PHƯƠNG PHÁP ĐỒNG HÀNH “TRỌNG TÂM NHÂN VỊ”
THEO CARL ROGERS
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
1. Dẫn nhập
Ai trong chúng ta
muốn hay chấp nhận đồng hành với một người nào đó trên hành trình tiến tới sự
trưởng thành thiêng liêng và tự do nội tâm, người ấy cần phải được cảm hứng bởi
một quan niệm tích cực về con người và mở ra giá trị hướng tới sự siêu việt.
Theo quan điểm
triết học, con người không được nhìn như là một vấn đề (problème), nhưng là một
huyền nhiệm (mystère) (x. Grabriel Marcel).
Theo quan điểm
Kinh Thánh, con người là hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26). Bởi thế, người ta không
được phép giảm thiểu con người chỉ là vấn
đề. Con người cưu mang trong mình nguồn lực phong phú vô tận mà Thiên Chúa
phú bẩm và những khát vọng vô biên, hướng tới sự tự siêu việt bản thân, tới giá
trị cao cả.
Đồng hành với một
người là một nghệ thuật của các nghệ thuật. Người thi hành sứ vụ này cần phải
có sự hiểu biết, phương pháp và chiến lực đồng hành phù hợp thì mới hy vọng việc
đồng hành đó có kết quả tốt.
Carl Rogers cung
cấp cho chúng ta một phương pháp mới để thực hiện sứ mạng này trong hành trình
hướng tới sự trưởng thành nội tâm của người thụ huấn.
2. Carl Rogers và liệu pháp “trọng tâm nhân vị”
(client-centered psychotherapy)
Carl Rogers
(1902-1987) sinh ở Illinois, tại Oak Park, là một khu phố ở Chicago, từ một gia
đình rất hiệp nhất, ông là một trong những cha đẻ sáng lập nên khoa tâm lý duy
nhân bản. Ông đưa ra một lối tiếp cận và phương pháp giúp làm sáng tỏ tầm quan
trọng của những nguồn năng lực và những khả thể tiềm ẩn trong mỗi cá thể.
Carl Rogers phát triển lối tiếp cận tư vấn tâm lý “tập trung trên bệnh
nhân hay trên nhân vị,” dựa trên một quan niệm tích cực (positive) về con người,
khởi đi từ giả thiết rằng mỗi người có
những giá trị nội lực vô tận, khả năng tự xác định, khả năng tự giải quyết và tự
siêu việt chính mình. Theo lối nhìn này, Rogers cho rằng chính những “bệnh
nhân” hay người được đồng hành là nhân vật chính trong việc khám phá khả năng
tái lập sự quân bình cho mình cách tốt hơn; chính họ là người tự thân tìm ra giải
đáp cho chính mình dựa trên “sức mạnh nền tảng” (forza di base); chính họ có khả
năng để hiểu và tái cấu trúc, tái tổ chức bản thân từ những nguồn lực và sức mạnh
nội tại nơi mình.
Theo phương pháp
này, người tư vấn hay nhà đồng hành chỉ đóng vai trò là người “hộ sinh,” nói
theo ngôn ngữ của triết gia Socrates. Nghĩa là chỉ đóng vai trò đi bên cạnh, trợ
giúp và khơi thông những nguồn lực đó nơi bệnh nhân hay người được đồng hành để
họ phát huy tối đa tố chất và năng lực của mình cho một sự phát triển toàn diện,
cũng như để chính họ tìm ra giải pháp cho những khó khăn trong hành trình của
mình. Nhiệm vụ của người hướng dẫn đơn giản chỉ là như thế, nghĩa là đi bên cạnh
và giúp đỡ chứ không áp đặt cách một chiều mọi giải pháp cho người được đồng
hành.
Đây là một phương
pháp được gọi là “giúp những người khác biết tự giúp mình”. Hình thức giúp đỡ
này đặt vai trò của người được đồng hành như là nhân vật chính trong hành trình
của mình hướng tới sự trưởng thành. Chính vì lý do này mà ngày nay, người ta
thường thích dùng hạn từ “đồng hành” (accompagnamento) để diễn tả công việc này
hơn là hạn từ “hướng dẫn” (direzione).
Chúng ta có thể
mượn câu chuyện trong tiểu thuyết “Ngàn lẻ một đêm” với câu chuyện “Ông già xứ
Ba Tư” để diễn tả thực tại này. Ở Ba Tư, có người nông dân đang sở hữu một nông
trại rộng lớn, vườn rộng ao sâu, nhiều hoa quả và thú vật quý hiếm. Ông ta nghe
lời một vị đạo sĩ nên bán hết ruộng vườn để đi tìm kim cương. Ông lặn lội đi
tìm hết nước này sang nước khác, nhưng không tìm thấy kim cương đâu cả. Cuối
cùng, hết tiền, đói khổ, quần áo rách rưới, cùng đường, ông đâm đầu xuống sông
tự tử. Trong khi đó, người mua lại nông trại của ông đã tìm ra một mỏ kim cương
khổng lồ ngay trong nông trại đó. Ông già Ba Tư ấy ngồi ngay trên mỏ kim cương,
sở hữu mỏ kim cương kia mà không hề hay biết gì. Câu chuyện này diễn tả thực tế
là chúng ta thường lo tìm kiếm những nguồn lực hay sự trợ giúp từ bên ngoài
nhưng nhiều lúc lại quên rằng chúng đang ở trong ta mà không hề hay biết.
3. Phát triển lối đồng hành “trọng tâm nhân vị”
Theo Carl Rogers,
lý thuyết này sẽ rất hữu ích đối với việc tư vấn cho bệnh nhân, nhưng nó không
luôn có một giá trị tuyệt đối và bao quát hết mọi khía cạnh trong mọi trường hợp…
Tương quan của đồng
hành là nguyên nhân cho sự trưởng thành của mỗi người và của từng nhóm. Tương
quan quan trọng hơn cả lý thuyết và vấn đề. Theo cái nhìn này, bổn phận nền tảng
của nhà đồng hành không hệ tại ở việc giải quyết những vấn đề và những khó khăn
của người khác, nhưng hệ tại ở việc thiết lập một bầu khí tin tưởng và tín nhiệm
đối với người được đồng hành để họ dễ dàng thông tri về trình trạng của chính
mình. Đó là điều kiện để cá nhân biết dùng lương tâm trong sáng mà giải bày và
thổ lộ thế giới nội tâm của mình với nhà đồng hành, qua đó họ cảm thấy khả năng
được lắng nghe và đón nhận; với sự trợ giúp của người đồng hành, họ tự đảm nhận
trách nhiệm của mình về những quyết định trong việc thay đổi bản thân cũng như
trung thành với những nhiệm vụ đã được giao phó.
Phát triển việc đồng
hành “tập trung trên người thụ huấn” dựa trên bốn nguyên tắc nền tảng sau
đây: tính phù hợp; tiếp nhận vô điều kiện, thấu cảm và không can thiệp trực
tiếp.
Những khía cạnh nền
tảng này giúp thiết lập một tương quan lành mạnh giữa người đồng hành và người
được đồng hành. Chúng kiến tạo một bầu khí dễ dàng cho việc đối thoại, phù hợp
với sự tiến bộ của con người, không chỉ trong tâm lý trị liệu, mà cả trong
tương quan liên vị, trong linh hướng và huấn luyện.
Giờ đây chúng ta
cần tìm hiểu từng phương diện:
3.1. Tính phù hợp (Congruence)
Tính phù hợp nhiều
lúc được gọi là sự “chân thực” hay “tính chân thực” của người đồng hành. Theo
Rogers, sự phù hợp tâm lý không gì khác ngoài việc trở nên người lành mạnh,
trong sáng. Tính phù hợp trong tương quan liên vị có nghĩa là người đồng hành phải
là một người chân thật và minh bạch, không có gì giả tạo cũng như không che giấu
cảm xúc và suy nghĩ của mình đằng sau chiếc mặt nạ chuyên môn. Một người đồng
hành phù hợp là người không lấy kinh nghiệm của mình làm thước đo cho mọi sự một
cách chủ quan. Nhưng với đồng cảm, họ truyền đạt chính xác những gì mà người được
đồng hành đang cảm nghiệm. Bởi vì, có sự phân biệt giữa điều nhà đồng hành và
điều người được đồng hành cảm nhận và suy nghĩ.
Trở nên trong
sáng là sự diễn tả một điều kiện được kinh nghiệm từ nhà đồng hành khi đặt mình
cách tự do và từ sâu thẳm trong tương quan với người được đồng hành trong suốt
hành trình đối thoại và đồng hành. Cần phải xác định chính xác rằng người ta phải
luôn là chân thực, cả trong sự liên hệ với những cảm xúc tiêu cực, để không đưa
ra những thông điệp mang tính mập mờ và mâu thuẫn nhau. Vì thế, tính phù hợp phải
là:
– Tính xác thực (Authenticity): trước hết đó là thái độ mà nhà đồng hành phải sống
đối với người được đồng hành. Điều này đòi hỏi nơi ngài khả năng đi vào trong
tương quan với chính thế giới nội tâm của mình, khi chấp nhận chính mình với những
giới hạn và bất toàn mà không rơi vào trong những cám dỗ dễ dàng ẩn dấu mình
bên trong những mặt nạ giả tạo, giả hình. Nhà huấn luyện phải là người chân thực.
– Tính trong sáng (Transcendency): Nếu nhà đồng hành là người chân thực, ngài sẽ
có khả năng để thiết lập một tương quan trong sáng với chính mình, với người
khác và cả với Thiên Chúa. Họ phải là người trong sáng trong tư duy, lời nói và
cung cách nết ở của mình trước người thụ huấn. Để việc đồng hành có hiệu quả, họ
phải biết xây dựng tương quan trong sáng với người thụ huấn.
– Tính chân thành (Sincerity): Nghĩa là phải có sự đón tiếp cách hồn nhiên và
cởi mở, được gợi hứng từ sự kính trọng chân thành đối với người thụ huấn và tin
tưởng, xác tín về những nguồn lực hiện diện trong mỗi con người. Sự chân thành
phát xuất sự an nhiên tự tại sẽ trở thành nền tảng để xây dựng tương quan tốt
trong tương lai.
– Kinh nghiệm (Experience): Là
người có kinh nghiệm và biết gửi những nghĩa cử không lời phù hợp với từng hoàn
cảnh để bày tỏ tình thân ái và sẵn sàng giúp đỡ.
– Khả năng truyền đạt hay truyền thông tốt
(Communication) giúp người
khác thấu hiểu thông điệp mình muốn diễn tả.
3.2. Đón nhận vô điều kiện (Unconditional
positive regard)
Khái niệm này
liên hệ đến điều kiện là chúng ta không được đặt ra những điều kiện để đón nhận
người khác, mỗi người được đánh giá và nhìn nhận mà không rơi vào việc đánh giá
có tính chọn lọc, thiên kiến hay thành kiến, nhưng xét như một nhân vị và
huyền nhiệm, mỗi người được nhìn theo mức độ là một chủ thể phân biệt, đặc biệt
và duy nhất, với những năng lực, tình cảm, tính cách, hoàn cảnh và kinh nghiệm
riêng của họ. Đón nhận người khác vô điều kiện là đón nhận họ như họ là, với một thứ tình cảm tự
nhiên, một lối tiếp cận tích cực, mà không được ưu tiên hay phân biệt, không có
sự đánh giá chủ quan. Nó loại bỏ mọi hình thức của việc xét đoán hay suy đoán
chủ quan về người khác.
Theo phương pháp
này, trong cuộc đối thoại và đồng hành, nó đòi hỏi nhà đồng hành phải từ bỏ những
quy chiếu chủ quan mà chúng gợi hứng cho chính cách sống của mình, để có thể
dìm mình vào trong thế giới khách quan của người khác để hiểu họ.
Sự đón tiếp vô điều
kiện như thế làm phát sinh những lợi thế rất ý nghĩa cho từng cá thể, đó là: sự
khích lệ đi vào trong thế giới nội tâm để nhận biết và để chấp nhận chúng; khởi
đầu đi vào một tiến trình của hoàn thiện hình ảnh bản thân; vượt qua những tình
trạng thất vọng có thể xảy ra, sự thất vọng hoặc buồn phiền; thủ đắc dần dần một
sự tự lập lành mạnh cá nhân; gia tăng sức mạnh để vượt qua những giây phút khủng
hoảng trong hành trình hướng tới hoàn thiện.
Bởi thế, sự đón
nhận vô điều kiện hệ tại trong những yếu tố sau:
– Về sự kiện,
tình trạng và giá trị của từng người phải được đón nhận như họ là (così come è). Đây là thái độ
của Chúa Giêsu trong dụ ngôn “lúa và cỏ lùng” (Mt 13,24-30). Đó là thực tại tốt
và xấu, nhân đức và tội lỗi đồng hiện hữu trong cuộc sống, nơi từng người mà
chúng ta phải chấp nhận.
– Không xét đoán
và vội vàng đánh giá như Chúa Giêsu đã dạy và đã sống: “Đừng xét đoán, để không
bị xét đoán” (Mt 7,1). Chẳng hạn đối với các tội nhân. Chúa Giêsu không kết án
và lên án họ. Nếu ta kết án ai vì một lỗi lầm, điều đó có nghĩa là hiển nhiên với việc ta hạ giá người đó với lỗi lầm đó; sự la mắng vì sự yếu đuối được cảm nhận
như sự từ chối con người yếu đuối và bất nhất. Vì thế, cần phải biết phân biệt
giữa tội nhân và tội lỗi. Tội lỗi cần phải từ chối nhưng tội nhân thì cần đón
nhận.
– Không tán thành
hay từ chối theo tiêu chuẩn chủ quan của người đồng hành nhưng phải dựa trên hệ
giá trị khách quan.
– Tương quan
“đích thực” của nhà đồng hành với người được đồng hành phải được xây dựng dựa
trên nhu cầu căn bản là muốn được nhìn nhận như một nhân vị (persona).
– Người đồng hành
có thái độ tích cực cho những khởi hành mới: nhà đồng hành có thể bình thản gợi
hứng cho tinh thần này và loại bỏ sang một bên những khía cạnh tiêu cực, ngài
có thể chỉ ra một cách chính xác những lý do mà chúng thúc đẩy người thụ huấn
hướng tới sự tốt lành và trưởng thành.
3.3. Sự thấu cảm hay thấu hiểu (Accurate
empathy)
Ở đây, chúng ta
không đề cập đến một sự hiểu biết thuần túy thuộc phạm vi lý trí, nhưng là một
sự hội nhập hoàn toàn vào trong thế giới của người khác. Hơn cả mọi lý lẽ, người
đồng hành cần phải có tính nhạy bén, khả năng “đồng điệu và hòa nhịp,” và sự sẵn
sàng để vét cạn chính mình khỏi những hệ quy chiếu, phạm trù riêng để đặt mình
trong hệ quy chiếu và thế giới của người khác.
Marian Kinget định nghĩa sự thấu hiểu như sau: “Thấu hiểu là khả năng
đạt mình ở vị trí của người khác, để thấy thế giới của họ như họ thấy.”[1] Theo Carl Rogers, đây là định nghĩa đầy đủ
nhất về sự thấu hiểu: “Là sự cảm nhận thế giới cá vị của người khác như nó là của
chúng ta mà không bao giờ đánh mất chất lượng của chúng như chúng là… cảm nhận
sự sợ hãi, nóng giận, sự lo lắng của bệnh nhân như chúng là của chúng ta, tuy
nhiên, chúng ta không thêm vào đó cơn giận của chúng ta, sự sợ hãi và cả sự lo
lắng của chúng ta.”[2]
Như thế, thấu cảm là hành vi ra khỏi mình và đặt mình trong “tà áo của
người khác” để nhìn và cảm nhận như họ. Thấu cảm cũng là hành vi tự siêu việt bản
thân. Vì thế, sự thấu cảm quan trọng hơn cả kiến thức lý thuyết và kinh nghiệm
riêng của bản thân.[3]
Vì là một hình thức của
insight (thấu hiểu), sự thấu cảm mang
lại sự thấu hiểu sâu xa về thông điệp sâu thẳm được thông truyền bởi người khác, nó được thực hiện qua khả năng lắng
nghe tích cực và dễ dàng thiết lập những insight
về người khác.
Chúng ta có thể
tóm tắt sự khả năng thấu cảm như sau:
– Là cảm nhận với
người khác như họ là.
– Là cái nhìn mới
về người khác.
– Là sự thấu hiểu
trong việc giải quyết vấn đề.
– Là sự gặp gỡ sống
động: có thể đưa ra một nghĩa cử gần gũi, thân thiện như bắt tay, ôm v.v…
– Là thái độ luôn
tích cực, nhạy bén và cởi mở đón tiếp… hướng về sự thiện.
3.4. Không chỉ thị (non directive)
Như đã nói, đây
là phương pháp “trọng tâm nhân vị,” chứ không tập trung trên nhà đồng hành,
trên sự hiểu biết hay trên vấn đề mà chúng ta muốn giải quyết.
Rogers gọi liệu
pháp của mình là “liệu pháp không hướng dẫn (non-directive therapy). Ông nhấn mạnh
vào tính chất đặc trưng của nhà trị liệu là không hướng dẫn bệnh nhân của mình.
Mục đích trị liệu là tạo ra một bầu không khí cởi mở và không can thiệp. Đây là
phương pháp diễn tả một ý nghĩa kép: trước hết là phương pháp hướng chủ thể tới
một mục đích mà người hướng dẫn muốn; thứ đến là phương pháp để chứng thực một
cách cụ thể sự tin tưởng của nhà đồng hành vào người được đồng thành có những
nguồn năng lực nội tại và về khả năng hướng tiến tới sự thực hiện bản thân.
Chúng ta dẫn chứng
ở đây một minh họa về phương pháp này: Người ta kể rằng có một người phụ nữ rất
buồn khổ, bà đến gõ cửa rất nhiều cha linh hướng và các nhà tâm lý trị liệu để
được giải thoát khỏi tình trạng đau khổ này. Bà được chữa lành một cách nhanh chóng
chỉ nhờ cuộc gặp gỡ với cha Maurice Zundel, một linh mục, một tác giả tu đức Thụy
Sĩ, cũng là bạn thân Đức Giáo Hoàng Phaolô VI. Khi người ta hỏi bà rằng, Cha
Zundel đã khuyên bà lời khuyên nào mà làm cho bà được chữa lành nhanh như thế,
bà trả lời: “Cha không nói một lời nào cả, ngài chỉ đơn giản lắng nghe tôi,
ngài nhìn tôi khóc. Và sau đó, ngài đã khóc với tôi. Chúng tôi đã khóc với nhau
một hồi lâu.” Sự thấu cảm sâu xa với nỗi đau của người khác nhiều lúc không chỉ
an ủi họ mà còn chữa lành những tổn thương bên trong những dòng nước mắt. Sự thấu
cảm càng hiệu quả hơn trong tương quan đồng hành. Nó trở thành hình ảnh của sự
đón tiếp đầy nhân ái mà Chúa Cha trên trời đã dành cho mỗi tội nhân. Đó là dấu
chỉ hữu hiệu về lòng thương xót, hay là bí tích của sự chữa lành mà Thiên Chúa
dành cho tội nhân.
Trong những
phương pháp chỉ thị (directive), sự hướng dẫn đóng một vai trò trực tiếp khuyên
bảo, chỉ dạy, hướng dẫn làm theo ý của mình; ngược lại, trong phương pháp không
chỉ thị, người đồng hành tự giới hạn để hoạt động một cách gián tiếp mà không
đưa ra chỉ thị trực tiếp, không áp đặt theo ý riêng, nhưng gợi ý và giúp người
được đồng hành trở về với chính nguồn lực của mình.
Phương pháp không
chỉ thị là một hình thức can thiệp trong đó mà người hướng dẫn tập trung nơi sự
phát triển của con người, khi giúp họ tự ý thức về chính thế giới cảm xúc của
mình, để suy tư về những phương diện khác nhau của tình trạng được bày tỏ, và
đánh giá ý nghĩa nhân bản, luân lý của chính thái độ của mình, và đi đến quyết
định khi dám chịu trách nhiệm về những quyết định đó. Phương pháp không chỉ thị
hệ tại ở:
– Không ép buộc
người khác.
– Tránh nguy cơ
chọn lọc con người.
– Chống lại mọi nỗi
sợ hãi phải thay đổi.
– Chống lại những
hệ thống đánh giá, hay hệ quy chiếu chủ quan.
– Hiểu biết và thấu
cảm về người khác.
4. Đánh giá về phương pháp này
Đây là một phương
pháp mới mẻ, khác biệt, theo đó, con người được đặt ở trung tâm của việc đồng
hành chứ không đặt người đồng hành hay vấn đề ở trung tâm. Thiết nghĩ, trong
cách thức nào đó, Chúa Giêsu đã thực hành phương pháp này trong khi thi hành sứ
vụ của mình, chẳng hạn trong trường hợp về người phụ nữ ngoại tình bị tố cáo
(Ga 8,3-11), đặc biệt, Chúa Giêsu đã đồng hành với hai môn đệ Emmaus sau khi phục
sinh, Người đã giúp họ khám phá sức mạnh để quay trở lại với ơn gọi của mình
khi khám phá ra nơi mình sức mạnh của niềm tin vào Đấng Phục Sinh.
Phương pháp của
C. Rogers không chỉ hướng tới từng cá thể, mà cả từng nhóm, cả những công ty,
những tổ chức như các trường học. Ngoài ra, nó được khuyến khích dùng cả trong
đào tạo, trong việc linh hướng.
Đối với con người hôm nay không thích thái độ độc tài, áp đặt, duy
luân lý, và gia trưởng, nhưng rất nhạy bén với những giá trị của dân chủ, tự
do, tự lập, và tự đảm nhận trách nhiệm. Phương pháp này có thể rất hữu ích cho
sứ vụ mục vụ của các linh mục khi áp dụng trong việc tư vấn hay hướng dẫn mục vụ
cho dân Chúa. Chúng ta có thể nói như H. Faber rằng: “Tôi được thuyết phục rằng
chỉ với sự đón nhận này về những con người mới có thể mang lại một lời loan báo
xác thực về Lời Chúa và hoạt động mục vụ hiệu quả. Nếu thiếu sự đón nhận này, mục
vụ hóa thành một sự chỉ dạy đơn thuần.”[4]
Trên phương diện
trị liệu tâm lý, phương pháp dựa vào nguồn lực từ chính người được đồng hành.
Trên phương diện tu đức, nhà đồng hành đóng vai trò trợ giúp, chứ không “bao
sân” hết mọi phạm vi, người được đồng hành đóng vai trò chủ động hay chủ lực
trong sự phát triển bản thân, còn có một chỗ dành cho ân sủng. Như thế, ở đây
có sự hòa nhập giữa các yếu tố bên trong, bên ngoài và bên trên.
Trong bối cảnh ở
Việt Năm, văn hóa Khổng Giáo vẫn là văn hóa nền trong nếp nghĩ và lối hành xử của
người Việt ở ngoài đời và trong Đạo. Tính một chiều trên xuống, tính phẩm trật
và lối nghĩ tiêu cực về người dưới vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng trong cách nhìn
và đánh giá của các cá nhân và tổ chức xã hội, tôn giáo. Trong bối cảnh văn hóa
đó, phương pháp này có thể được coi là xa vời, không có đất sống. Đây là một
thách đố mà chúng ta cần có sự can đảm để thay đổi tư duy và lối tiếp cận.
Tóm lại, phương pháp đồng hành “trọng tâm nhân vị” này làm thay đổi viễn tượng truyền thống của chúng ta. Thông thường chúng ta thường tập trung trên người hướng dẫn, hay trên người đồng hành. Đối với người được đồng hành, họ thường có suy nghĩ rằng mọi giải pháp cho mình là ở nơi người hướng dẫn. Chỉ cần đến gõ cửa nhà họ là có ngay. Trong khi lại quên rằng những khả năng ấy lại ẩn chứa ngay trong chính mình. Còn đối với nhà đồng hành, họ lại nghĩ là chỉ có mình mới có thể đưa ra câu trả lời cho những vấn đề của người khác, nên áp đặt một chiều mà không ý thức rằng giải pháp của mình có thể không phù hợp và không mấy hiệu đối với họ. Rogers giúp chúng ta thay đổi lối tiếp cận và phương pháp để mở ra với những khám phá mới nơi chính bản thân, nhất là nơi người được đồng hành hầu khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những điều chưa ai đụng tới.
__________
[1] C. R. Rogers, – Marian Kinget, Psychothérapie
et relations humaines: théorie et pratique de la thérapie non-directive, Publications
Universitaires, Louvain 1962-1965, p. 92.
[2] Cf. A. Di Fabio, Counseling. Dalla teoria all’applicazione,
Giunti, Firenze 1999, pp. 130-131.
[3] Cf. Ibidem.
[4] H. Faber – E Van Der Schoot, Praktikum, … p. 90, citato da
Giordani – A. Mercatali, La
direzione spirituale come incontro di aiuto, op. cit., p. 175.
Sách tham khảo:
– Di Fabio
A., Counseling. Dalla teoria
all’applicazione, Giunti, Firenze 1999.
– Giordani B. –Mercatali A., La direzione
spirituale come incontro di aiuto, Antonianum, Roma 1984.
– Giordani B., Il colloquio psicologico nella direzione
spirituale, Brescia, Roma 1992.
– Rogers C. R. –Russell D. E., Carl
Rogers: un rivoluzionario silenzioso. Lo psicoterapeuta centrato sulla persona
che rivoluzionò la psicologia, Edizioni la Meridiana, Molfetta 2002.
– Rogers C. R., La terapia centrata sul
cliente, Martinelli, Firenze 1970.
– Rogers C. R., Psicoterapia di
consultazione: nuove idee nella pratica clinica e sociale, Astrolabio,
Roma, 1971.
– Rogers C. R., On becoming a person: a therapist’s view of
psychotherapy, Houghton Mifflin, Boston 1961.
– Rogers C. R., Client-centered therapy: its current
practice, implications, and theory, Houghton Mifflin, Boston 1951.
– Rogers C. R., – Marian Kinget
G., Psychothérapie et relations
humaines: théorie et pratique de la thérapie non-directive, Publications
Universitaires, Louvain 1962-1965.
Nguồn: giaophanhatinh.org