Parakletos, Thần Khí sự
thật
A. NGUỔN GỐC VÀ Ý NGHĨA TỪ
NGỮ: PARAKLÊTOS
- THẦN KHÍ SỰ THẬT
Trong Tân Ước và kể cả toàn
bộ Kinh Thánh, chỉ có năm lần từ ngữ “Paraklêtos” được gợi ra, và Thánh
Gioan là tác giả duy nhất đã sử dụng từ ngữ này (Ga 14, 16. 26 ; 15, 26 ; 16,
7. 13 ; 1Ga 2, 1). Thường người ta vẫn hiểu Paraklêtos
là tên riêng chỉ Thánh Thần, nhưng đúng hơn đây là hoạt động của Thánh Thần: an
ủi, phù trợ, bảo trợ, tôn sư, hướng đạo.
Các bản dịch Kinh Thánh dịch
từ ngữ này rất khác nhau: “Đấng Bầu Chữa” (cha Nguyễn Thế Thuấn) ; “Đấng Bảo
Trợ” (Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ) ; “Đấng Phù Trợ” (bản văn trong
các bài đọc) ; bản văn tiếng Latinh thì gọi là “Paraclitus” ; các bản văn khác
thường dùng lại tiếng “Paraclitus, Paraclet, Advocate, Counselor ...”. Có lẽ
đúng nhất là giữ nguyên từ “Paraklêtos”, rồi tùy chỗ, tùy văn mạch mà
hiểu là Đấng Bảo Trợ, Đấng Bầu chữa, Vị Tôn Sư hay Người Hướng Dẫn... Thánh
Thần được ban để, đối với những người yếu đuối thì Ngài là Đấng Bảo Trợ; đối
với người cần thông hiểu thì Ngài là Vị Tôn Sư; đối với người bối rối thì luôn
được Ngài bảo vệ và bênh đỡ; đối với Vai trò hay hoạt động của Chúa Thánh Thần
rất đa diện. Chính vì lẽ đó mà Thánh Gioan sử dụng từ ngữ rất chuyên môn là “Paraklêtos”.
Nghiên cứu nguồn gốc từ ngữ,
tìm hiểu hoạt động của Đấng là Paraklêtos
và đặt trong bối cảnh mạch văn của bài diễn từ cáo biệt, là bối cảnh mà Chúa
Giêsu đã nói về Đấng Paraklêtos,
chúng ta sẽ hiểu tại sao Chúa Giêsu không gọi đích danh là Chúa Thánh Thần mà
lại chỉ nói về Thần Khí Sự Thật, hoặc có khi nói đến Thánh Thần trong chức năng
của Người là Paraklêtos.
Bản văn thứ nhất (Ga 14,16): Chúa
Giêsu nói với các môn đệ: “Ta sẽ xin (sẽ khẩn nài) với Cha, và Người sẽ ban
cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos), để Ngài ở với các con luôn
mãi”. Nói đến một Đấng Bầu Chữa khác, có nghĩa là đã có một Đấng Bầu Chữa
rồi.
Bản văn thứ hai (14,26): “Đấng
Bầu Chữa khác (Paraklêtos), Thánh Thần Cha sẽ sai đến nhân danh Ta, chính Ngài
sẽ dạy các ngươi mọi sự, và sẽ nhắc cho các ngươi nhớ lại mọi điều Ta nói với
các ngươi”.
Bản văn thứ ba (15, 26): “Khi
Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos) đến, Đấng Ta sẽ gửi đến từ nơi Cha, Thần Khí Sự
Thật, từ Cha xuất ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta”.
Bản văn thứ tư (16, 7-8): “........
vì nếu Ta không ra đi, thì Đấng Bầu Chữa khác (Paraklêtos) không đến với các
ngươi ; còn nếu Ta đi, Ta sẽ sai Ngài đến với các ngươi. Và Ngài đến, Ngài sẽ
bắt lỗi thế gian về tội, về sự công chính, về án xử”.
Bản văn thứ năm (Ga 16, 13): “Song
khi nào Ngài (Paraklêtos) đến, vì là Thần Khí Sự Thật, Ngài sẽ đưa các ngươi
vào tất cả sự thật”. Bản văn không nêu đích danh Paraklêtos , nhưng sử dụng đại danh từ Ekeinos (= Ngài).
Như thế trong Tin Mừng Gioan
có bốn chỗ nêu đích danh Paraklêtos,
và chỗ thứ năm dành một đại danh từ (Ekeinos)
với nghĩa là Paraklêtos. Ở 4 đoạn
trước, với những hoạt động rõ ràng, chúng ta thấy Chúa Giêsu xác định Thánh
Thần là Paraklêtos ; nơi đoạn thứ
năm, khi đi vào mầu nhiệm hiệp thông giữa Cha - Con - Thánh Thần, thì Đấng đó
được ám chỉ (Ngài = Ekeinos) chứ
không còn được nêu danh; Ngài ẩn sâu như
thể kéo chúng ta vào trong huyền nhiệm. Có thể nói, có một điều gì đó chúng
ta như chạm tới, nhưng không cách nào nắm được, khôn phương đạt đáo. Đây là
đỉnh cao hoạt động của Thánh Thần, Ngài sẽ đưa chúng ta đến chỗ am tường mọi
điều về sự thật, tức là mạc khải của Thiên Chúa, để chúng ta hiểu Chúa Con là
ai, Chúa Cha là ai. Vai trò của Paraklêtos
ở đây là đưa chúng ta đi sâu vào huyền nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trong 1Ga 2, 1: “Nếu ai
(trong chúng ta) trót phạm tội, (thì này), ta có Đấng Bầu Chữa
(Paraklêtos) nơi Cha, Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính”, tác giả Gioan xác
định Paraklêtos là Đức Giêsu Kitô
trong tư cách là Đấng Công Chính.
Như thế Paraklêtos không phải là tên riêng của Chúa Thánh Thần cho bằng nói
lên chức năng hoạt động của một Đấng mà Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Giêsu
và Chúa Giêsu đã khẩn nài Chúa Cha ban cho các môn đệ. Đàng khác Paraklêtos cũng là Đấng mà Chúa Giêsu
sai đến với chúng ta.
Theo cha Raymond E. Brown PSS:
“Đấng Paraklêtos là Đấng tiếp nối sự
nghiệp của Vị tiền nhiệm, ở đây Thánh Thần tiếp nối sự nghiệp của Đức Giêsu
tương tự như Giôsua tiếp nối sự nghiệp của Môsê. Vì thế, Paraklêtos là Đấng “Alter-ego” của Đức Giêsu. Ngài
hiện diện thay cho Đức Giêsu khi Người vắng mặt”. Ta có thể thấy Đấng Paraklêtos luôn luôn có mặt, nhưng chỉ
phát huy quyền của Ngài khi Đức Giêsu vắng mặt. Hệ luận của việc gọi Thánh Thần
là Alter-ego của Đức Giêsu cho thấy Ngài luôn luôn làm theo ý Đức Giêsu,
giúp cho người ta yêu mến Đức Giêsu, đến với Đức Giêsu và chính Ngài làm mọi sự
nhân danh Đức Giêsu. Thánh Thần không là cái bóng của Đức Giêsu, nhưng là Đấng
toàn quyền và đặc biệt phát huy quyền mình khi Đức Giêsu vắng mặt (Cần lưu ý,
đây chỉ là cách giải thích mà các nhà chuyên môn giúp chúng ta hiểu, chứ chưa
phải là tiếng nói của giáo quyền).
Theo nguyên tự, Paraklêtos
là một từ Hy Lạp do tiếng Para-klêtos bởi động từ là parakalein
, có nghĩa là gọi đến gần bên, gọi ai đến gần, xin điều gì, khẩn nài, khuyến
dụ-an ủi. Dịch sang tiếng Latinh thường là Advocatus có nghĩa là Vị
Trạng Sư, Đấng Bầu Chữa, Đấng Biện Hộ, Đấng Bảo Vệ, Đấng An ủi, Vị Cố Vấn...
Trở lại với nguồn gốc từ ngữ Paraklêtos, một trong những tác giả thời
Tân Ước, ông Philon (thế kỷ II) đã sử dụng từ ngữ paraklêtos như là vị trạng sư hay người bầu chữa trong khung cảnh
toà án, thuần về nghĩa pháp đình. Trong một vụ kiện liên quan đến nhân vật tên
là Caius, Philon đã nêu ra ý kiến là cần đến một paraklêtos, nghĩa là một vị trạng sư để giúp cho Caius được thuận
lợi hơn. Trong một phiên toà, nếu có được vị trạng sư giỏi thì không những giúp
cho bị cáo được vững vàng mà có khi còn đem lại trắng án. Với chứng từ của
Philon, Paraklêtos là từ ngữ chuyên môn của lãnh vực pháp đình.
Bản LXX dịch Cựu Ước, không
thấy có từ paraklêtos ; chỉ có từ paraklêtores
trong Is 40, 1 với nghĩa là an ủi: “Hãy an ủi, an ủi dân Ta”.
Trong môi trường Dothái-giáo,
đặc biệt nơi giới Rabbi, lại cũng không dịch chữ paraklêtos: họ đọc trại ra tiếng Dothái thành praqlit, praqlita
nghĩa là giữ nguyên các phụ âm của paraklêtos
(prqlt) để xử dụng trong các nguyên tự Do thái với nghĩa là trạng sư (khác
với người cáo tội).
Rabbi Ben Jacop (khoảng 150)
viết: “Ai tuân giữ giới răn cách hoàn hảo thì có được một Đấng praqlit” nghĩa là ai giữ luật thì tự
người đó sẽ có một đấng bầu chữa cho mình, còn ai lỗi luật thì phải đối diện
với vị buộc tội và đấng đó không phải là paraklêtos.
Hành vi sám hối, bác ái và đền tội là khiên thuẫn chống lại hình phạt.
Bước sang lãnh vực tôn giáo,
Philon cho chúng ta những chứng cớ sống động trong tác phẩm “De exsecrationibus”. Tác giả cho thấy
mình có ba đấng Paraklêtos xuất hiện
trước Chúa Cha: - lòng nhân hậu của Chúa Cha ; - sự thánh thiện của các tổ phụ
; - việc tu thân tích đức của mỗi người.
Tiến sang lãnh vực cử hành
phụng tự, theo luật Do thái-giáo, mỗi ngày người ta sát tế hai con chiên ở đền
thờ và hai con chiên này cũng được gọi là paraklêtos
với nghĩa là đền tội.
Như thế trên bình diện từ
ngữ, hai ý nghĩa căn bản của Paraklêtos:
trạng sư và chuyển cầu (x. câu chuyện của Abraham trong St 18,
16t). Ngoài ra, trong 1Ga 2,1 Đức Giêsu được gọi là Đấng Paraklêtos do việc Người đổ máu ra làm Đấng xá tội; nên Paraklêtos có nghĩa thứ ba là Đấng
xoá tội con người.
Như vậy, Paraklêtos trong Phúc âm Thánh Gioan là một từ ngữ chuyên môn của
riêng Tin Mừng thứ tư hàm chứa nhiều ý nghĩa phong phú, không vay mượn từ bất
cứ nguồn nào (các giáo phụ vẫn gọi tác phẩm của Gioan là do Chúa Thánh Thần
viết bằng ngòi bút của Gioan).
B. ĐẤNG PARAKLÊTOS VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA NGÀI
Trong văn bản Do thái, hoạt
động của Đấng Paraklêtos (dịch từ
tiếng Do thái nikhan) có nghĩa là an ủi, khi đối chiếu hoạt động của
Chúa Thánh Thần trong vai trò Paraklêtos
với các bản văn của Isaia đệ nhị. Nơi các bản văn này, Paraklêtos có nghĩa là an ủi, xoa dịu, làm nhẹ nhàng, nâng đỡ. Đàng
khác, Is (43, 10 và 12) nêu ra vụ kiện giữa Thiên Chúa chống lại các ngẫu thần,
trong đó nhà Tiên Tri giới thiệu
Như vậy, hành vi chuyên biệt
của Đấng Paraklêtos trước hết là an
ủi, thúc đẩy Dân Chúa can đảm, tin tưởng để vượt qua những khó khăn, thử thách,
chướng ngại và sau nữa là biện hộ, làm chứng, chỉ dạy...
Ngài là Đấng Paraklêtos vì Ngài là Chứng Nhân đồng
thời là Thầy Dạy trong vụ kiện giữa Đức Giêsu với thế gian. Ngài là Thần Khí Sự
Thật (Ga 14, 17 ; 15, 26 ; 16, 13). Các giáo phụ đã chuyển dịch từ ngữ Paraklêtos thành những hoạt động của Vị
Trạng Sư (Advocatus, Tertullien) ; Đấng An ủi (Consolator, Hilario) hay theo cả
hai nghĩa (Advocatus-Consolator, Augustinô), vài bản dịch Latinh cổ thêm từ ngữ:
Paraclitus.
C. MẠCH VĂN DIỄN TỪ CÁO BIỆT
(Ga 14-16)
Khi đọc lại trong mạch văn
diễn từ cáo biệt, chúng ta sẽ thấy điều này: rõ ràng Thánh Gioan đặt một bên là
Chúa Giêsu cùng với các môn đệ và bên kia là thế gian. Khung cảnh là Nhà Tiệc
Ly sau khi Giuđa ra đi. Lúc ấy Chúa Giêsu mới nói diễn từ cáo biệt. Như vậy
diễn từ cáo biệt là lời của Vị Thầy dành riêng cho các môn sinh của mình, từ
thế hệ này đến thế hệ khác, khi Ngài nhìn về tương lai (và cũng là tương lai
rất xa) mà trong đó vai trò chủ đạo đối với các môn đệ, với tất cả Hội Thánh,
chính là Paraklêtos... Vai trò của
Chúa Thánh Thần quan trọng đến độ không thể thay thế được đối với Hội Thánh sau
khi Chúa Giêsu được tôn vinh cho tới lúc Ngài trở lại. Đặt trong mạch văn diễn
từ cáo biệt, chúng ta hiểu rõ hơn chỗ đứng và vai trò của Chúa Thánh Thần mà
Thánh Gioan gọi là Paraklêtos.
Trong diễn từ cáo biệt, điều
quan trọng là vấn đề kế vị đồng thời là viễn tượng tương lai của dòng tộc, của
môn phái... Tương tự như Môsê trong các chương cuối sách Thứ Luật, trong đó
diễn từ thứ nhất ôn lại lịch sử của Dân Chúa, diễn từ thứ hai vừa ôn lại lịch
sử vừa nói đến tương lai của toàn dân khi tiến vào Hứa Địa. Môsê nhấn mạnh đến
sự trung thành của Thiên Chúa và nhắc nhở dân trung thành với Giao Ước và
truyền thống của cha ông. Chúng ta cũng tìm thấy trong văn chương Do thái-giáo
rất nhiều loại diễn từ cáo biệt (có thể đây là điểm đặc biệt của dân tộc Do thái
vì họ tựa vào sự trường tồn của hậu duệ các tổ phụ), như “Sách về các ngày lễ”
hay “Lời trối của 12 tổ phụ”... (x. St 49 về diễn từ của Giacóp).
Điểm khác biệt giữa diễn từ
Do thái-giáo và diễn từ cáo biệt trong Tin Mừng Gioan là: Các diễn từ Do thái-giáo
quy về Lề Luật (Torah), còn diễn từ cáo biệt trong Gioan 14-16 quy về Đức
Giêsu.
Trong diễn từ của Đức Giêsu có xen lẫn lời loan báo sự trở lại của Ngài và việc ban Đấng Paraklêtos. Vậy Đức Giêsu hoạt động nhờ Đấng Paraklêtos như thế nào?
Ðấng Paraklêtos
|
|
Ðức Giêsu
|
Ga 14, 16
|
Do
Chúa Cha ban
|
Ga
3, 16
|
14, 16t t
|
ở
với, ở bên các môn đệ |
13,
16 |
14, 17
|
thế
gian không nhận, không biết |
1,
11 ; 5, 43 |
14, 16
|
do
Chúa Cha sai đến
|
5
; 7 ; 8 ; 12
|
14, 26
|
giảng
dạy
|
7,
14 ; 8, 20 ; 18, 18
|
15, 26
|
làm
chứng
|
5,
31 ; 8, 13 ; 18, 37
|
16, 8
|
bắt
lỗi thế gian
|
3,
19 ; 9, 41 ; 15, 22
|
16, 13
|
không
tự mình nói |
7,
17 ; 8, 26 ...
|
16, 13
|
loan
báo điều sẽ đến
|
4,
25
|
16, 13
|
đưa
vào tất cả sự thật
|
1,
17 ; 14, 6 ; 18, 37
|
Như thế, hoạt động của Đấng Paraklêtos rất đa dạng và tự do, cốt để
hiệp thông các môn đệ với Chúa Giêsu và Chúa Cha. [Chúa Giêsu được Chúa Cha sai
đến (apostelein), Ngài sống vâng phục và khiêm hạ ; còn Thánh Thần được trao
gửi (pempein), Ngài đưa vào hiệp thông].
Qua
diễn từ cáo biệt, trong bối cảnh Giuđa đã rời Nhà Tiệc Ly, Chúa Giêsu như thể
nói với các môn đệ về tương lai Hội Thánh sau này. Có ba lần Ngài nhắc đến việc
Ngài sẽ ra đi (13, 23 ; 14, 19 ; 16, 16), rồi bầu khí đầy ưu tư xao xuyến của
các môn đệ vì họ sẽ phải đối diện với quyền lực thế gian, cùng với hình ảnh cây
nho và cành nho trong Ga 15, càng làm cho các môn đệ thấy viễn ảnh một số trong
họ sẽ tách lìa với thân cây... Nhưng nếu được lãnh nhận Đấng Paraklêtos thì họ sẽ có được bình an, và
hơn thế nữa, còn được chính Thiên Chúa ngự trong tâm hồn mình. ■