Tháng 12/2009
Tuần 4: Hân hoan và cảm tạ
khi nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt
NHÌN LẠI CHẶNG ĐƯỜNG
LỊCH SỬ GIÁO HỘI TRƯỞNG THÀNH TẠI VIỆT NAM
A. PHẦN TRÌNH
BÀY
Việc thành lập
hàng giáo phẩm địa phương, vốn là ước vọng của Thánh Bộ Truyền Giáo ngay từ bản
huấn thị 1659, nhưng trong thực tế, phải đến thế kỷ XX mới thành sự thật. Năm
1846, Ðức Piô IX đã đưa ra những chỉ thị rất cụ thể: “Phải hủy bỏ tập tục chỉ
chấp nhận một hàng giáo sĩ bản xứ phụ thuộc. Những người làm việc Tin Mừng, dù
thuộc xứ nào, đều bình đẳng”. Sau đó, Ðức Lêô XIII đã đẩy công việc nhanh hơn
bằng cách lập các Tòa Khâm Sứ, trước tiên là tại Ấn Ðộ (1884) rồi đến Hoa Kỳ và
Canada (1898). Ðến thời Ðức Piô XI, Việt Nam có Tòa Khâm Sứ tại Huế năm 1925.
Chính dưới thời Ðức Piô XI, nhiều quốc gia thuộc miền truyền giáo có Giám mục:
Ấn Ðộ (1923), Trung Hoa (1926), Nhật Bản (1927) và Việt Nam (1933). Ðặc biệt kỳ
đó, Tòa Thánh không chỉ hỏi ý kiến các thừa sai, mà cả ý kiến các linh mục Việt
Nam tại Sàigòn năm 1925, và tại Huế 1930. Kể từ đây sinh hoạt của Giáo Hội Việt
Nam linh động hẳn lên: đón nhận nhiều Dòng Tu quốc tế, thành lập và cải tổ các
Dòng Tu trong nước, số linh mục Việt ngày càng đông đảo, số địa phận ngày càng
gia tăng. Các địa phận mới được thiết lập là: Thái Bình (1936), Vĩnh Long
(1938), Cần Thơ (1955) và Nha Trang (1957).
1. Ngày lịch sử
24-11-1960
Qua Tông Hiến
Venerabilium Nostrorum, ngày 24-11-1960, Ðức Gioan XXIII đã thiết lập thêm ba
địa phận mới là Ðà Lạt, Mỹ Tho và Long Xuyên, tuyên bố thiết lập ba Giáo Tỉnh
(Hà Nội, Huế, Sàigòn) và bổ nhiệm các giám mục chính tòa. Số giáo phận tại Việt
Nam lúc này là 20, được phân chia như sau: Hà Nội 10, Huế 4 và Sàigòn 6. Ðứng
đầu ba Giáo Tỉnh là ba Tổng Giám Mục Giuse Trịnh Như Khuê, Phêrô Ngô Ðình Thục
và Phaolô Nguyễn văn Bình. Chỉ trừ hai giáo phận Nha Trang (Ðức Cha Piquet
Lợi), và Kontum (Ðức Cha Seitz Kim), 18 Giáo phận còn lại đều do các giám mục
Việt Nam phụ trách. Việc thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam năm 1960 quả là một
bước ngoặt đáng ghi nhớ. Hạt giống Tin Mừng đã được gieo trồng suốt bốn thế kỷ,
nay đơm bông kết trái trong bối cảnh Công Ðồng Vatican II đã đưa người người
tín hữu Việt Nam vào trào lưu chung của Hội Thánh toàn cầu: trở về nguồn Tin
Mừng và canh tân thích nghi với thời đại; cởi mở và đối thoại với mọi nền văn
hóa, cùng chung âu lo và hy vọng với mọi người, để dấn thân phục vụ xã hội ngày
càng đa dạng và phong phú hơn.
2. Nhìn lại một
chặng đường ...
Sau 1960, năm
địa phận khác được thành lập là Ðà Nẵng (1963), Xuân Lộc (1966), Phú Cường
(1966), Ban Mê Thuột (1967), Phan Thiết (1975), và Bà – Rịa (2005) nâng tổng số
giáo phận Việt Nam hiện nay lên 26 địa phận (Hà Nội 10, Huế 6, Sàigòn 10). Tính
đến tháng 6-1992, Việt Nam đã có tất cả 67 giám mục (32 vị đã được Chúa gọi
về). Từ năm 1975, trong bối cảnh đất nước thống nhất, Hội Thánh Việt Nam ở hai
miền Nam Bắc được xum họp một nhà. Kể từ 1980, Ðại hội các Giám mục toàn quốc
đã được tiến hành hằng năm, và Hội Thánh Việt Nam khẳng định ý muốn là “Hội
Thánh Chúa Giêsu Kitô trong lòng dân tộc Việt Nam, để phục vụ hạnh phúc của đồng
bào” (X. Thư chung 1980).
Nhìn lại lịch sử
hơn 400 năm, như Mẹ MARIA, người tín hữu Việt Nam cất cao lời ngợi khen và cảm
tạ Thiên Chúa, vì khi quay nhìn quá khứ với cặp mắt đức tin, ta nhận ra Chúa
hằng hiện diện và đồng hành với Hội Thánh trong từng bước đi, dù khi thành công
hay thất bại, dù lúc chan hòa ánh sáng hay bóng tối đong đầy. Nhìn lại lịch sử
hơn 400 năm, người tín hữu Việt Nam cũng ý thức rằng đức tin mà mình lãnh nhận,
đã được gieo trồng và vun xới bằng mồ hôi và nước mắt; hơn nữa bằng cả máu đào
của tiền nhân. Vì thế, phải hết sức trân trọng, gìn giữ và phát huy đức tin ấy
bằng cả cuộc đời. Hơn thế nữa, nếu đức tin là hồng ân đã lãnh nhận xuyên qua
gian khổ của tiền nhân, người tín hữu Việt Nam hôm nay phải tiếp tục công trình
của cha ông trong nỗ lực truyền giáo, để tinh thần Phúc Âm được thấm nhập vào
mọi thực tại xã hội, và quê hương Việt Nam thân yêu được phát triển theo hướng
đi của Nước Trời, Nước Công Chính, Yêu Thương và An Bình. MARANATHA, Lạy Chúa
GIÊSU, Xin Ngài đến! (Kh 22,20).
(Trích “Lược Sử
Hội Thánh Công Giáo Tại Việt Nam” trong Giáo Lý Hội Thánh Công
Giáo của HĐGMVN, trang 114-116)
B. PHẦN HỎI-ĐÁP
1- H. Đức Giám
mục tiên khởi người Việt Nam là ai?
T. Đức Giám mục
tiên khởi người Việt Nam là Đức cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng. Ngài được
tấn phong Giám mục ngày 11.6.1933.
2- H. Hàng Giáo
phẩm Việt Nam được thiết lập năm nào?
T. Ngày
24.11.1960, Đức Giáo Hoàng Gioan 23 đã thiết lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam, đánh
dấu sự trưởng thành của Giáo Hội Việt Nam sau 4 thế kỷ đón nhận Tin Mừng.
3- H. Hiện nay
Giáo Hội Việt Nam có bao nhiêu giáo phận?
T. Hiện nay Giáo
Hội Việt Nam có 26 giáo phận, họp thành 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài Gòn.
4- H. Sau ngày
thống nhất đất nước, đường hướng mục vụ của Giáo Hội Việt Nam là gì?
T.
Năm 1980, các giám mục trong cả nước đã nhóm họp và khẳng định ý muốn là “Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô trong lòng
dân tộc Việt Nam, để phục vụ hạnh phúc của đồng bào.”
5- H.
Để là “Hội Thánh Chúa
Giêsu Kitô trong lòng dân tộc Việt Nam,” Giáo Hội Việt Nam phải làm gì?
T. Giáo Hội Việt
Nam phải hội nhập vào trong nền văn hóa Việt Nam và trở thành một Giáo Hội địa
phương để có thể hoàn thành sứ vụ yêu thương và phục vụ của mình.
C. PHẦN GỢI Ý TRAO
ĐỔI
1. Cùng với Giáo
Hội Việt Nam nhìn lại lịch sử hơn 400 năm, bạn cảm thấy thế nào? Vì sao?
2. Theo bạn, điều
gì giúp Giáo Hội Việt Nam vượt qua những khó khăn và không ngừng phát triền?
3. Nhìn lại lịch
sử, Giáo Hội Việt Nam học được những bài học gì cho đời sống cũng như sứ vụ của
mình?