WHĐ (01.03.2024) – Hôm thứ Sáu ngày 23.02.2024, Đức Hồng y Raniero Cantalamessa OFM Cap, giảng
thuyết viên phủ Giáo Hoàng, bắt đầu loạt bài giảng Mùa Chay năm nay. Bài đầu tiên
với chủ đề: “Ta là bánh trường sinh”. Sau đây là toàn văn Việt ngữ bài giảng của Đức Hồng
y:
Đức Hồng y Raniero Cantalamessa OFM Cap
Bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho Giáo triều Rôma năm 2024
Bài 1: “TA LÀ BÁNH TRƯỜNG SINH”
Bắt đầu các bài giảng
Mùa Chay năm nay, chúng ta lại khởi đầu với cuộc đối thoại nổi
tiếng giữa Chúa Giêsu và các tông đồ ở Xêdarê Philípphê:
“Khi Ðức Giêsu đến vùng
kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói
Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy
Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các
vị ngôn sứ". Ðức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo
Thầy là ai?" Ông Simon Phêrô thưa: "Thầy là Ðấng Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt
16,13-16).
Trong toàn bộ cuộc đối thoại, vào lúc này, chúng ta chỉ tập trung quan tâm đến câu hỏi thứ hai của Chúa Giêsu: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai?” Tuy nhiên, chúng ta không hiểu câu hỏi này theo nghĩa mà nó thường được hiểu; nghĩa là, như thể Chúa Giêsu
quan tâm đến việc muốn biết Giáo hội nghĩ gì về Người, hoặc những
nghiên cứu thần học của chúng ta đã dạy chúng ta điều gì về Người. KHÔNG PHẢI VẬY! Chúng ta hãy coi câu hỏi đó như mọi lời
phát ra từ miệng Chúa Giêsu, nghĩa là, được ngỏ với những người nghe nó, với tư
cách cá nhân và riêng tư.
Để thực hiện bài kiểm
tra này, chúng ta sẽ nhờ thánh sử Gioan giúp đỡ. Trong Phúc
âm của ngài, chúng ta tìm thấy một loạt lời tuyên bố của Chúa Giêsu, “Ta là”,
nổi tiếng, trong đó Chúa Giêsu mạc khải những gì Người nghĩ về chính
mình, Người nói mình là ai: “Ta là bánh trường sinh”, “Ta là ánh sáng thế gian”, v.v. Chúng ta sẽ nhìn lại 5 trong số những mạc khải này
và mỗi lần chúng ta sẽ tự vấn liệu Chúa Giêsu có thực sự dành cho chúng ta
điều Người nói “Ta là” hay không và
làm sao để làm cho Người ngày càng trở nên
như vậy.
Đó sẽ là khoảnh khắc để
trải nghiệm theo một cách đặc biệt. Nghĩa là không hướng mắt ra ngoài để nhìn vào những vấn đề của thế giới và của chính Giáo hội, như người ta buộc phải
làm trong những bối cảnh khác, nhưng là với cái nhìn nội tâm. Vậy
thì, một khoảnh khắc thân mật và tách biệt, và do đó, xét trên mọi khía cạnh,
là ích kỷ chăng? Không phải vậy! Đó là Phúc âm hoá chính
mình để Phúc âm hoá , đong đầy Chúa Giêsu nơi mình để
rồi nói về Tin Mừng “vì tình yêu đầy tràn”, như Hiến pháp nguyên thủy của Dòng Phanxicô đã khuyến
khích các nhà giảng thuyết, nghĩa là, vì một xác tín sâu xa, chứ không chỉ để
thi hành một nhiệm vụ.
* * *
Chúng ta hãy bắt đầu với câu tuyên bố “Ta Là” đầu tiên của Chúa Giêsu mà chúng ta gặp trong Phúc Âm thứ
tư ở chương 6: “Ta là bánh trường sinh”. Trước
hết, chúng ta hãy nghe phần mà chúng ta quan tâm nhất:
Họ lại hỏi: "Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi
thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã
ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn
bánh từ trời". Ðức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã
cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian". Họ liền nói: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy". Ðức Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng
khát bao giờ! (Ga 6, 30-35).
Đặt lời này trong ngữ cảnh. Trước đó,
Chúa Giêsu đã hóa 5 chiếc bánh và 2 con cá ra nhiều để nuôi 5000 người. Sau đó, Người rút lui để thoát khỏi sự nhiệt tình của những người muốn phong Người lên làm vua. Đám đông đổ
xô đi kiếm và tìm thấy Người ở
bên kia Biển hồ.
Tại điểm này, bắt đầu
bài diễn từ dài mà Chúa Giêsu cố gắng giải thích “dấu chỉ
bánh”. Người muốn nói rõ rằng có một loại bánh khác cần phải tìm
kiếm, mà nguyên liệu thực sự là một “dấu chỉ”. Đây là cách thế tương tự được áp dụng với người phụ nữ Samari trong chương 4 của Phúc âm Gioan. Ở đó, Chúa Giêsu muốn dẫn người phụ nữ khám phá
ra một loại nước khác, vượt
lên trên thứ nước thể lý vốn chỉ
làm dịu cơn khát trong chốc lát. Còn ở
đây, Chúa Giêsu muốn dẫn đám đông đi tìm một
loại bánh khác, khác với thứ bánh vật chất chỉ đủ no trong một ngày. Đối với
người phụ nữ Samari, người xin thứ nước huyền nhiệm đó và chờ đợi Đấng
Messia đến để đạt được điều
đó, Chúa Giêsu trả lời: “Ðấng ấy
chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4, 26).
Còn đối với đám đông đang đặt câu hỏi tương tự về
bánh, Người trả lời: “Chính ta là bánh trường sinh!”
Chúng ta tự hỏi: Chúng
ta ăn bánh trường sinh này như thế nào và ở đâu? Câu trả lời của các Giáo phụ
là: ở hai “nơi” hoặc hai cách: trong bí tích và trong Lời, nghĩa là
trong Bí tích Thánh Thể và trong Kinh thánh. Đúng là đã có
những điểm nhấn khác nhau. Một số vị, như Origen và trong số những vị nhóm Latinh là thánh Ambrosiô, nhấn mạnh nhiều hơn đến Lời
Chúa. Khi chú giải về việc hóa bánh ra nhiều,
thánh Ambrosiô viết: “Chiếc bánh mà Chúa Giêsu bẻ ra ám chỉ một cách mầu nhiệm Lời Chúa, là lời sẽ gia tăng khi được phân phát. Người đã ban
cho chúng ta lời của
Người như những chiếc bánh
được hoá ra nhiều trong miệng khi chúng ta nếm thử” Những vị khác, chẳng hạn như thánh Cyril
thành Alexandria thì lại nhấn mạnh đến việc giải thích Thánh Thể. Tuy
nhiên, không ai trong số các
ngài có ý định nói về cách này
để loại trừ cách kia. Chúng ta nói về Lời Chúa và Bí tích Thánh
Thể, như “hai chiếc bàn” được Đức Kitô dọn ra. Trong cuốn Gương Chúa
Giêsu, chúng ta đọc thấy:
Con cảm thấy trong cuộc đời này có hai thứ đặc biệt cần thiết đối với con
mà nếu không có thì những đau khổ sẽ không thể chịu nổi. Bị giam cầm ở đây
trong nhà tù thể xác này, con thú nhận rằng con cần hai thứ này, đó là lương thực
và ánh sáng. Vì thế, Chúa đã ban cho con trong sự yếu đuối của con Thánh Thể
Chúa để bồi dưỡng tâm hồn và thể xác con, và Chúa đã đặt Lời Chúa làm ánh sáng
dẫn đường cho đôi chân con. Không có Thánh Thể và Lời Chúa, con không thể sống thánh
thiện, vì Lời Chúa là ánh sáng tâm hồn và Thánh Thể là Bánh trường sinh. Đây
cũng có thể được gọi là hai chiếc bàn, một chiếc được đặt bên này và một chiếc
được đặt bên kia, trong ngôi đền quý giá của Giáo hội thánh thiện.[1]
Việc đơn phương
khẳng định một trong hai cách ăn bánh trường sinh này để loại trừ cách kia là kết
quả của sự chia rẽ tai hại đã xảy ra trong Kitô giáo phương Tây. Về phía Công
giáo, việc giải thích Thánh Thể cuối cùng đã trở nên ưu việt đến mức khiến
chương 6 của Phúc âm Gioan gần như tương đương với câu chuyện về việc thiết lập
Bí tích Thánh Thể. Để phản ứng lại, Luther đã tuyên bố ngược lại, nghĩa là bánh
trường sinh là Lời Chúa và bánh này được phân phát qua việc rao giảng và được
ăn nhờ đức tin.
Bầu khí đại kết vốn
đã được thiết lập giữa các tín hữu tin
vào Đức Kitô cho phép chúng
ta tái lập sự tổng hợp truyền thống hiện diện nơi các Giáo Phụ. Không còn nghi
ngờ gì nữa, bánh trường sinh đến với chúng ta qua Lời Thiên Chúa và đặc biệt là
lời Chúa Giêsu trong Phúc âm. Câu trả lời của Người đối với tên cám dỗ cũng nhắc
nhở chúng ta về điều này: “Người
ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời
miệng Thiên Chúa phán ra”
(Mt 4, 4). Nhưng làm sao chúng ta lại không thấy trong bài diễn từ của
Chúa Giêsu tại hội đường Capernaum cũng ám chỉ đến Thánh Thể? Toàn bộ bối cảnh
gợi lên một bữa tiệc: chúng ta nói về thức ăn và thức uống, việc ăn và uống, thân
xác và máu. Câu nói: “Ai không ăn thịt tôi và uống máu tôi…” gợi nhớ quá
rõ ràng những lời của công thức (“Hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Ta” và
“Hãy cầm lấy mà uống: đây là máu Ta”) đến mức bất kỳ mối quan hệ nào giữa chúng cũng không thể
phủ nhận.
Nếu trong khoa
chú giải và thần học, chúng ta chứng kiến một sự phân cực và đôi khi – tôi đang
nói – một sự tương phản giữa bánh Lời Chúa và bánh Thánh Thể, thì trong Phụng vụ,
sự tổng hợp của Lời Chúa và Thánh Thể luôn được trải nghiệm một cách hài hòa. Từ
thời xa xưa nhất, chẳng hạn như Thánh Justin Tử đạo, Thánh lễ bao gồm 2 thời điểm:
Phụng vụ Lời Chúa, với các bài đọc lấy từ Cựu Ước và “hồi ký của các tông đồ”,
và Phụng vụ Thánh Thể với việc truyền phép và rước lễ.
Ngày nay, như tôi
đã nói, chúng ta có thể quay trở lại với sự tổng hợp nguyên thủy giữa Lời Chúa
và Bí tích. Thật vậy, chúng ta phải tiến thêm một bước theo hướng này. Nó không
chỉ hệ tại việc ăn thịt và uống máu Đức Kitô trong Lời Chúa và trong bí tích
Thánh Thể, mà còn ở việc thấy việc ăn thịt và uống máu Đức Kitô được thực hiện
trong mọi khoảnh khắc và mọi khía cạnh của đời sống ân sủng của chúng ta. Khi
viết: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl 1,21), Thánh Phaolô không nghĩ
đến một thời điểm cụ thể nào cả, mà đối với ngài, Đức Kitô thực sự là bánh trường
sinh, trong mọi cách hiện diện của Người; chúng ta “ăn” Người bằng đức
tin, đức cậy, và đức ái, trong lời cầu nguyện và trong mọi sự. Con người được tạo
dựng để có được niềm vui và con người không thể sống mà không có niềm vui hoặc
không có hy vọng về niềm vui. Niềm vui là bánh của tâm hồn. Và Thánh Tông đồ cũng
tìm kiếm niềm vui đích thực – và khuyến khích những người theo ngài tìm kiếm niềm
vui này – nơi Đức Kitô: “Anh em
hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!” (Pl 4, 4).
Chúa Giêsu là
bánh trường sinh không chỉ vì những gì Ngài trao ban mà còn –
và trước hết – vì chính con người Ngài. Lời Chúa và Bí tích là phương tiện; việc
sống trong Ngài và nhờ Ngài là mục đích: “Như Chúa Cha là Ðấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ
nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6, 57). Trong bài thánh ca Adoro te
devote, vốn khơi dậy lòng đạo đức và tôn thờ Thánh Thể của tín hữu Công
giáo trong nhiều thế kỷ, có một câu diễn giải những lời này của Chúa Giêsu. Bài
thánh ca ấy như thế này:
Do đó, toàn bộ lời
nói của Chúa Giêsu có xu hướng làm sáng tỏ sự sống mà Người ban tặng: không phải
sự sống xác thể, mà là sự sống Thần Linh, sự sống đời đời. Tuy nhiên, không phải
theo chiều hướng này mà tôi muốn tiếp tục suy tư trong vài phút còn lại. Đối với
Phúc âm, luôn có 2 thao tác phải được thực hiện, tôn trọng nghiêm ngặt thứ tự của
chúng: trước hết là chiếm hữu, sau đó là bắt chước. Cho đến nay, chúng ta đã
chiếm hữu được bánh trường sinh nhờ đức tin và chúng ta làm điều đó mỗi khi rước
lễ. Bây giờ vấn đề là làm thế nào để mang bánh trường sinh vào trong cuộc sống thực
tế của chúng ta.
Để làm điều này,
chúng ta hãy tự vấn một câu hỏi đơn giản: Chúa Giêsu đã trở thành bánh sự sống
cho chúng ta như thế nào? Chính Người đã cho chúng ta câu trả lời chính xác
trong Phúc âm Gioan: “Thật, Thầy
bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Chúng ta biết rõ hình ảnh
rơi xuống đất và mục nát ám chỉ điều gì. Toàn bộ lịch sử của Cuộc Khổ Nạn được
chứa đựng trong đó. Chúng ta phải thử xem những hình ảnh đó có ý nghĩa gì với
chúng ta. Thật vậy, với hình ảnh về hạt lúa mì, Chúa Giêsu không chỉ nói lên số
phận cá nhân của Người mà còn là số phận của mỗi một môn đệ đích thực của Người.
Người ta không thể
nghe những lời của Giám mục Ignatius thành Antioch ngỏ với Giáo hội Rôma mà
không xúc động và không ngạc nhiên khi thấy ân sủng của Đức Kitô có thể thực hiện
cho loài người:
Tôi đang trao đổi thư từ với tất cả các giáo hội và mời họ nhận ra rằng tôi
đang tự nguyện chết vì Thiên Chúa - nếu đúng như vậy, xin anh em đừng ngăn cản
tôi. Tôi nài xin anh em, đừng dành cho tôi một sự tử tế không đúng lúc. Hãy để
tôi trở thành thức ăn cho dã thú - đó là cách tôi có thể đến gần với Thiên
Chúa. Tôi là lúa mì của Thiên Chúa và phải bị răng thú rừng nghiền nát để trở
thành chiếc bánh tinh tuyền cho Đức Kitô.[2]
Trước răng của
thú dữ, Giám mục Ignatius đã trải nghiệm những chiếc răng khác khiến ngài bị
nghiền nát, đó không phải răng của thú rừng mà là của con người: Thánh nhân viết,
“Từ Syria đến Roma, tôi chiến đấu với thú dữ, trên đất liền và trên biển,
ngày đêm bị trói vào 10 con báo, số ít binh lính được hưởng lợi từ tôi trở nên
tồi tệ hơn”. Điều này cũng có điều gì đó để nói với chúng ta. Trong môi trường
sống của mình, mỗi chúng ta đều có những hàm răng của thú dữ nghiền nát chúng
ta. Thánh Augustinô nói rằng con người chúng ta là “những chiếc bình đất làm
tổn thương nhau”. Chúng ta phải học cách để biến tình trạng này thành một
phương tiện thánh hóa chứ không phải để mình trở nên cứng lòng, hận thù và phàn
nàn!
Một câu châm ngôn
thường được lặp đi lặp lại trong các cộng đoàn tu trì của chúng ta là “Sống
trong cộng đoàn là hình thức khổ chế lớn nhất”. Không những vĩ đại nhất mà
còn hữu ích nhất, và có công hơn nhiều việc hy sinh hãm mình tự chọn khác. Câu
châm ngôn này không chỉ áp dụng cho những người sống trong các cộng đoàn tu trì
mà còn cho mọi cuộc sống chung của con người. Theo tôi, nơi đạt tới sự đòi hỏi
khắt khe nhất của câu châm ngôn này đó là hôn nhân, và chúng ta phải hết sức
ngưỡng mộ khi đối diện với một cuộc hôn nhân chung thuỷ từ đầu cho đến chết.
Dành cả cuộc đời, ngày cũng như đêm, để đối phó với ý chí, tính cách, sự nhạy cảm
và khí chất của người khác, nhất là trong một xã hội như xã hội của chúng ta,
là một điều gì đó tuyệt vời và nếu được thực hiện với tinh thần đức tin thì đã
được coi là “nhân đức anh hùng”.
Tuy nhiên, chúng
ta thấy mình ở đây trong bối cảnh Giáo triều không phải là một cộng đoàn tu trì
hay hôn nhân, mà là một cộng đoàn phục vụ và làm việc mang tính giáo hội. Có rất
nhiều cơ hội không thể lãng phí nếu chúng ta cũng muốn được nghiền nát để trở
thành bột của Thiên Chúa, và mọi người phải nhận ra và thánh hóa những gì mang
lại cho mình tại nơi phục vụ của mình. Tôi sẽ chỉ kể tên 1 hoặc 2 điều mà tôi
nghĩ là có giá trị đối với tất cả mọi người.
Một cơ hội là chấp
nhận bị mâu thuẫn, từ bỏ việc biện minh cho bản thân, và luôn muốn mình đúng, khi điều này không đòi hỏi bởi tầm quan
trọng của vấn đề. Một cách khác nữa, đó là chịu đựng một người có tính cách,
cách nói năng hoặc hành động khiến chúng ta lo lắng, và khi chịu đựng như vậy chúng
ta không khiến mình khó chịu trong nội tâm, mà trái lại, nghĩ rằng có lẽ chúng
ta cũng là một người như vậy đối với ai đó. Thánh Tông Đồ đã khuyên nhủ các tín
hữu Côlôsê bằng những lời này:
Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu
thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và
nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có
điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy,
anh em phải tha thứ cho nhau (Cl 3,12-13).
Điều khó “nghiền
nát” nhất trong chúng ta không phải là thân xác mà là tinh thần, tức là
lòng tự ái và kiêu ngạo, và những bài tập nhỏ này phục vụ mục đích đó một cách
tuyệt vời.
Thật không may,
ngày nay trong xã hội tồn tại một loại răng cắn xé không thương tiếc, còn tàn
nhẫn hơn cả răng sư tử mà Thánh Ignatius tử đạo đã nói đến. Chúng là những chiếc
răng của phương tiện truyền thông và cái gọi là mạng xã hội. Không phải khi
chúng chỉ ra những biến dạng của xã hội hay của Giáo hội (về điều này chúng xứng
đáng nhận được toàn bộ sự tôn trọng và quý mến!), mà là khi chúng tấn công ai
đó vì thành kiến, đơn giản chỉ vì người ấy không thuộc về phe chúng. Với ác tâm
và ý định phá hoại, thay vì mang tính xây dựng. Thật tội nghiệp cho ai, dù là
giáo dân hay giáo sĩ, hiện phải rơi
vào cái máy xay thịt này!
Trong trường hợp
này, việc khẳng định lý do của mình trên các diễn đàn thích hợp là hợp pháp và
cần thiết, và nếu điều này không thể thực hiện được hoặc thấy rằng điều đó không
có ích gì, thì tất cả những gì còn lại đối với người tín hữu là hiệp nhất với Đức
Kitô, Đấng bị đánh đòn, bị đội mão gai, và bị khạc nhổ vào mặt. Trong Thư gửi
tín hữu Do Thái, chúng ta đọc thấy lời khuyên này gửi đến các Kitô hữu tiên khởi,
vốn có thể giúp ích trong những trường hợp tương tự: “Anh em hãy tưởng nhớ Ðấng đã cam chịu để cho những
người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí” (Dt 12,3).
Ít nhất thì đó là
một điều khó khăn và đau đớn để nói ra, nhất là nếu có liên quan đến gia đình
ruột thịt hoặc tu trì của một người, nhưng ân sủng của Thiên Chúa có thể biến –
và thường đã biến – tất cả những điều này thành cơ hội để thanh tẩy và thánh
hóa. Đó là việc có niềm tin rằng, cuối cùng, như đã xảy ra với Chúa Giêsu, sự
thật sẽ chiến thắng sự dối trá. Và có lẽ chiến thắng sẽ được thực hiện tốt hơn
bằng sự im lặng hơn là bằng sự tự vệ cách hung hãn nhất.
* * *
Tuy nhiên, mục
đích cuối cùng của việc cho phép bản thân bị nghiền nát không mang tính khổ chế
mà là thần bí; nó không nhằm mục đích hy sinh hãm mình nhiều cho bằng để tạo sự
hiệp thông. Đây là một chân lý đã đi kèm với việc dạy giáo lý về Thánh Thể ngay
từ những ngày đầu của Giáo Hội. Điều này đã được đề cập đến trong Didache
(IX,4), một bản văn từ thời các tông đồ. Thánh Augustinô khai triển chủ đề này
một cách tuyệt vời trong một bài giảng của ngài cho dân chúng. Thánh nhân so
sánh tiến trình dẫn đến việc hình thành bánh là Mình Thánh Chúa Kitô, với tiến trình dẫn đến việc hình thành nhiệm thể của Người là Giáo hội.
Thánh nhân nói rằng:
“Hãy nhớ lại một chút về lúa mì từng là gì khi nó còn ở ngoài đồng: đất làm
cho nó nảy mầm, mưa nuôi dưỡng nó; sau đó là công việc của người mang nó đến
sân đập lúa, đập nó, sàng lọc nó và cho nó vào kho; từ đây người ấy đem nó đi
xay và nấu và cuối cùng, nó trở thành bánh mì.
Bây giờ hãy nghĩ về chính mình: anh chị em là hư không và đã được tạo dựng,
anh chị em được đưa đến sân đập lúa của Chúa, anh chị em bị đập… Khi xướng danh
để lãnh Phép Rửa, anh chị em bắt đầu bị nghiền nát bởi việc ăn chay và trừ tà;
rồi cuối cùng anh chị em đến với nước, anh chị em được nhào nặn và trở nên một;
khi ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đến, anh chị em được nấu chín và trở thành
bánh của Chúa. Đây là những gì anh chị em nhận được. Vì thế, như anh chị em thấy
bánh được chuẩn bị là một, thì chớ gì anh chị em cũng là một, yêu thương nhau,
cùng một đức tin, cùng một đức cậy, và cùng một đức ái trọn vẹn.”[3]
* * *
Tôi kết thúc bằng
một tình tiết đã thực sự xảy ra, được thuật lại trong cuốn sách vẫn còn trên thị
trường có tựa đề “The Price to Pay” (Cái giá phải trả) và tôi tin rằng
tác giả của cuốn sách vẫn còn sống. Nó giúp ích, tốt hơn những bài diễn văn dài
dòng, để nhận ra sức mạnh chứa đựng trong câu “Ta là” trang trọng của
Chúa Giêsu trong Tin Mừng và đặc biệt là những gì tôi đã chú giải trong bài suy
niệm đầu tiên này.
Cách đây vài thập
niên, tại một quốc gia Trung Đông, có hai người lính – một người là tín hữu
Kitô và người kia thì không
– cùng nhau làm nhiệm vụ canh
gác tại một kho vũ khí. Người tín hữu Kitô thường lấy ra, thậm chí vào ban đêm,
một cuốn sách nhỏ và đọc, điều này gây tò mò và cả sự mỉa mai của người đồng đội
của mình. Một đêm nọ, người lính không theo đạo nằm mơ. Anh thấy mình đang đứng
trước một con suối mà anh không thể vượt qua. Anh nhìn thấy một nhân vật được
bao phủ trong ánh sáng và người này nói với anh: “Để vượt qua nó, bạn cần có
bánh trường sinh”. Quá ấn tượng với giấc mơ, vào sáng hôm sau, không hiểu tại
sao, anh lại yêu cầu, hay nói đúng hơn là ép người bạn đồng đội đưa cho mình cuốn
sách bí ẩn đó. (Tất nhiên đó là cuốn Phúc Âm). Anh mở nó ra và trúng vào Phúc
âm Gioan. Người bạn theo đạo Kitô của anh khuyên anh nên bắt đầu với Phúc âm
Matthêu để dễ hiểu hơn. Nhưng không hiểu tại sao, anh vẫn khăng khăng với Phúc
âm Gioan. Anh đọc một mạch cho tới chương 6. Nhưng tại điểm này, sẽ rất tuyệt vời
nếu nghe trực tiếp câu chuyện của anh:
Đọc tới chương thứ sáu, tôi dừng lại, bị ấn tượng bởi sức mạnh của một câu
trong đó. Trong giây lát, tôi nghĩ mình là nạn nhân của ảo giác, và tôi lại
nhìn vào cuốn sách, đến lúc tôi dừng lại… Tôi vừa đọc được dòng chữ này: “…bánh
trường sinh”. Những lời tương tự tôi đã nghe cách đây vài giờ trong giấc mơ.
Tôi chậm rãi đọc lại đoạn Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Chính Ta là bánh trường sinh, ai đến với Ta, không hề phải đói”. Vào chính khoảnh khắc ấy, một điều gì đó phi
thường được giải phóng trong tôi, giống như một sự bùng nổ của hơi ấm và hạnh
phúc… Tôi có cảm tưởng như bị cuốn đi, được nâng lên bởi sức mạnh của một cảm
giác mà tôi chưa bao giờ trải qua, một niềm say mê mãnh liệt, một tình yêu vô bờ
dành cho người được gọi là Giêsu này.[4]
Những gì sau này anh
phải chịu đựng vì đức tin của mình đã xác nhận tính xác thực của trải nghiệm của
anh. Lời Chúa không phải lúc nào cũng hành động theo cách bùng nổ như vậy,
nhưng tôi xin nhắc lại, là ví dụ cho chúng ta thấy sức mạnh thần linh ẩn chứa
trong câu “Ta là” trang trọng của Đức Kitô mà với ân sủng của Thiên
Chúa, chúng ta hứa sẽ suy tư trong Mùa Chay này.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: cantalamessa.org (23. 02. 2024)
Những bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho Giáo triều Roma:
Mùa Chay 2024: 23.02.2024: Bài 1 - Ta là bánh trường sinh Mùa Chay 2023: 31.03.2023: Bài 5 - Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian 24.03.2023: Bài 4 - “Đây là mầu nhiệm đức tin!” trong phụng vụ 17.03.2023: Bài 3 - Thiên Chúa là tình yêu 10.03.2023: Bài 2 - Mối tương quan cá vị với Đức Kitô 03.03.2023: Bài 1 - Sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần Mùa Chay 2022: 08.04.2022: Bài 5 - Thầy đã nêu gương cho anh em 01.04.2022: Bài 4 - Sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu 25.03.2022: Bài 3 - Hiệp thông với Mình và Máu Chúa Kitô 18.03.2022: Bài 2 - Hãy cầm lấy mà ăn 11.03.2022: Bài 1 - Phụng vụ Lời Chúa |