Các Kitô hữu Kenyan cử hành lễ Phục Sinh tại Nairobi (Photo: ANSA)
SỨ ĐIỆP
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
GỬI CÁC HỘI GIÁO HOÀNG TRUYỀN GIÁO
Bấy giờ những
người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy
khôi phục vương quốc Ít-ra-en không? “ Người đáp: “Anh em không cần biết thời
giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt cho Thầy, nhưng anh em sẽ nhận được
sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là
chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và
cho đến tận cùng trái đất.” Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các
ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa (Cv
1,6-9).
Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn
các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông,
và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng (Mc
16,19-20).
Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho
các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời.
Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ, và
hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa (Lc 24,50-53).
Anh chị em thân mến!
Tôi đã quyết định tham dự Đại hội thường niên
năm nay với anh chị em vào lễ Chúa Lên Trời ngày 21/05. Nhưng cơn đại dịch làm
đảo lộn tất cả, đại hội đã bị hủy bỏ. Vì thế tôi xin gởi đến tất cả anh chị em
sứ điệp này nhằm chia sẻ với anh chị em những tâm tình của tôi. Đối với tôi, việc
cử hành lễ trọng này trong bối cảnh khác thường năm nay, dường như gợi lên nhiều
ý nghĩa hơn cho hành trình cũng như sứ vụ của mỗi người chúng ta và của toàn thể
Hội Thánh.
Chúng ta cử hành lễ Chúa Lên Trời với niềm hân
hoan phấn khởi, mặc dầu đây là ngày lễ tưởng nhớ việc Chúa Giêsu giã từ trần thế
và các môn đệ của Người. Chúa đã lên trời và phụng vụ của Giáo hội Đông phương
diễn tả vẻ ngạc nhiên bỡ ngỡ của các thiên thần khi nhìn thấy một con người với
xác phàm lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Tuy nhiên khi Chúa Giêsu sắp lên trời,
các môn đệ của Người dường như vẫn chưa hiểu rõ những gì đang thực sự xảy ra mặc
dầu họ đã thấy Chúa sống lại. Chúa Giêsu sắp khai mở Vương quốc hoàn hảo của
Người mà họ thì vẫn loay hoay phỏng đoán thế này thế khác. Họ hỏi có phải Người
sắp khôi phục vương quốc Israel hay không (x. Cv 1,6). Nhưng như thánh Luca thuật
lại, khi Chúa Giêsu đã rời xa, họ quay trở lại Giêrusalem lòng tràn ngập niềm
vui thay vì buồn sầu (x. 24,52). Điều này thật lạ lùng. Chắc hẳn đã xảy ra chuyện
gì đó. Đúng vậy, Chúa Giêsu đã hứa ban cho họ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng
sẽ ngự xuống trên họ vào dịp lễ Ngũ tuần. Đây chính là phép lạ làm thay đổi mọi
sự. Họ thấy vững tâm hơn khi phó thác tất cả cho Chúa. Lòng họ tràn đầy niềm
vui vì tràn đầy niềm ủi an, tràn đầy sự hiện diện của Chúa.
Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Galát rằng
việc các Tông đồ tràn đầy niềm vui không phải là tác động của cảm xúc hài lòng
và phấn khởi. Đây là niềm vui ngập tràn mà ta chỉ có thể cảm nghiệm như hoa
trái và ân huệ của Chúa Thánh Thần (x. 5,22). Nhận được niềm vui của Thần Khí
là một ân huệ. Và đây là sức mạnh duy nhất mà chúng ta có thể có, để đi loan
báo Tin Mừng, để tuyên xưng niềm tin vào Chúa. Đức Tin là điều chứng thực cho
niềm vui Chúa đã ban. Con người không thể tự mang lại cho mình niềm vui như thế.
Trước khi từ biệt, Chúa Giêsu đã nói với các môn
đệ rằng Người sẽ sai Chúa Thánh Thần, Đấng An ủi đến với họ. Và như thế hoạt động
tông đồ của Hội Thánh cũng được Chúa ủy thác cho Chúa Thánh Thần, trong suốt
dòng lịch sử cho tới khi Người lại đến. Mầu nhiệm Chúa Lên Trời, cùng với sự
tuôn trào Thần Khí trong ngày lễ Ngũ Tuần, vĩnh viễn khắc ghi và chuyển giao
cho sứ vụ của Hội Thánh một đặc tính nền tảng sâu kín nhất của mầu nhiệm này:
đây là công trình của Chúa Thánh Thần chứ không phải là thành quả của những
toan tính và ý định của con người. Đặc tính nền tảng này có thể làm cho sứ vụ của
Hội Thánh thêm phong phú và giữ cho sứ vụ đó thoát khỏi mọi ảo tưởng tự mãn, khỏi
cơn cám dỗ bắt giữ thân xác đã lên trời của Chúa Kitô làm con tin, phục vụ cho
những kế hoạch quyền lực mang tính giáo sĩ trị.
Trong sứ vụ của Hội Thánh, khi những hoạt động
hiện nay và đầy hữu hiệu của Chúa Thánh Thần không được đón nhận và đánh giá
đúng, thì ngay cả những ngôn từ dùng cho việc truyền giáo, dù được suy nghĩ và
chọn lọc cẩn thận, cũng trở thành “những lý lẽ khôn ngoan của loài người”, để
tôn vinh chính mình hay để kìm nén và che đậy sự trống rỗng nội tâm của mình mà
thôi.
Niềm vui của Tin Mừng
Ơn cứu độ chính là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu.
Người yêu thương và tha thứ cho ta khi ban Thánh Thần để an ủi và bảo vệ ta. Ơn
cứu độ không phải là kết quả từ những sáng kiến truyền giáo của chúng ta, cũng
không phải là thành quả của việc chúng ta nói về Ngôi Lời nhập thể. Ơn cứu độ
chỉ có thể đến với mỗi người nhờ cuộc gặp gỡ Đấng kêu gọi chúng ta. Bởi thế khởi
đầu và chỉ có thể được khởi đầu mầu nhiệm của việc được yêu và được chọn với sự
thôi thúc của niềm vui, của lòng biết ơn. “Niềm vui lớn lao” của các phụ nữ sầu
khổ vào sáng sớm lễ Vượt Qua chính là niềm vui của Tin Mừng, khi họ ra mộ Chúa
Kitô và thấy ngôi mộ trống, thế rồi họ là những người đầu tiên gặp Chúa Giêsu phục
sinh và chạy đi báo tin cho các môn đệ khác (x. Mt 28,8-10). Chỉ khi được chọn
và được yêu quý như thế, chúng ta mới có thể minh chứng cho toàn thế giới thấy
vinh quang của Chúa Kitô Phục sinh qua chính cuộc sống của mình.
Trong mọi tình huống cuộc đời, chứng nhân là người
xác nhận điều mà ai đó đã thực hiện. Theo nghĩa này và chỉ theo nghĩa này chúng
ta mới có thể là chứng nhân cho Chúa Kitô và cho Thần Khí của Người. Theo trình
thuật kết thúc Tin Mừng theo thánh Máccô, sau khi Chúa lên trời, các Tông đồ và
các môn đệ “ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ngài, và
dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời rao giảng của các ngài (16,20). Chúa
Kitô, nhờ Thánh Thần, tự minh chứng về mình qua những hoạt động Người hoàn
thành nơi chúng ta và với chúng ta. Thánh Augustinô đã giải thích, Hội Thánh sẽ
chẳng cầu xin Chúa ban đức tin cho những người không biết Chúa Kitô, nếu Hội
Thánh không tin rằng chính Thiên Chúa hướng lòng và lôi kéo ý chí của họ về với
Người. Hội Thánh sẽ không dạy con cái mình cầu xin Chúa cho được vững tin vào
Chúa Kitô nếu Hội Thánh không tin rằng chính Chúa nắm giữ tâm hồn chúng ta. Thực
vậy, nếu Hội Thánh đã cầu xin Chúa ban cho những điều đó mà lại nghĩ có thể tự
lo liệu lấy, thì có nghĩa là mọi lời cầu của Hội Thánh chỉ là những công thức
trống rỗng, “những cách nói”, những câu đãi bôi theo nghi lễ của Giáo hội chứ
không phải là những lời cầu nguyện chân thực[1].
Nếu chúng ta không thừa nhận đức tin là ân huệ của
Thiên Chúa thì cả những lời cầu mà Hội Thánh dâng lên Thiên Chúa cũng đều là vô
nghĩa. Và qua những lời cầu này chúng ta chẳng diễn tả được ước muốn chân thành
nào mong cho người khác và cho những ai chưa nhận biết Chúa Kitô Phục sinh được
hưởng hạnh phúc và ơn cứu độ, mặc dầu chúng ta có dành nhiều thời gian tổ chức
để thế giới quy thuận Kitô giáo.
Chính Chúa Thánh Thần nhen nhóm và bảo vệ đức
tin trong các tâm hồn và việc nhận ra điều này mới làm tất cả thay đổi. Thật vậy,
chính Chúa Thánh Thần thắp lên và linh hoạt sứ vụ loan báo Tin Mừng, ghi lên đó
những đặc điểm “căn cội”, những dấu nhấn và từng hành vi một vốn làm cho việc
loan báo Tin Mừng và tuyên xưng đức tin Kitô giáo trở nên khác với mọi kiểu vận
động chính trị hay văn hóa, tâm lý hay tôn giáo. Tôi đã đề cập nhiều về các đặc
điểm của việc truyền giáo trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium), ở đây tôi chỉ nhắc lại
một vài điểm.
Sự lôi cuốn. Mầu nhiệm cứu độ đi vào thế giới và tiếp tục
hoạt động qua sự lôi cuốn. Sự lôi cuốn của mầu nhiệm cứu độ có thể chinh phục
trái tim con người, bởi lẽ sự lôi cuốn này thì hấp dẫn và tỏ ra hấp dẫn hơn những
quyến rũ của thói ích kỷ vốn là hậu quả của tội lỗi. Trong Tin Mừng theo thánh
Gioan, Chúa Giêsu đã nói: “Chẳng ai đến được với tôi, nếu Chúa Cha là Đấng đã
sai tôi, không lôi kéo người ấy” (6,44). Hội Thánh không ngừng nhắc đi nhắc lại
rằng lý do khiến người ta theo Chúa Giêsu và loan báo Tin Mừng của Người đó là
vì hấp lực của chính Chúa Giêsu và Thần Khí của Người. Đức thánh cha Bênêđictô
đã khẳng định: Hội Thánh trên toàn cầu có lớn mạnh là nhờ sự lôi cuốn chứ không
bằng cách chiêu dụ[2]. Thánh Augustinô đã nói rằng
Chúa Kitô tỏ mình ra cho ta bằng cách quyến rũ ta. Và để minh họa cho sự lôi cuốn
này, ngài trích dẫn bài thơ của Virgil, theo đó mỗi người được thu hút bởi điều
người đó yêu thích. Chúa Giêsu không chỉ thuyết phục ý chí chúng ta thuận theo
mà còn lôi kéo sự yêu thích của chúng ta nữa[3].
Nếu có ai theo gót Chúa Giêsu vì hạnh phúc bởi được Chúa lôi cuốn, những người
khác sẽ nhận ra và có thể ngạc nhiên vì điều đó. Niềm vui hiển lộ nơi những ai
được Chúa Kitô và Thần Khí của Người lôi kéo, niềm vui đó có thể làm cho mỗi
sáng kiến truyền giáo đều trổ sinh hoa trái dồi dào.
Lòng biết ơn và tính nhưng không. Niềm vui loan báo Tin Mừng
luôn rạng rỡ trên nền tảng của việc nhớ ơn. Các Tông đồ chẳng bao giờ quên được
giây phút Chúa Giêsu chạm đến tâm hồn họ: “Lúc đó vào khoảng 4 giờ chiều” (Ga
1,39). Thực tại của Hội Thánh tỏa sáng khi Hội Thánh biểu lộ lòng biết ơn Thiên
Chúa vì những sáng kiến nhưng không của Người, bởi lẽ “chính Thiên Chúa đã yêu
chúng ta” trước (1Ga 4,10), và bởi lẽ “chỉ có Thiên Chúa làm cho lớn lên” (1Cr
3,7). Sự ưu ái đầy yêu thương của Chúa làm chúng ta ngạc nhiên và bởi bản chất
của nó, sự ngạc nhiên không thể bị chúng ta chiếm hữu hay tự áp đặt cho chính
mình. Chúng ta không thể “cố gắng ngạc nhiên”. Chỉ bằng cách ngạc nhiên, phép lạ
của lòng biết ơn, của ân huệ tự bản chất là nhưng không mới có thể nảy nở.
Chúng ta cũng sẽ chẳng bao giờ có được lòng nhiệt thành truyền giáo bằng cách
lý luận hay tính toán. Tự đặt mình vào “tâm thế truyền giáo” đã là phản ánh của
lòng biết ơn. Đó là lời đáp do lòng biết ơn, nhờ thế con người trở nên ngoan
ngoãn với Chúa Thánh Thần và do đó có được tự do. Nếu không cảm nhận được lòng
ưu ái của Chúa, Đấng làm cho chúng ta biết ơn, thì ngay cả việc hiểu biết chân
lý và hiểu biết chính Thiên Chúa, vốn được xem như việc thủ đắc bằng sức riêng,
rốt cuộc cũng sẽ trở thành trường hợp “chữ viết thì giết chết” (x. 2Cr 3,6),
Như thánh Phaolô và thánh Augustinô đã là những người đầu tiên chứng tỏ điều
đó. Chỉ với sự tự do của lòng biết ơn người ta mới thực sự biết Chúa. Ngược lại,
sẽ là vô ích và không thích đáng nếu cứ khăng khăng triển khai các hoạt động
truyền giáo và loan báo Tin Mừng như thể đó là bổn phận bắt buộc, một loại “hợp
đồng bắt buộc” của những người chịu Phép rửa.
Lòng khiêm tốn. Nếu sự thật và đức tin, nếu hạnh phúc và ơn cứu
độ không thuộc về của chúng ta, không phải là mục tiêu chúng ta đạt được do
công trạng của mình, thì Tin Mừng của Chúa Kitô chỉ có thể được loan báo với
lòng khiêm hạ. Chẳng bao giờ chúng ta có thể nghĩ rằng mình phục vụ sứ mạng
loan Tin Mừng, khi các cá nhân và qua các tổ chức quan liêu, hành xử cách cao
ngạo, với tính kiêu căng; họ khiến cho ngay cả các ơn ích của bí tích và những
lời nói xác thực nhất của đức tin Kitô giáo cũng bị méo mó khi xem đấy là chiến
lợi phẩm có được do công trạng của mình. Không phải vì là người có giáo dục,
cũng không phải vì muốn tỏ ra dễ mến mà chúng ta có thể sống khiêm tốn. Chúng
ta sẽ sống khiêm tốn nếu đi theo Chúa Kitô, Đấng đã nói với các môn đệ: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và
khiêm nhường” (Mt 11,29). Thánh Augustinô đã tự hỏi tại sao Chúa Giêsu, sau
khi phục sinh, lại tỏ mình ra cho các môn đệ của mình mà không tỏ ra cho những
kẻ đã đóng đinh Người; ngài trả lời rằng Chúa Giêsu không muốn tạo ấn tượng rằng
“cách nào đó Chúa có ý thách thức những kẻ đã sát hại Người. Thực vậy, đối với
Chúa, dạy cho bạn hữu về sự khiêm hạ thì quan trọng hơn là phơi bày sự thật trước
kẻ thù” (Khảo luận 284, 6).
Tạo thuận lợi chứ không làm phức tạp. Một đặc điểm khác của hoạt động
truyền giáo đích thực đó là quy chiếu đến sự kiên nhẫn của Chúa Giêsu, Đấng mà
trong các trình thuật của Tin Mừng, với lòng thương xót đã luôn luôn đồng hành
với những tiến triển của con người. Một bước tiến nhỏ, giữa những giới hạn của
thân phận con người, có thể làm Thiên Chúa hài lòng hơn là những bước sải dài của
những kẻ chẳng gặp thử thách lớn lao nào trong cuộc sống. Người mang con tim
truyền giáo sẽ nhận biết những hoàn cảnh thực và những con người thực sống
trong hoàn cảnh đó, với những giới hạn, tội lỗi và mỏng giòn của họ, đồng thời
trở nên “yếu đuối với những người yếu đuối” (1Cr 9,22). Trong sứ vụ truyền
giáo, “đi ra” những vùng ven của nhân loại không có nghĩa là đi lang thang
không định hướng, không ý nghĩa, như những người bán hàng vì nôn nóng sốt ruột
nên than trách dân chúng quá ngây thơ chất phác không quan tâm đến hàng hóa của
họ. Đôi khi vấn đề là phải đi chậm lại để đồng hành với những người bị rơi rớt
dọc đường. Đôi khi phải bắt chước người cha trong dụ ngôn đứa con hoang đàng,
luôn để cửa mở và mỗi ngày nhìn về phía cuối chân trời ngóng trông con trở về
(x. Lc 15,20). Hội Thánh không phải là cơ quan thuế vụ và những ai tham dự vào
sứ mạng của Hội Thánh được mời gọi đừng chất thêm gánh nặng vô ích lên cuộc sống
con người vốn đã vất vả, cũng đừng
áp đặt những học trình giáo lý rườm rà và nặng nề
để có được điều mà Chúa đã dễ dãi tặng ban. Đừng cản trở ý muốn của Chúa Giêsu,
Đấng đã cầu nguyện cho mỗi người chúng ta, đã chữa lành và cứu độ tất cả chúng
ta.
Gần gũi trong đời thực. Chúa Giêsu đã gặp các môn đệ đầu tiên của Người
trên bờ hồ Galilêa khi họ đang mải mê làm việc. Người không gặp họ trong một hội
nghị, trong một cuộc hội thảo chuyên đề hay ở đền thờ. Ơn cứu độ của Chúa Giêsu
vốn luôn được loan báo cho con người khi họ đang sinh sống, nghĩa là nơi họ
đang ở và trong tình trạng họ đang là. Cuộc sống bình thường của mỗi người với
các nhu cầu, hy vọng và vấn đề của họ chính là nơi chốn và điều kiện để những
ai đã nhận biết tình yêu của Chúa Kitô và đón nhận Chúa Thánh Thần có thể giải
thích cho người khác khi họ được hỏi về lòng tin, niềm hy vọng và đức ái. Điều
này được thực hiện khi có sự đồng hành với người khác, khi ở bên cạnh mỗi người.
Đặc biệt là ngay lúc này đây, vấn đề không phải là vẽ ra những chương trình huấn
giáo “chuyên biệt”, tạo ra một thế giới song hành, thổi những chiếc bong bóng
truyền thông nhằm hô vang khẩu hiệu và những tuyên bố mang ý đồ của chính mình,
rốt cuộc chỉ là “những tuyên ngôn thùng rỗng kêu to”, ru ngủ con người. Để thí
dụ, tôi đã đôi ba bận nhắc lại rằng trong Giáo hội có những người đã cường điệu
không ngừng hô vang khẩu hiệu “Đây là thời của giáo dân!”, đồng thời lại bình
chân như vại.
“Cảm thức đức tin” của Dân Thiên Chúa. Trong thế giới này có một
thực tại nhận được “khứu giác” về Chúa Thánh Thần và về các hoạt động của Người.
Đó là Dân Thiên Chúa. Dân Thiên Chúa được Chúa Giêsu kêu gọi và yêu thương, thế
rồi đến lượt họ, Dân Thiên Chúa tiếp tục tìm kiếm Người và luôn thỉnh ý Người
khi cuộc sống có những nỗi âu lo. Dân Thiên Chúa khẩn nài ân huệ của Thần Khí
Chúa: họ trao gởi các ước nguyện của mình nơi những lời cầu xin đơn sơ và không
bao giờ dung dưỡng sự ngạo mạn tự mãn của mình. Dân thánh của Thiên Chúa được
Chúa quy tụ và xức dầu. Chính nhờ việc xức dầu này, Dân thánh của Thiên Chúa trở
nên không thể sai lầm “trong đức tin”, như truyền thống Giáo hội đã dạy. Hoạt động
của Chúa Thánh Thần là trang bị cho Dân tin Chúa một “bản năng” đức tin – sensus fidei – giúp họ không mắc sai lầm
khi tin những điều liên quan đến Thiên Chúa, mặc dù không biết đến những lý luận
và công thức thần học để định nghĩa những ân huệ mà họ cảm nhận. Dân lữ hành, với
lòng đạo đức bình dân, tiến về các đền thánh, phó thác cho Chúa Giêsu, Mẹ Maria
và các thánh. Mầu nhiệm của dân lữ hành này tỏ ra phù hợp với sáng kiến tự do
và nhưng không của Thiên Chúa, không nhất thiết tuân theo những kế hoạch mục vụ.
Lòng yêu thương dành cho những người nhỏ bé và khó nghèo. Mọi thôi
thúc truyền giáo, nếu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, đều biểu lộ lòng yêu
thương đối với những người bé nhỏ nghèo hèn như dấu chỉ và phản ánh lòng ưu ái
của Chúa đối với họ. Những người trực tiếp thực hiện các sáng kiến truyền giáo
và thuộc cơ cấu truyền giáo của Giáo hội chớ bao giờ biện minh cho sự vô tâm của
mình đối với những người nghèo khổ với lời bào chữa rất phổ biến trong giới
giáo sĩ là phải dồn công sức cho những nhiệm vụ truyền giáo cấp bách. Đối với Hội
Thánh, lòng thương yêu người nghèo không phải là việc tùy chọn.
Những hoạt động tích cực và cách tiếp cận được
mô tả trên đây thuộc về sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh vốn nhờ Chúa Thánh Thần
mà hoạt động. Các tuyên ngôn và diễn từ của Hội Thánh thường thừa nhận và khẳng
định vai trò thiết yếu của Chúa Thánh Thần, như là nguồn mạch truyền giáo của Hội
Thánh. Tuy nhiên việc thừa nhận như thế đôi khi chỉ là một “nghi thức tôn vinh”
Ba Ngôi chí thánh, một công thức ước lệ dùng để mở đầu những bài tham luận thần
học và các kế hoạch mục vụ. Trong Giáo hội có biết bao tình huống ở đó tính ưu
việt của ân sủng chỉ còn như một định đề lý thuyết, một công thức trừu tượng. Từ
đó nhiều sáng kiến và cơ chế nối kết với Hội Thánh, thay vì để cho Chúa Thánh
Thần hoạt động, cuối cùng chỉ tự quy chiếu về mình mà thôi. Biết bao cơ quan
trong Giáo hội, ở mọi cấp độ, dường như bị giày vò bởi nỗi ám ảnh thăng tiến
chính mình và những sáng kiến của mình, như thế đấy mới là mục tiêu và viễn tượng
truyền giáo của họ.
Cho tới đây tôi có ý nhắc và đề nghị lại các tiêu
chuẩn cùng những điểm chính yếu trong việc truyền giáo của Giáo hội mà tôi đã
khai triển đầy đủ hơn trong Tông huấn Evangelii
gaudium. Tôi làm thế vì tin rằng thật hữu ích và hiệu quả, thậm chí là cấp
thiết nữa, để các Hội Giáo hoàng truyền giáo có dịp lượng giá các tiêu chuẩn và
đề nghị này, cho hành trình của Hội.
Các Hội Giáo hoàng truyền giáo (HGHTG) và thời hiện tại. Các tài năng phải
phát triển, các cám dỗ và căn bệnh phải tránh
Mục tiêu hiện tại và tương lai mà các HGHTG cần
hướng đến là gì? Những trở ngại nào có nguy cơ làm trì trệ bước tiến của các Hội
Truyền Giáo?
Xét về diện mạo, nghĩa là nói về căn tính, các
HGHTG được nhận biết bởi một số nét đặc trưng, có thể nói là thuộc nguồn gốc hoặc
được thủ đắc dần theo tiến trình lịch sử. Những nét đặc trưng này thường bị
lãng quên hoặc xem như điều dĩ nhiên. Thế mà sự đóng góp của “mạng lưới” các Hội
Truyền Giáo cho sứ vụ phổ quát mà cả Giáo hội được kêu gọi thực hiện có được
duy trì và mang lại giá trị hay không lại phụ thuộc vào chính những nét đặc
trưng này, nhất là trong giai đoạn hiện tại.
- Các Hội
Truyền Giáo đã tự phát hình thành bởi lòng nhiệt thành truyền giáo vốn là sự
bày tỏ đức tin của những người đã chịu Phép rửa. Giữa Các Hội Truyền Giáo và cảm
thức đức tin (sensus fidei) không thể
sai lầm của các tín hữu Dân Thiên Chúa khi tin (in credendo) luôn luôn tồn tại một sự hòa hợp thâm sâu, thân mật.
- Ngay từ
khởi đầu, các Hội Truyền Giáo đã bước đi trên hai “đường ray” hay đúng hơn
đã tiến bước dọc theo hai bờ đê sóng đôi mà Dân Thiên Chúa luôn cảm nhận từ tâm
hồn mình sự thân thuộc qua dạng thức đơn sơ mộc mạc của nó: bờ đê của cầu nguyện
và bờ đê của bác ái, dưới hình thức từ thiện, vì “việc bố thí cứu cho khỏi chết
và tẩy sạch mọi tội lỗi” (Tb 12,9) và “bác ái nhiệt tâm… che phủ muôn vàn tội lỗi”
(1Pr 4,8). Những nhà khởi xướng của các Hội Truyền Giáo, khởi đi từ Pauline
Jaricot, không sáng tạo ra những lời cầu nguyện và những hoạt động mà họ gởi gắm
vào đó ước muốn loan báo Tin Mừng của mình. Đơn giản là họ đã rút tỉa các việc
lành đó từ kho tàng vô tận của các nghĩa cử quen thuộc và thông thường nhất mà
Dân Thiên Chúa lữ hành trong lịch sử vẫn thực hiện.
- Các Hội
Truyền Giáo, phát sinh cách tự phát giữa Dân Thiên Chúa, với hình thức tổ
chức đơn giản và cụ thể, đã được Giáo hội tại Rôma và các Giám mục của Rôma thừa
nhận và trân trọng. Vào thế kỷ trước, các vị này đã xin được quyền tiếp nhận
các Hội Truyền Giáo để dùng như khí cụ đặc biệt phục vụ Giáo hội hoàn vũ. Vì lý
do này, tính chất “Giáo hoàng” được gắn liền với Hội. Từ đó, việc trở thành khí
cụ phục vụ để hỗ trợ các Giáo hội địa phương trong việc loan báo Tin Mừng là đặc
điểm nổi bật nơi diện mạo của Hội Giáo hoàng Truyền giáo (HGHTG). Cũng bởi lý
do này các HGHTG được trao dâng để dễ dàng sử dụng như khí cụ phục vụ Giáo hội,
trong thừa tác vụ hoàn vũ được Đức thánh cha và Giáo hội tại Rôma đảm nhiệm,
nơi “điều hành trong đức ái”. Theo ý hướng này, với con đường riêng của mình và
không đi vào những cuộc tranh luận thần học phức tạp, các HGHTG đã phủ nhận lý lẽ
không đúng của những người, ngay cả trong giới giáo sĩ, đặt các đặc sủng đối lập
với các thể chế, họ luôn đọc mối tương quan giữa các thực tại này qua cái nhìn
đầy sai lầm giả dối của “phép biện chứng về các nguyên lý”. Thế mà trong Hội
Thánh, cả các yếu tố mang tính cấu trúc thường hằng – như các bí tích, chức
linh mục và sự kế tục các Tông đồ – vẫn tiếp tục được Chúa Thánh Thần tái tạo
và không phải là những gì Hội Thánh tùy ý sử dụng như những điều thiện hảo do
thủ đắc mà có[4].
- Ngay khi
mới được truyền bá, các HGHTG đã được tổ chức như một hệ thống huyết mạch lan
tỏa trong Dân Thiên Chúa, gắn chặt toàn vẹn và thực sự “ăn khớp” với mạng lưới
các thể chế và thực tại đã có trong Giáo hội, như các giáo phận, giáo xứ và
dòng tu. Những người dấn thân hoạt động trong các Hội Truyền Giáo đã không bao
giờ sống và quan niệm ơn gọi đặc thù của mình như một con đường có khả năng
thay thế, hay là phần phụ thuộc “nằm bên ngoài” các dạng thức bình thường trong
đời sống sinh hoạt của các Giáo hội địa phương. Việc vận động cầu nguyện và
quyên góp cho sứ vụ truyền giáo luôn được thực hiện nhằm phục vụ cho sự hiệp
thông của Hội Thánh.
- Các
HGHTG như mạng lưới dần dần theo thời gian lan tỏa khắp các lục địa, và với
chính hình thức tổ chức đó, đã phản ánh tính đa dạng về sắc thái, điều kiện, vấn
đề và sự tặng hiến, tất cả làm rõ nét sức sống của Hội Thánh ở những nơi khác
nhau trên thế giới. Tính đa nguyên này có thể bảo vệ [Hội Thánh] thoát khỏi
nguy cơ thừa nhận một ý thức hệ và các nền văn hóa đơn cực. Theo nghĩa này, người
ta cũng có thể cảm nghiệm mầu nhiệm phổ quát của Giáo hội qua các HGHTG, nơi
đây Chúa Thánh Thần không ngừng hoạt động để tạo sự hòa hợp giữa những tiếng
nói khác nhau, trong khi với vai trò phục vụ đức ái, Vị Giám mục Rôma bảo vệ sự
hiệp nhất trong đức tin, ngay cả qua các HGHTG.
Tất cả những đặc tính mô tả trên đây có thể giúp
cho các HGHTG thoát khỏi những cạm bẫy và các căn bệnh cản trở hành trình của Hội
và của biết bao thể chế Giáo hội khác nữa. Tôi xin nêu lên một vài điểm.
Các cạm bẫy phải tránh
Vị ngã. Vượt khỏi thiện ý cá nhân, đôi khi các tổ chức và thực thể của Giáo hội
rốt cuộc lại vị ngã, dành sức lực và ưu tiên cho việc
tự đề cao và quảng bá các sáng kiến của riêng
mình. Lại có những tổ chức và thực thể khác dường như bị thống trị bởi mối ám ảnh
phải liên tục xác định lại tầm quan trọng và vị trí của mình trong Giáo hội, với
lẽ biện minh là muốn phục hồi sứ vụ của mình cho tốt hơn. Bởi đó – như Đức Hồng
Y Joseph Ratzinger đã từng đề cập – người ta nuôi dưỡng cả ý tưởng giả dối rằng
một người càng là Kitô hữu thì càng có chỗ trong những cấu trúc bên trong của
Giáo hội, trong khi trên thực tế hầu như tất cả những người chịu Phép rửa đều sống
đức tin, đức cậy, đức mến trong cuộc sống bình thường của họ, mà không hề xuất
hiện trong các ủy ban Giáo hội và cũng không chú tâm đến những phát triển chính
sách mới nhất của Giáo hội[5].
Bận tâm chỉ đạo. Đôi khi có chuyện các thể chế và tổ chức được
thành lập để trợ giúp các cộng đoàn Hội Thánh sử dụng những ơn được Chúa Thánh
Thần ban cho các cộng đoàn đó, nhưng rồi càng về sau người ta càng đòi phải có
quyền tối cao và kiểm soát các cộng đoàn mà họ phải phục vụ. Thái độ này hầu
như luôn kèm theo giả định đòi thực thi vai trò người “được ủy thác” và người cấp
phép. Thực tế, trong những trường hợp này chúng ta hành xử như thể Giáo hội là
kết quả của việc chúng ta phân tích, lên chương trình, đồng ý và ra quyết định
vậy.
Thuộc thành phần tinh hoa. Nhiều khi những người thuộc về các tổ chức và
các thực tại được tổ chức trong Giáo hội có cảm tưởng mình là tinh hoa, thuộc tầng
lớp cao quý, tuy ý tưởng này không được nói ra. Một tầng lớp chuyên gia vượt trội
tìm cách mở rộng không gian của mình, trong sự đồng lõa hoặc cạnh tranh với những
thành phần tinh hoa khác trong Giáo hội, đồng thời huấn luyện các thành viên của
mình theo những hệ thống và cách lý luận trần tục mang tính thắng thua hoặc thẩm
quyền kỹ thuật chuyên nghiệp, luôn luôn với chủ đích là đẩy mạnh đặc quyền thống
trị của mình.
Tách rời khỏi dân chúng. Cơn cám dỗ thuộc giới tinh hoa trong một số thực
thể liên kết với Giáo hội đôi khi kèm theo cảm giác bề trên và không khoan nhượng
đối với những người chịu Phép rửa, đối với Dân Thiên Chúa là những người có thể
thường xuyên đến giáo xứ và các đền thánh, nhưng không thuộc về số những người
“tích cực” dấn thân trong các tổ chức Công Giáo. Trong những trường hợp này,
Dân Thiên Chúa cũng được xem như một đám đông trì trệ, luôn cần được thúc đẩy
và động viên với “ý thức” dùng các lý lẽ, lời kêu gọi hay dạy bảo để khích lệ.
Người ta hành động như thể sự vững mạnh của đức tin là kết quả của luận chứng
thuyết phục hay của các phương pháp đào tạo.
Lý thuyết trừu tượng. Khi vị ngã, các tổ chức và các định chế liên kết
với Giáo hội không còn tiếp xúc với thực tại và mắc chứng bệnh lý thuyết trừu
tượng. Người ta mở thêm nhiều địa điểm khai triển chiến lược cách không cần thiết,
nhằm tạo ra các kế hoạch và đường lối hướng dẫn chỉ dùng để tự quảng cáo cho những
người sáng chế ra chúng. Người ta xem xét các vấn đề và phân tách chúng trong
các phòng nghiên cứu mang tính trí thức, ở đó tất cả đều được chế ngự, được
đánh bóng theo những ý thức hệ ưa thích hơn. Tách ra khỏi bối cảnh thực, tất cả
đều có thể bị biến hóa thành điều hão huyền, giả tạo, ngay cả những điểm quy
chiếu đến đức tin hay những lời kêu cầu Chúa Giêsu và Thánh Thần.
Duy hiệu năng. Ngay cả trong Giáo hội, các tổ chức vị ngã và
xem mình thuộc thành phần tinh hoa, rốt cuộc, thường nhất nhất rập khuôn theo
các mô hình hiệu quả trần thế, như các mô hình cạnh tranh khốc liệt trong lãnh
vực kinh tế hay xã hội. Sự chọn lựa duy hiệu năng khiến người ta an tâm với ảo
tưởng rằng họ đã “dàn xếp các vấn đề” cách ổn thỏa, kiểm soát được mọi chuyện,
gia tăng tầm quan trọng của mình, cải thiện sự quản trị của các cơ cấu hiện
hành. Tuy nhiên như tôi đã nói với anh chị em trong buổi gặp gỡ năm 2016, một
Giáo hội e ngại không dám phó thác cho ân sủng của Chúa Kitô mà chỉ chú trọng đến
tính hiệu quả của bộ máy quan liêu là một Giáo hội đã chết, mặc dầu các cấu
trúc và chương trình có lợi cho các giáo sĩ và giáo dân “duy hoạt động” hẳn sẽ
còn kéo dài hàng nhiều thế kỷ.
Các lời khuyên cho cuộc hành trình
Nhìn vào hiện tại, hướng đến tương lai và tìm
xem những phương cách giúp các HGHTG vượt qua những cạm bẫy giăng mắc trên đường
để có thể tiến bước, xin cho phép tôi đưa ra một vài đề nghị, giúp anh chị em
phân định. Vì anh chị em cũng đã bắt đầu tiến trình xem xét lại các HGHTG và muốn
được Đức thánh cha chỉ dẫn và gợi ý, tôi đề nghị anh chị em chú ý một số tiêu
chuẩn và những điểm tổng quát, không cần đi sâu vào chi tiết vì tùy theo hoàn cảnh
anh chị em có thể phải thích ứng và thay đổi.
1) Với những gì có thể và không suy diễn quá
đáng, anh chị em hãy bảo vệ hoặc tái khám
phá sự hòa nhập của các HGHTG giữa lòng Dân Thiên Chúa, sự thích ứng của
các HGHTG với cuộc sống thực nơi các Hội Truyền Giáo đã phát sinh. Sẽ là việc
thiện ích khi “dìm mình” sâu hơn vào cuộc đời thực của con người, như chúng vốn
là. Thật tốt đẹp khi mỗi người ra khỏi những vấn đề cá nhân khép kín của riêng
mình trên hành trình theo Chúa Giêsu. Phải hạ mình đi vào những hoàn cảnh và điều
kiện cụ thể, ngay cả bằng cách chăm chút hay thử phục hồi cách hành động và tiếp
xúc theo kiểu hệ thống huyết mạch [ban đầu] của các HGHTG, trong sự liên đới chặt
chẽ với mạng lưới Giáo hội (các giáo phận, giáo xứ, cộng đoàn, nhóm). Nếu ưu
tiên cho sự hòa nhập vào Dân Thiên Chúa, với ánh sáng và khó khăn của nó, chúng
ta có thể thoát khỏi cạm bẫy của lý thuyết trừu tượng cách dễ dàng hơn. Cần phải
giải quyết các vấn đề và đáp ứng các nhu cầu thực, hơn là lo thiết lập công thức
và đề xuất các kiến nghị. Có lẽ các trực giác hữu ích có thể nảy sinh từ chính
cách tiếp cận từng người trong đời thường, chứ không từ những nhóm khép kín hay
từ những phân tích lý thuyết về sự năng động nội tại của mình, nhờ thế những
quy trình hoạt động của Hội được thay đổi và cải thiện, thích ứng với những bối
cảnh và tình huống khác nhau.
2) Tôi đề nghị phải làm sao để hệ thống tổ chức
cốt lõi của các HGHTG vẫn nối kết với các
thực hành cầu nguyện và quyên góp cho việc truyền giáo. Thiết chế này thật
quý báu và đắt giá bởi đặc tính đơn giản và cụ thể của nó, diễn tả nét tương hợp
của các HGHTG với đức tin của Dân Thiên Chúa. Cần phải linh hoạt và thích nghi,
nhưng không được quên lãng hay làm biến chất ý định căn bản này của các HGHTG.
Chính trong cách thức đơn sơ và cụ thể của việc cầu xin Chúa, Đấng khai mở các
con tim để chúng đón nhận Tin Mừng và việc mời gọi tất cả hỗ trợ cách cụ thể
cho việc truyền giáo mà ngay vào lúc này mỗi người có thể vui mừng cảm thấy ước
muốn tìm gặp và gần gũi với tất cả những gì chỉ thuộc về Giáo hội mà thôi, ngay
cả trong hoàn cảnh tai ương dịch bệnh đang đe dọa khắp nơi. Vậy anh chị em hãy
tìm ra những con đường mới, các thể thức mới để phục vụ; tuy nhiên, khi làm thế,
đừng phức tạp hóa những gì vốn đã là đơn giản.
3) Các HGHTG được và phải được nhìn nhận như dụng cụ phục vụ cho sứ vụ truyền giáo của
các Hội Thánh địa phương, trong viễn cảnh sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh toàn
cầu. Sự đóng góp của các Hội Truyền Giáo vào việc loan báo Tin Mừng, vốn luôn
được xem là quý giá, hệ tại ở chức năng dụng cụ này. Tất cả chúng ta, bằng tình
yêu và lòng biết ơn và cả qua những hoạt động của mình, được mời gọi canh giữ
các mầm sống thần linh được Thần Khí của Chúa Kitô làm nảy nở và phát triển nơi
đâu Thần Khí muốn, cho dù đó là sa mạc khô cằn. Tôi xin anh chị em khi cầu nguyện,
hãy vui lòng cầu khẩn Chúa trước hết cho tất cả chúng ta sẵn sàng nhận ra các dấu
chỉ hoạt động của Người, để rồi giúp toàn nhân loại nhận biết các dấu chỉ đó.
Chỉ điều này thôi cũng có thể hữu ích: cho chúng ta, cho thâm tâm chúng ta, hãy
cầu xin để việc cầu khẩn Chúa Thánh Thần không bị giảm thiểu thành một định đề
cằn cỗi và rườm rà [mở đầu] những cuộc hội họp và bài giảng của chúng ta. Ngược
lại chẳng ích gì khi suy tư lý luận và đưa ra lý thuyết về các siêu chiến lược
hay “các hướng dẫn từ trung ương” cho sứ vụ truyền giáo, và xem đấy như “nơi
tàng trữ” chiều kích truyền giáo của Hội Thánh theo cách tự giả định và đầy ngạo
mạn kiêu căng, rồi trao phó cho chúng nhiệm vụ đánh thức tinh thần truyền giáo
của người khác hoặc cấp phép truyền giáo cho người khác. Có một số hoàn cảnh
khi lòng nhiệt thành truyền giáo bị nguội lạnh đi, thì đó là dấu hiệu đức tin
đang phai nhạt. Và trong những trường hợp này, ý định dùng các chiến lược và diễn
từ nhằm làm cho ngọn lửa đã bị dập tắt bùng cháy lên, rốt cuộc sẽ làm nó suy yếu
hơn và chỉ khiến sa mạc lan rộng hơn mà thôi.
4) Tự bản chất, việc phục vụ của các HGHTG cho
phép các thành viên hoạt động tiếp xúc với
vô số các thực tại, các tình huống và sự kiện vốn làm nên nguồn sức sống mạnh
mẽ cho Hội Thánh, trên mọi lục địa. Nơi nguồn sống này, trong lịch sử Giáo hội,
chúng ta có thể đối mặt với biết bao trở ngại nặng nề, tuy nhiên chúng ta cũng
có thể bắt gặp cả những ơn chữa lành và an ủi mà Chúa Thánh Thần gieo vãi cách
nhưng không trong nếp sống bình thường của những con người có thể gọi là “tầng
lớp bình dân thánh thiện”. Vậy anh chị em hãy phấn khởi vui mừng vì những cuộc
gặp gỡ anh chị em đã trải nghiệm nhờ vào hoạt động của các HGHTG, khi biết ngạc
nhiên bởi những cuộc gặp gỡ này. Tôi nghĩ đến những câu chuyện tôi đã được nghe
kể về biết bao phép lạ xảy ra nơi các trẻ em, có lẽ các em gặp được Chúa Giêsu
nhờ những sáng kiến do Hội Trẻ Em Truyền Giáo đề xuất. Do đó hoạt động của anh
chị em không bao giờ là hoạt động “cằn cỗi vô sinh” theo kiểu chỉ hoạt động
cách quan liêu. Không thể có các quan lại hoặc viên chức truyền giáo. Chính
lòng biết ơn của anh chị em có thể trở thành ơn ban và chứng tá cho toàn thế giới.
Để mang lại sự ủi an cho tất cả mọi người, bằng những phương tiện đang có, anh
chị em có thể kể lại câu chuyện của những con người và cộng đoàn mà anh chị em
đã có dịp gặp gỡ, gặp gỡ dễ dàng hơn những người khác; kể về những con người và
cộng đoàn trong đó phép lạ của đức tin, đức cậy và đức mến được tỏa sáng cách
nhưng không.
5) Hãy biết ơn về những điều kỳ diệu Chúa đã thực
hiện nơi những người được Chúa yêu thương, những người bé nhỏ nghèo hèn, Chúa
đã mặc khải cho họ những điều mà Người giấu kín những kẻ khôn ngoan (x. Mt 11,
25-26). Lòng biết ơn này có thể giúp anh chị em dễ dàng hơn trong việc tránh cạm
bẫy của thói tự quy ngã và biết ra khỏi chính mình bước theo Đức Giêsu. Tự nó,
ý tưởng truyền giáo theo kiểu vị ngã đã là phi lý rồi, vì khi đó người ta chỉ
dành thời gian để thưởng lãm và tôn vinh các sáng kiến của riêng mình. Đừng
lãng phí thời gian và công sức “tự ngắm mình”, soạn thảo các kế hoạch chỉ lo tập
trung vào các cơ chế nội bộ, vào sự vận hành và hiệu năng của bộ máy quan liêu
của chính mình. Hãy nhìn ra bên ngoài. Đừng ngắm mình trong gương. Hãy đập vỡ mọi
cái gương trong nhà! Các tiêu chí đề ra trong việc thực hiện các chương trình
phải nhắm làm sao để các cơ cấu và thủ tục được tinh giản và linh hoạt hơn,
thay vì làm cho mạng lưới HGHTG trở nên nặng nề bởi các yếu tố quan liêu. Chẳng
hạn, các Giám đốc Quốc gia, trong nhiệm kỳ của mình, nên để tâm nhận biết những
người có khả năng kế nhiệm, với tiêu chí duy nhất được đề xuất là những ai có
lòng nhiệt thành truyền giáo hơn, chứ không phải những người thuộc nhóm bạn hữu
hay các thành viên cùng hội cùng thuyền với mình.
6) Về việc quyên
góp tài chánh hỗ trợ sứ vụ truyền giáo, trước đây trong các cuộc họp tôi đã
nói về nguy cơ biến HGHTG thành một tổ chức phi chính phủ, tập trung mọi nỗ lực
vào việc tìm kiếm và phân phối tài chánh. Điều này phụ thuộc vào cái tâm của
người thực hiện công việc hơn là vào công việc mà người đó thực hiện. Khi gây
quỹ, việc vận dụng sáng tạo các phương pháp cập nhật mới mẻ để vận động tài
chính từ các nhà tài trợ có tiềm năng và xứng đáng, chắc chắn là điều nên khuyến
khích và thậm chí được xem là thích đáng. Nhưng nếu ở một số khu vực, việc
quyên góp giảm sút, nhất là vì ký ức Kitô giáo bị phai mờ, thì trong những trường
hợp này, chúng ta có thể bị cám dỗ muốn giải quyết vấn đề bằng cách che đậy
tình hình và cậy dựa vào một số hệ thống gây quỹ hiệu quả hơn chuyên tìm kiếm
các nhà tài trợ lớn. Thay vì che đậy nỗi đau trước cảnh sa sút đức tin và suy
giảm nguồn tài lực, chúng ta hãy phó thác vào tay Chúa nỗi đau buồn ấy. Dẫu có
thế nào, trong việc quyên góp giúp các nơi truyền giáo, nên tiếp tục ưu tiên hướng
đến tất cả những người đã được rửa tội, đồng thời cũng cần đổi mới cách thức
quyên góp cho việc truyền giáo ở mỗi quốc gia, nhân dịp Ngày Thế giới Truyền
giáo vào tháng 10. Giáo hội tiếp tục thăng tiến như vốn dĩ vẫn hằng thăng tiến
nhờ “đồng xu nhỏ của bà góa nghèo” cũng như nhờ sự đóng góp của đoàn người đông
đảo cảm nhận được Đức Giêsu chữa lành và an ủi, và chính bởi điều này và bởi
tràn ngập lòng biết ơn, họ dâng cúng những gì họ có.
7) Đối với việc sử dụng các khoản quyên góp đã
nhận, phải có cảm thức Hội Thánh (sensus
Ecclesiae) trong việc cân nhắc việc phân bổ quỹ, nhằm hỗ trợ các tổ chức và
dự án đang thực hiện sứ mạng tông đồ và loan báo Tin Mừng cách đa dạng và tại
nhiều nơi trên thế giới. Phải luôn quan tâm đến những nhu cầu cơ bản nhất của cộng
đồng, đồng thời phải tránh những hình thức phúc lợi, bởi lẽ những hình thức này
thay vì mang lại những công cụ truyền giáo tích cực, cuối cùng lại làm con tim
nguội lạnh và dung dưỡng hiện tượng ăn bám vào sự bảo trợ, cả ở bên trong Hội
Thánh. Đóng góp của anh chị em nên nhắm đến mục đích đáp ứng cụ thể những nhu cầu
khách quan, mà không lãng phí nguồn tài lực cho các sáng kiến nặng phần lý thuyết,
vị ngã hoặc phát sinh từ thói khoe mẽ kiểu giáo sĩ của ai đó. Đừng chiều theo mặc
cảm tự ti hoặc cơn cám dỗ đua đòi các tổ chức siêu chức năng chuyên thu tiền với
những lý do chính đáng, rồi dùng phần lớn số tiền thu được để nuôi bộ máy quan
liêu và quảng cáo cho thương hiệu của họ. Cả việc quảng cáo này đôi khi cũng có
thể trở thành phương cách tìm kiếm tư lợi, qua việc phô trương hoạt động trợ
giúp người nghèo và người thiếu thốn.
8) Đối với người
nghèo, anh chị em cũng đừng quên họ. Đây là lời căn dặn mà, tại Công đồng
Giêrusalem, các tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã truyền đạt cho Phaolô,
Banaba và Titô, những người đã đến để thảo luận về sứ vụ của họ giữa những người
không cắt bì: “Họ chỉ yêu cầu chúng tôi là phải lưu tâm đến người nghèo” (Gal
2,10). Theo lời căn dặn đó, Phaolô đã tổ chức những cuộc lạc quyên vì lợi ích của
anh em ở Hội Thánh Giêrusalem (x. 1Cr 16, 1). Ngay từ lúc khởi đầu, lựa chọn ưu
tiên cho người nghèo và bé mọn đã thuộc về sứ vụ loan báo Tin Mừng. Các việc
bác ái về phần xác và phần hồn dành cho những người bé nhỏ nghèo hèn biểu hiện
“lòng ưu ái của Thiên Chúa”, là điều thách thức cuộc sống đức tin của mọi Kitô
hữu vốn được kêu gọi mang lấy những tâm tình của Đức Giêsu (x. Phil 2, 5).
9) Qua mạng lưới toàn cầu của mình, các HGHTG phản
ánh sự phong phú đa dạng của “một dân với hàng ngàn khuôn mặt”, được quy tụ nhờ
ân sủng của Đức Kitô, với lòng nhiệt thành truyền giáo. Lòng nhiệt thành đó
không mãnh liệt và sống động như nhau ở mọi nơi và mọi lúc. Mặc dù vậy, khi
chia sẻ cùng một nỗi cấp bách phải tuyên xưng Đức Kitô đã chết và phục sinh,
lòng nhiệt thành này vẫn được diễn tả qua các hoạt động với những trọng tâm
khác nhau khi thích ứng với các bối cảnh khác nhau. Sự mặc khải của Tin Mừng
không đồng nhất với bất kỳ nền văn hóa nào, thế nên khi gặp gỡ những nền văn
hóa mới chưa đón nhận sứ điệp Kitô giáo, thì cùng với việc rao giảng Tin Mừng
không được áp đặt một hình thức văn hóa cụ thể nào. Ngày nay, trong hoạt động của
các HGHTG cũng vậy, không cần chất thêm những hành lý nặng nề, thay vào đó nên
duy trì diện mạo sơ khởi phong phú của Hội với những điểm quy chiếu chung đến
những điều cốt yếu của đức tin. Bất kỳ tham vọng nào nhằm chuẩn hóa hình thức
loan báo Tin Mừng đều có thể che khuất tính phổ quát của đức tin Kitô giáo, thậm
chí chỉ quảng bá cho những khuôn sáo và những khẩu hiệu thời thượng trong một
vài giới và tại một vài nước có ưu thế về văn hóa và chính trị. Về vấn đề này,
cả mối tương quan đặc biệt liên kết các HGHTG với Đức thánh cha và Hội Thánh
Rôma cũng được coi là một nguồn tài lực và hỗ trợ giúp tất cả được tự do thoát
khỏi những hoạt động thoáng qua theo thời, sự san bằng các trường phái tư tưởng
đơn phương hoặc sự đồng nhất văn hóa mang dấu ấn của chủ nghĩa thực dân mới. Tiếc
thay, đây là những hiện tượng đã được ghi nhận cả trong môi trường Hội Thánh.
10) Trong Hội Thánh, các HGHTG không phải là một
thực thể tự thân, treo lơ lửng trong không trung. Một trong những đặc điểm
riêng của các HGHTG luôn cần được bồi đắp và đổi mới, đó là mối dây liên kết đặc
biệt với Giám mục của Hội Thánh Rôma, vị chủ trì trong đức ái. Thật tốt đẹp và
an ủi khi biết rằng mối liên kết này được thể hiện qua một công việc được thực
hiện cách vui tươi, không tìm những tràng pháo tay cũng không ưa đòi hỏi yêu
sách. Một công việc mà nhờ không kể công, được đan kết với sự phục vụ của Đức
thánh cha, là tôi tớ của các tôi tớ Thiên Chúa. Tôi xin anh chị em, dấu đặc
trưng cho thấy sự gần gũi của anh chị em với Giám mục Rôma chính là ở điểm này:
sự chia sẻ lòng yêu mến Hội Thánh vốn phản chiếu tình yêu đối với Đức Kitô, được
cảm nghiệm và diễn tả cách âm thầm, không kiêu căng tự phụ, không lo đánh dấu
“lấn đất giành sân”. Những nỗ lực hằng ngày phát sinh từ lòng bác ái và mầu nhiệm
của tính nhưng không, nâng đỡ biết bao người vẫn hằng biết ơn sâu sắc, ngay cả
khi không biết cảm ơn ai, vì họ chẳng biết gì về HGHTG kể cả cái tên. Trong
lòng Hội Thánh, mầu nhiệm đức ái hoạt động theo cách ấy. Chúng ta tiếp tục cùng
nhau tiến lên, vui vẻ tiến bước giữa những thử thách, nhờ ân huệ và sự an ủi của
Chúa. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn, chúng ta hân hoan nhận biết rằng tất cả chúng
ta đều là những đầy tớ vô dụng, khởi đầu là chính bản thân tôi.
Kết luận
Hãy nhiệt tình tiến lên! Có rất nhiều việc phải
làm trên hành trình đang chờ đón anh chị em. Nếu có phải thay đổi phương thức
hoạt động, nên hướng đến sự giảm nhẹ hơn là gia tăng gánh nặng, nhằm hoạt động
cách linh hoạt chứ không tạo thêm sự quan liêu cứng nhắc và luôn là nguy cơ thu
vén cho mình. Hãy nhớ rằng sự tập quyền quá đáng, thay vì trợ giúp, có thể làm
phức tạp tính năng động truyền giáo. Cả việc vận hành các sáng kiến ở cấp quốc
gia cũng như việc trao đổi trợ giúp giữa các Hội Thánh và cộng đồng địa phương,
vốn được cảm nhận như hoa trái hữu hình và dấu chỉ bác ái giữa anh chị em trong
sự hiệp thông với Giám mục Rôma, tất cả đều có thể đe dọa diện mạo của mạng lưới
HGHTG.
Dù thế nào đi nữa cũng phải xét xem mọi khía cạnh
liên quan đến hoạt động của các HGHTG có được soi sáng bởi một điều duy nhất
thiết yếu này hay không, đó là chút tình yêu đích thực đối với Hội Thánh như phản
ánh tình yêu dành cho Chúa Kitô. Anh chị em phục vụ do lòng nhiệt thành tông đồ,
nghĩa là do sự thúc đẩy của sự sống thần linh mà chỉ có Chúa Thánh Thần mới có
thể tác động trong cộng đoàn Dân Chúa. Anh chị em hãy suy nghĩ và tìm cách làm
cho tốt việc của mình, hãy làm “như thể mọi thứ tuỳ thuộc vào anh chị em, trong
khi biết rằng thật ra mọi sự đều tuỳ thuộc vào Thiên Chúa” (Thánh Inhaxiô
Lôyôla). Như tôi đã đề cập với anh chị em trong một cuộc gặp gỡ của chúng ta:
hãy bắt chước tinh thần sẵn sàng của Đức Maria. Khi đến thăm bà Êlisabét, Đức
Maria không hành động theo tư cách cá nhân: Mẹ đi như một nữ tỳ của Chúa Giêsu,
Đấng Mẹ cưu mang trong lòng. Mẹ không nói gì về bản thân mình, chỉ mang Con của
mình và ca ngợi Thiên Chúa. Mẹ không phải là nhân vật chính. Mẹ đã đi với tư
cách là nữ tỳ của Đấng là nhân vật chính duy nhất của sứ vụ truyền giáo. Tuy
nhiên, Mẹ không lãng phí thời gian, Mẹ đi vội vã và làm những gì cần thiết để
chăm sóc người bà con của mình. Mẹ dạy chúng ta sự sẵn sàng, sự vội vã của lòng
trung tín và sự thờ lạy.
Xin Đức Mẹ canh giữ anh chị em và các Hội Giáo
hoàng Truyền giáo, và xin Con của Mẹ, Chúa Giêsu Kitô, ban phúc lành cho anh chị
em. Trước khi lên trời Người hứa luôn ở với chúng ta cho đến tận thế.
Làm tại Đền Thánh Gioan ở Latêranô, Rôma, ngày
21 tháng 5 năm 2020, lễ Trọng mừng Chúa Lên Trời
PHANXICÔ
Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Nguyễn Quốc Hưng
WHĐ (21.12.2020)
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 120 (Tháng 9 & 10 năm 2020)
[1]x. Ơn kiên vững. Gởi Prosper và
Hilary, 23, 63
[2]x. Bài giảng thánh lễ khai mạc hội nghị khoáng đại lần thứ năm của Liên Hội
Đồng Giám mục Châu Mỹ La Tinh và vùng Caribê, Aparecida, 13.05.2007: ASS 99
[2007], 437
[3]x. Diễn giải Tin Mừng theo thánh Gioan, 26, 4
[4]x. Hồng Y J. Ratzinger, Các Phong Trào của Giáo hội và Vị Trí Thần Học
của chúng. Bài tham luận tại Hội nghị thế giới về các phong trào trong Giáo
hội, Rôma, 27-29.05.1998
[5]x. Một hội đoàn không ngừng đổi mới, Bài tham luận tại hội nghị ở
Rimini, 1.9.1990