11.3 THỰC TRẠNG TÔN GIÁO
A. TRÌNH BÀY
Không ai có thể phủ nhận người Việt
Tuy nhiên, cảm thức tôn giáo trong giới
bình dân thường thiên về tình cảm, không để tâm suy xét, tìm hiểu điều mình tin
tưởng, nên dễ dàng chấp nhận cả những hình thái lộn xộn, mập mờ, mê tín và dị
đoan trong tôn giáo. Thêm vào đó, chủ trương “đạo tại tâm” cũng là một lý do
thường được nại đến để biện minh cho việc không muốn thực hành hay tham dự các
nghi lễ tôn giáo. Não trạng này có khi vẫn còn tồn đọng cách nào đó nơi những
tín hữu chưa đủ xác tín về ý nghĩa và giá trị của các bí tích Kitô giáo. Hơn
nữa, dân chúng thường hiểu cách đơn giản về các tôn giáo như là những nhân bản
thuyết, cốt yếu chỉ liên quan đến nếp sống luân lý đạo đức. Chính vì thế, rất
phổ biến ở Việt
Nhìn về các tôn giáo, Giáo Hội luôn xác tín
rằng “Thiên Chúa không ở xa, ở trên hay tách khỏi con người, nhưng Ngài ở rất
gần, kết hiệp với mọi người và cả nhân loại trong tất cả những trạng huống của
đời sống” (GHCA 12). Chắc chắn Thánh Thần Thiên Chúa vẫn âm thầm hoạt động
trong các truyền thống tôn giáo và văn hoá và những thăng trầm của lịch sử nhân
loại. Chính Thánh Thần làm nảy sinh những lý tưởng sống cao đẹp làm thăng tiến
con người. Nhờ sự soi dẫn của Ngài, các tôn giáo, các nền văn hoá và triết lý
có thể giúp con người, cá nhân cũng như tập thể, trong nỗ lực chống lại sự dữ
để phục vụ sự sống và mọi điều tốt lành. Vì vậy, Giáo Hội luôn tôn trọng và tìm
cách đối thoại với các tôn giáo, vì biết rằng những giá trị tâm linh nơi những
truyền thống tốt đẹp ấy sẽ được tiếp nhận và kiện toàn trong chân lý mạc khải
của Đức Giêsu Kitô (Đề Cương 4).
B. HỎI-ĐÁP
1- H. Người Việt
T. Người Việt
2- H. Các tôn giáo đã đóng góp những
gì cho dân tộc và xã hội Việt
T. Các tôn giáo đã ảnh hưởng đến nếp
sống đạo đức và luân lý của dân tộc Việt Nam, đã nên như vai trò cột trụ nâng
đỡ tinh thần dân tộc qua những thăng trầm xã hội, đã giúp cho lương tâm người
dân Việt thêm bén nhạy về điều thiện điều ác, và có những đóng góp đáng kể
trong việc hình thành và phát triển đất nước.
3- H. Cảm thức tôn giáo của người Việt
thường có những hạn chế nào?
T. Cảm thức tôn giáo của người Việt
thường có những hạn chế này:
– Một là
thiên về tình cảm, ít tìm hiểu điều mình tin tưởng, nên dễ dàng chấp nhận cả
những hình thái mê tín dị đoan;
– Hai là
chủ trương “Đạo tại tâm” để biện minh cho việc không muốn thực hành hay tham
dự các nghi lễ tôn giáo;
– Ba là
chủ trương “Đạo nào cũng tốt như nhau” do hiểu tôn giáo cốt yếu chỉ liên
quan đến nếp sống luân lý đạo đức.
4- H. Giáo Hội nhận định về các tôn giáo
như thế nào?
T. Giáo Hội luôn xác tín rằng Chúa
Thánh Thần vẫn âm thầm hoạt động trong các truyền thống tôn giáo. Chính Ngài
làm nảy sinh những lý tưởng sống cao đẹp giúp thăng tiến con người. Nhờ sự soi
dẫn của Ngài, các tôn giáo có thể giúp con người nỗ lực chống lại sự dữ để phục
vụ sự sống và mọi điều tốt lành.
5- H. Giáo Hội có thái độ như thế
nào đối với các tôn giáo?
T. Giáo Hội luôn tôn trọng và tìm cách
đối thoại với các tôn giáo vì biết rằng những giá trị tâm linh nơi những
truyền thống tốt đẹp ấy sẽ được tiếp nhận và kiện toàn trong chân lý mặc khải
của Đức Giêsu Kitô.
C. GỢI Ý TRAO ĐỔI
1. Bạn nghĩ thế nào về những đóng góp của các tôn giáo cho dân tộc và xã hội Việt Nam? Liệu có thể phát triển đất nước mà không cần đến tôn giáo không?
2. Bạn nghĩ thế nào về những hạn chế trong cảm thức tôn giáo cũng như trong cách sống đạo của người Việt? Chúng ta cần làm gì để khắc phục?
3. Dẫn chứng để minh hoạ cho chân lý “Thánh Thần vẫn âm thầm hoạt động trong các truyền thống tôn giáo và làm nảy sinh những lý tưởng sống cao đẹp giúp thăng tiến con người.”