PHÁT HUY SỰ THAM GIA CỦA GIÁO DÂN
VÀO HOẠT ĐỘNG GIÁO LÝ
A. TRÌNH BÀY
Một trong những điều chúng ta hân hoan
tạ ơn Chúa trong Năm Thánh 2010 là sự gắn bó và tham gia tích cực của người
giáo dân trong lãnh vực huấn giáo hay trong việc dạy giáo lý, bởi con số
giáo lý viên thiện nguyện trong bản báo cáo hàng năm của các giáo phận ngày một
tăng. Hồng ân này đòi hỏi chúng ta phải bảo tồn và phát huy dưới sự hướng dẫn
của Giáo Hội.
Trong cuốn Hướng Dẫn Tổng Quát Về Việc Dạy Giáo Lý năm 1997, Bộ
Giáo Sĩ ghi nhận huấn giáo là một trong những hoạt động nổi bật nhất của Giáo
Hội hiện nay. Có rất nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân hăng hái và kiên
trì trong việc dạy giáo lý. Huấn giáo ở nhiều nơi chiếm địa vị ưu tiên
trong phương án mục vụ của giáo phận cũng như giáo xứ (x. 29).
Trong bối cảnh của một thế giới mà
cảm thức tôn giáo đang bị lu mờ, theo Bộ Giáo Sĩ, huấn giáo phải có đặc
tính truyền giáo và toàn diện; phải cổ võ cho sự hiệp thông với Chúa
Giêsu Kitô và gắn bó với đời sống của Giáo Hội, phải toàn vẹn về
nội dung và thích ứng với bối cảnh văn hoá của các dân tộc, phải
liên kết mật thiết với phụng vụ và bí tích cũng như hướng đến việc
tông đồ và truyền giáo (x. 30).
Huấn giáo đặt nền tảng trên sứ vụ rao
giảng Tin Mừng của Giáo Hội và là một trong những thời điểm chủ yếu của tiến
trình rao giảng này. Trong viễn tượng này, giáo lý dự tòng phải là hình thức
kiểu mẫu cho tất cả những hình thức dạy giáo lý khác và giáo lý người lớn là
hình thức giáo lý ưu việt nhất mà giáo lý các lứa tuổi khác phải quy chiếu vào
(x. 59).
Huấn giáo làm cho việc tuyên xưng đức
tin của mọi tín hữu trở nên sống động, minh nhiên và hữu hiệu. Những nhiệm vụ
căn bản của huấn giáo là giúp hiểu biết đức tin, giáo dục phụng vụ, huấn luyện
luân lý, dạy cầu nguyện, giáo dục đời sống cộng đoàn và truyền giáo (x. 82-86).
Bộ Giáo Sĩ kêu gọi các giáo xứ thúc
đẩy những ơn gọi cho việc huấn giáo. Vì nhu cầu huấn giáo ngày càng trở nên đa
dạng, nên số lượng giáo lý viên cần được đảm bảo: đảm bảo một số lượng giáo lý
viên trọn thời gian cống hiến trọn vẹn và thường xuyên hơn cho việc dạy gíao
lý, để hỗ trợ cho các giáo lý viên bán thời gian thường là đông hơn cả. Để có
đủ số lượng giáo lý viên được đào tạo kỹ lưỡng, giáo phận phải dành ưu tiên
tuyệt đối cho việc đào tạo giáo lý viên giáo dân và việc đào tạo này phải được
thực hiện cách nghiêm túc (x. 233-234).
Những hướng dẫn trên đặt ra cho chúng
ta rất nhiều vấn đề cần bàn luận và trao đổi, nghiên cứu và giải quyết, nhằm
canh tân một trong những hoạt động nổi bật nhất của Giáo Hội toàn cầu cũng như
Giáo Hội Việt
B. HỎI-ĐÁP
1- H. Trong bối cảnh của một thế giới
mà cảm thức tôn giáo đang bị lu mờ, theo Bộ Giáo Sĩ, huấn giáo phải có
những đặc tính nào?
T. Huấn giáo phải là công cuộc huấn
luyện toàn diện và toàn bộ đời sống Kitô hữu; phải cổ võ cho sự hiệp thông
với Chúa Giêsu Kitô và gắn bó với đời sống của Giáo Hội, phải toàn
vẹn về nội dung và thích ứng với bối cảnh văn hoá của các dân tộc,
phải liên kết mật thiết với phụng vụ và bí tích cũng như hướng đến
việc tông đồ và truyền giáo.
2- H. Theo Bộ Giáo Sĩ, huấn giáo hay
việc dạy giáo lý phải đặt trên nền tảng nào?
T. Huấn giáo hay việc dạy giáo lý phải
đặt nền trên sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội. Nó là một trong những thời
điểm chủ yếu của tiến trình rao giảng này.
3- H. Theo Bộ Giáo Sĩ, hình thức giáo lý
kiểu mẫu và ưu việt nhất là hình thức nào?
T. Giáo lý dự tòng là hình thức kiểu
mẫu cho những hình thức dạy giáo lý khác và giáo lý người lớn là hình thức giáo
lý ưu việt nhất mà giáo lý các lứa tuổi khác phải quy chiếu vào.
4- H. Theo Bộ Giáo Sĩ, thế nào là một
đức tin trưởng thành?
T. Đức tin trưởng thành là một đức tin
sống động, minh nhiên và hữu hiệu.
5- H. Để giúp cho các tín hữu có được
một đức tin trưởng thành, huấn giáo phải thực hiện những nhiệm vụ cơ bản nào?
T. Huấn giáo phải thực hiện những những
nhiệm vụ cơ bản này:
– một là
giúp hiểu biết đức tin,
– hai là giáo dục phụng vụ,
– ba là huấn luyện luân lý,
– bốn là dạy cầu nguyện
– năm là giáo dục đời sống cộng đoàn
– và sáu là khai tâm cho việc truyền giáo.
C. GỢI Ý
TRAO ĐỔI
1. Huấn giáo có phải
là hoạt động nổi bật nhất và chiếm địa vị ưu tiên trong phương án mục vụ của
giáo phận cũng như giáo xứ của bạn không?
2. Bạn có biết tỉ lệ
giáo lý viên trên tổng số giáo dân trong giáo xứ của bạn là bao nhiêu không?
Trong số đó, có bao nhêu giáo lý viên đã được đào tạo và chuẩn bị kỹ càng?
3. Bạn có nghĩ rằng
trong tương lai, Giáo Hội Việt Nam cần đảm bảo một số lượng giáo lý viên trọn
thời gian cống hiến trọn vẹn và thường xuyên hơn cho việc dạy giáo lý và hỗ trợ
cho đông đảo giáo lý viên bán thời gian không? Tại sao?