Niềm vui đời linh mục

Chứng từ của Đức Hồng y Walter Kasper

50 năm về trước, tôi không hề có ý nghĩ rằng vào cuối đời, mình sẽ được bổ nhiệm làm việc tại Rôma. Lúc ấy, tôi chỉ đơn giản ước mong làm cha sở. Ý tưởng này được khơi dậy từ rất sớm trong bầu khí tôn giáo của gia đình và nền giáo dục tôi lãnh nhận. Cụ thể là những giờ cầu nguyện chung trong gia đình. Tôi còn nhớ rất rõ trong giờ cầu nguyện, tôi ngồi trên ghế cây đàn phong cầm, ngay sát cha tôi vốn là ca trưởng của nhà thờ. Khi chính quyền Đức quốc xã không cho dạy tôn giáo ở nhà trường nữa, và cha tôi phải gia nhập quân ngũ như bao người khác, thì chính mẹ tôi dùng những cuốn sách giáo lý của cha tôi để dạy đạo cho chúng tôi. Chính từ đó mà chúng tôi có lập trường chống lại chủ nghĩa quốc xã. Chúng tôi hãnh diện vì Đức giám mục của chúng tôi, Đức cha Gioan Baotixita Sproll, đã có lập trường dứt khoát chống lại chủ nghĩa quốc xã. Đối với chúng tôi, ngài là “vị giám mục trung thành”. Tinh thần phản kháng nhân danh đức tin đó càng nung nấu nơi tôi ước nguyện làm linh mục.

Cuối cùng, chính giai đoạn học trung học là giai đoạn quyết định. Sự gặp gỡ với một vài linh mục trẻ nổi bật đã ghi đậm dấu ấn nơi tôi và tôi luôn biết ơn các ngài. Từ rất sớm, các ngài đã dẫn tôi vào cuộc canh tân phụng vụ và phong trào Thánh Kinh. Tôi chỉ muốn nhắc đến ở đây hai vị: cha Franz Lenz cũng là giám mục phó tương lai của giáo phận Rottenburg, và cha Anton Herre mà tôi coi như người thầy và người bạn cả khi tôi đã làm giám mục.

Hoàn cảnh những năm sau chiến tranh rất khác với hoàn cảnh ngày nay. Sau thời kỳ Đức quốc xã và sau sự sụp đổ năm 1945, đời sống Giáo Hội được cởi mở trong một thời gian. Phong trào Thánh Kinh, phong trào phụng vụ và những bước đầu của phong trào đại kết đã đặt nền tảng cho những gì sẽ diễn ra sau Công đồng Vaticanô II. Thế nhưng vào cuối thập niên 1950, khi tôi làm linh mục phụ tá ở Stuggart, đã bắt đầu có những thất bại và khủng hoảng trong công ăn việc làm của giới trẻ. Cho nên những đảo lộn đã diễn ra từ trước Công Đồng, khác với điều mà nhiều người lầm tưởng.

Là những linh mục trẻ, chúng tôi đã sống tinh thần Công Đồng Vaticanô II như lễ Hiện Xuống mới. Bên cạnh những hiện tượng khủng hoảng đã thấy từ trước, thời kỳ diễn ra Công Đồng và thời kỳ ngay sau Công Đồng đã mang lại cuộc canh tân Thánh Kinh, phụng vụ và mục vụ, ghi đậm dấu ấn trên chúng tôi mãi đến ngày nay. Tiếp đó đã diễn ra cuộc cách mạng văn hoá năm 1968 và những năm đầu thập niên 70. Cùng với làn sóng tục hoá, những năm này đã dẫn đến giai đoạn căng thẳng và phản kháng trong Giáo Hội. Khác với những gì người ta nhiệt tình mong đợi sau Công Đồng, nhiều điều không tốt đẹp đã diễn ra trong Giáo Hội: giảm sút về thực hành phụng vụ, về số người được rửa tội, chịu phép hôn phối, xưng tội, số ứng viên xin vào chủng viện và dòng tu. Nhiều linh mục và tu sĩ dứt áo ra đi, đúng là một cuộc “xuất huyết”.

Trong những năm khó khăn này, sự tin tưởng của hai vị giám mục trong giáo phận đã nâng đỡ tôi: Đức cha Carl Joseph Leiprecht là vị đã phong chức linh mục cho tôi năm 1957 ở Rottenburg, và sau đó là Đức cha Georg Moser, vị tiền nhiệm của tôi trong chức giám mục. Tôi đặc biệt biết ơn Đức Hồng y Josef Hoffner mà tôi được gặp khi làm việc ở Münster, Đức Hồng y Hermann Volk và Đức Hồng y Julius Dopfner. Trong Công đồng Vaticanô II và trong những năm khó khăn sau Công Đồng, ba vị hồng y này là những khuôn mặt nổi bật, mang lại cho tôi sự trợ giúp và những định hướng.

Quan trọng đặc biệt đối với tôi, nhất là trong giai đoạn học trung học, là tình bạn với các bạn cùng lớp và với Josef Schupp, sau này đi tu dòng và không may chết sớm. Chúng tôi có thể nói với nhau về tất cả những gì mình quan tâm trong vô vàn những lần đi dạo ở Tübingen hoặc miền quê Allgau.

Chúc tụng Chúa vì ngay trong giai đoạn này đã có những dấu chỉ chứa chan hi vọng về những đà lực thiêng liêng mới trong các cộng đoàn, các dòng tu và các phong trào thiêng liêng. Vấn đề về Thiên Chúa, về những nền tảng và những giá trị thiết yếu của đời sống đã được đặt lại cách mới mẻ. Người ta có thể tranh luận về những đề tài tôn giáo trong xã hội. Nhiều vấn đề nêu trên, vốn được coi là những vấn đề tâm linh, có vẻ được trình bày cách mơ hồ hoặc lẫn lộn, vì thế như Romano Guardini nói, cần có sự phân định thiêng liêng. Thế nhưng người ta hi vọng rằng lời tiên báo của Đức Gioan XXIII về lễ Hiện Xuống mới sẽ được thực hiện, và từ những dấu chỉ còn chưa rõ nét, mùa gặt phong phú của một mùa xuân mới sẽ diễn ra.

Đối với tôi, những năm này là thời gian dành cho học thuật kéo dài 30 năm, và khi nhớ lại, tôi vừa vui vừa đầy lòng biết ơn. Quả là thời kỳ rất sống động và giầu chất thiêng liêng. Tại Münster, tôi có những đồng nghiệp là những giáo sư trẻ tuổi như Karl Rahner, Joseph Ratzinger và Jean-Baptiste Metz; ở Tubingen là Alfons Auer, Hans Küng và Max Seckler. Chúng tôi còn có mối liên hệ và sự đối thoại thân tình và phong phú với các đồng nghiệp Tin Lành : Jürgen Moltmann và Eberhard Jüngel. Trong nhiều buổi chiều, chúng tôi trao đổi với nhau những đề tài về Thiên Chúa và về thế giới.

Rõ ràng là những khác biệt giữa hai phân khoa thần học đã hình thành khá nhanh, và có những thời điểm hai bên có những lập trường cực đoan, dẫn đến xung đột. Bầu khí trở nên căng thẳng và khó khăn hơn. Tuy nhiên, tôi vẫn cho rằng đó là những cuộc đối thoại tuy nặng tính phê phán nhưng đầy nhiệt huyết với các sinh viên, và là điều thiếu vắng sau này. Trong thời kỳ này, những câu hỏi về đào tạo linh mục đã khiến tôi phải suy nghĩ thường xuyên hơn và sâu sắc hơn về tác vụ linh mục. Linh mục phải là nhà thần học theo nghĩa căn cơ của ngôn từ, nghĩa là người phải nói về Thiên Chúa và về sự sống chúng ta có nơi Thiên Chúa. Tôi vẫn luôn hiểu đời sống thần học gia của mình như thành phần thiết yếu của đời sống linh mục. Đối với tôi, việc giảng dạy luôn là cách chứng nghiệm về thần học.

Trong những cuốn sách của tôi được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng: Dẫn vào đức tin (1972), Đức Giêsu Kitô (1974), Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô (1982), tôi đã cố gắng góp phần vào việc định hướng và đào sâu những vấn đề thiết yếu và nền tảng của đức tin. Trong năm, công việc nghiên cứu cũng đều đặn gắn với những hoạt động mục vụ tại giáo xứ, hoặc cho các sinh viên và tại các bệnh viện. Tôi đã có được nhiều kinh nghiệm mục vụ qua những cử hành và những cuộc thăm viếng trong các bệnh viện ở Tübingen.

Thêm vào đó là những kinh nghiệm ở nước ngoài, đặc biệt là thời gian một học kỳ tại Mỹ, những ngày lưu lại ở Rôma và Giêrusalem trong tư cách giáo sư thỉnh giảng, chuyến đi đầu tiên sang Phi châu và Á châu, những hội nghị và những cuộc gặp gỡ thân tình với các anh em ở Berlin và một vài nước Đông Âu, nhất là Ba Lan và Tiệp Khắc. Lúc đó, tôi thấy rõ là hoàn cảnh của Giáo Hội phương Tây, nơi Giáo Hội được làm việc trong bình an và tự do với những phương tiện tài chính đầy đủ, hoàn cảnh đó không phải là hoàn cảnh tự nhiên và bình thường của Giáo Hội.

Sau năm 1989, năm mà bức tường Bá Linh sụp đổ, tôi đã sống 10 năm với kinh nghiệm mục vụ phong phú trong nhiệm vụ giám mục của một giáo phận lớn, rất đa dạng về mặt xã hội cũng như tôn giáo, rất năng động nhưng cũng nhiều vấn đề. Cần có những thay đổi và những định hướng mới cần thiết trong mục vụ, cần có những câu trả lời được suy nghĩ chín chắn và can thiệp đúng thời điểm. Trong thời gian này, tôi đã có nhiều cuộc thảo luận với các linh mục, với những linh mục cảm thấy vững tin và hạnh phúc vì làm linh mục, cũng như với những anh em sẵn sàng rời bỏ đời sống linh mục. Tôi vẫn giữ kỷ niệm sống động về một số những cuộc thảo luận này, những cuộc thảo luận làm phong phú thêm kinh nghiệm của tôi về linh mục. Tôi vui mừng nhớ lại những cuộc viếng thăm mục vụ mỗi Chúa nhật cũng như những lần phong chức phó tế và linh mục, với sự tham gia thật ấn tượng của Dân Chúa. Những chuyến viếng thăm mục vụ và những lần phong chức cho tôi thấy rõ là Dân Chúa cần đến các linh mục, Dân Chúa muốn có các linh mục, cầu nguyện cho các linh mục và vui mừng khi có linh mục.

Tôi cũng tràn ngập lòng biết ơn khi nhớ đến tinh thần làm việc tập thể trong giáo tỉnh của chúng tôi, với Đức Tổng giám mục Oscar Saier và Đức cha Karl Lehmann. Chúng tôi có thể trao đổi với nhau những kinh nghiệm mục vụ, tốt cũng như chưa tốt, cách thẳng thắn và tin tưởng lẫn nhau, cùng nhau bàn về những vấn đề của Giáo Hội và vác đỡ gánh nặng cho nhau. Đó là cách diễn tả đích thực tính hiệp đoàn (collégialité) mà Công Đồng mong muốn.

Trong thời gian làm giám mục, tôi cũng có những chuyến đi đến các nước mà người ta gọi là thuộc thế giới thứ ba. Những chuyến đi này giúp tôi hiểu biết tình hình mục vụ tại các nước ngoài Âu châu, chủ yếu là tình trạng nghèo đói và cùng khổ. Những chuyến đi đó đã gây ấn tượng thật sâu đậm nơi tôi, và khi trở về, tôi thấy mình thay đổi. Từ đó, tôi cho rằng Âu châu vẫn giữ vị trí quan trọng trong Giáo Hội toàn cầu, nhưng chúng ta không nên xem những vấn đề và quan điểm của chúng ta là thước đo duy nhất. Trong châu Âu già cỗi của chúng ta, ta có thể tiếp nhận những Giáo Hội trẻ không chỉ như một Giáo Hội còn mới mẻ nhưng như sự tín thác mới trong đức tin. Từ đó, tôi cho rằng cuộc đối thoại và trao đổi giữa các nền văn hoá có tầm quan trọng nền tảng.

Tám năm sau này là phần đời hoàn toàn bất ngờ đối với tôi. Qua những cuộc gặp gỡ thân tình với các giám mục, các nhà thần học, các vị chủ chăn trong các cộng đoàn giáo hội khác, những năm làm việc tại Kinh thành muôn thuở của Giáo Hội đã mang lại cho tôi những kinh nghiệm ở tầm vóc toàn cầu, từ phương Đông cũng như phương Tây và từ mọi nơi trên thế giới. Chúng ta có thể thấy được ở đây hoạt động của Thánh Thần và sự hướng dẫn của Ngài để vươn tới sự hiệp nhất. Cách riêng, với lòng biết ơn, tôi muốn nói đến kinh nghiệm hầu như hằng ngày, kinh nghiệm phong phú và vui tươi về Giáo Hội phổ quát được thể hiện trong những khuôn mặt nhiều mầu sắc và sự hiệp nhất chung quanh Đấng kế vị thánh Phêrô. Trong những năm vừa qua, tôi đã gặp biết bao nhiêu giám mục, linh mục, giáo dân, sinh viên, các nhà thần học, các đại sứ, các phóng viên trên toàn thế giới. Đặc biệt, tôi muốn nhắc đến những cuộc gặp gỡ đều đặn với hai vị giáo hoàng nối tiếp nhau, và những cuộc thảo luận với các ngài về những vấn đề đại kết là vấn đề được tất cả Giáo Hội quan tâm.

Đối với tôi, 50 năm linh mục đã qua là cơ hội để dâng lời tạ ơn và nhìn tới tương lai với chứa chan hi vọng. Không thể chối cãi rằng Giáo Hội có những vấn đề và trong nhiều đất nước, Giáo Hội đang đi xuống. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng, như Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nói trong diễn văn mở đầu triều đại của ngài, Giáo Hội đang sống, trẻ trung, năng động và đầy sinh lực. Đó cũng là kinh nghiệm của tôi sau 50 năm làm linh mục.


Trích dịch “Serviteur de la joie : la vie de prêtre et le service sacerdotal”