vào công
cuộc truyền giáo của Giáo Hội, vì “hiệp thông và truyền giáo liên kết mật
thiết với nhau, cả hai thâm nhập vào nhau và bao hàm lẫn nhau, đến độ hiệp
thông vừa là nguồn mạch vừa là kết
quả
của việc truyền giáo: hiệp thông mang tính truyền giáo và truyền giáo nhằm mục
đích hiệp thông ... Giáo Hội ý thức rằng sự hiệp thông mà Giáo Hội đã đón nhận
như một hồng ân, là được ban cho hết thẩy mọi người. Vì thế, Giáo Hội cảm thấy
mình mắc nợ hết mọi người và từng người (KTHGD 32). Các giám mục Việt Nam tin
rằng “đoàn Dân Chúa khi sống trọn vẹn tình hiệp thông giữa lòng Giáo Hội (ad
intra), sẽ thêm nhiệt thành khi gặp gỡ và đối thoại với thế giới chung quanh
(ad extra) ... Giáo Hội hiệp thông là điểm xuất phát đầy năng lực cho sứ vụ
tông đồ hướng đến một Vương Quốc Thiên Chúa không biên giới” (Đề Cương 22).
Giáo Hội Việt
Giáo Hội Việt Nam không chỉ xác tín sứ
vụ mình đang thực thi tại đây và lúc này gắn liền với sứ vụ duy nhất của Giáo
Hội phổ quát, mà còn xác tín những hoạt động nhằm thăng tiến con người hay xây
dựng xã hội công bằng cũng là cấu tố của việc rao giảng Tin Mừng. Vì thế, Giáo
Hội “không bao giờ tách rời đức tin khỏi cuộc sống, không chỉ chăm chú vào
những thực hành tôn giáo để rồi thờ ơ với các hoạt động xã hội. Niềm mong đợi
trời mới đất mới không cho phép người Kitô hữu sao nhãng việc thăng tiến xã hội
trần thế theo đúng tinh thần Tin Mừng. Đối với Giáo Hội, sứ vụ là hoạt động có
tính chiêm niệm và là chiêm niệm mang tính hoạt động. Vì thế, hoạt động cho
công bằng, bác ái và xót thương có tương quan chặt chẽ với đời sống cầu nguyện
và chiêm niệm đích thực. Chính khoa linh đạo này sẽ là nguồn mạch trào tuôn các
hoạt động loan báo Tin Mừng” (x. Đề Cương 25).
Giáo Hội Việt
B. HỎI-ĐÁP
1- H. Hiệp thông và truyền giáo liên kết
với nhau như thế nào?
T. Hiệp thông và truyền giáo liên kết
mật thiết với nhau, cả hai thâm nhập vào nhau và bao hàm lẫn nhau, đến độ hiệp
thông vừa là nguồn mạch vừa là kết quả của việc truyền giáo: hiệp thông mang
tính truyền giáo và truyền giáo nhằm mục đích hiệp thông.
2- H. Giáo Hội ý thức thế nào về hồng ân
hiệp thông?
T. Giáo Hội ý thức rằng sự hiệp thông
mà Giáo Hội đã đón nhận như một hồng ân, là được ban cho hết thẩy mọi người.
Vì thế, Giáo Hội cảm thấy mình mắc nợ hết mọi người và từng người.
3- H. Giáo Hội Việt
T. Giáo Hội Việt Nam không những xác
tín sứ vụ mình đang thực thi tại đây và lúc này gắn liền với sứ vụ duy nhất của
Giáo Hội phổ quát, mà còn xác tín rằng những hoạt động nhằm thăng tiến con
người hay xây dựng xã hội công bằng cũng là
cấu tố của việc rao giảng Tin Mừng.
4- H. Vì sao thời gian ân sủng của Năm
Thánh cũng là thời điểm thuận tiện để Giáo Hội Việt
T. Vì Chúa muốn những gì Ngài đã gieo
trồng trên mảnh đất này phải sinh hoa kết trái và vì Việt Nam đang ở trong
giai đoạn mới của lịch sử, nên đức tin phải được chia sẻ một cách mới mẻ, với
những hình thức mới, theo những phương pháp mới, và do những con người mới.
5- H. Giáo Hội Việt
T. Giáo Hội Việt Nam không muốn thực
thi sứ vụ với não trạng tự tôn nhưng muốn đi theo Thiên Chúa tới bất cứ nơi
nào Ngài dẫn đến, nhận ra sự hướng dẫn của Ngài giữa những biến động trên thế
giới, can đảm và trung thành thực thi mệnh lệnh của Ngài.
C. GỢI Ý TRAO ĐỔI
1. Giáo xứ của bạn đánh giá thế nào về nhiệt tình truyền giáo của mình? Nhiệt tình ấy được thể hiện trong những lãnh vực nào và như thế nào?
2. Bất cứ ở đâu sự hiệp thông suy yếu thì chứng từ và công việc
truyền giáo của Giáo Hội bị suy giảm. Bạn có kinh nghiệm nào trong về vấn đề
này?
3. Giáo xứ của bạn có xem việc thăng tiến con người hay xây dựng xã hội công bằng là nghĩa vụ nằm trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng không? Nếu không thì cần thăng tiến những gì?