TIN VUI VỀ VĂN HỌC CÔNG GIÁO
NHÂN TÌM ĐƯỢC 21 CHƯƠNG ĐẦU LẬP QUỐC KINH
CÙNG TÌM KIẾM TOÀN BỘ TÁC PHẨM SẤM TRUYỀN
CA
Lm. Trăng Thập Tự
Quy Nhơn, 03-12-2022
Lời thưa
SẤM TRUYỀN CA là bộ sách diễn thơ lục bát năm quyển đầu của Kinh Thánh
Cựu Ước, do linh mục Lữ Y Đoan (1613-1678) thực hiện trước năm 1670, cách nay
350 năm hơn. Sách viết bằng chữ Nôm và năm 1820 được chuyển sang chữ quốc ngữ.
Sách hay cả về văn chương, tư tưởng và đạo lý, đồng thời rất đáng giá về mặt
văn học vì ra đời trước truyện Kiều của cụ Nguyễn Du đến 150 năm. Tiếc là suốt 350 năm đầu sách chưa hề được
in, chỉ được chép tay truyền lại giữa tình cảnh bị bách hại, dễ bị mai một. Hầu
như 2/3 bộ sách đã biến mất đến độ hiện nay ta chưa biết ba quyển sau (Lêvi,
Dân số và Đệ nhị luật) được gọi tên thế nào. Ta chỉ còn giữ được quyển đầu,
Sáng thế ký, với tên gọi là Tạo Đoan Kinh với đủ 50 chương. Quyển thứ hai, Xuất
hành, được dịch là Lập quốc kinh, chỉ còn 21 chương, vừa tìm lại được đúng vào
chiều vọng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, 23-11-2022 vừa qua.
Trong niềm vui tìm lại được 21 chương Lập quốc kinh, mời quý độc giả đọc
bài chia sẻ dưới đây cùng mấy bài đi kèm và quan tâm góp phần tìm kiếm toàn bộ
5 phần bản thảo của bộ Sấm truyền ca quý hiếm. Theo cái nhìn bình thường thì hầu
như không sao còn tìm được, nhưng có lời Chúa Giêsu đã hứa: “Anh em cứ xin thì
sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận
được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7,7-8).
Hình như, trong lời bầu cử của Các Thánh Tử Đạo Tại Việt Nam, Thiên Chúa đang chờ chúng ta xin, tìm và gõ cửa để ban tặng cho chúng ta món quà đầy ý nghĩa cho công cuộc loan báo Tin mừng trên quê hương yêu dấu. Xin mến chúc mọi người và mọi gia đình luôn an vui hạnh phúc trong Chúa.
Tôi biết đến tựa đề quyển Sấm truyền ca của Lm. Lữ Y Đoan
(1613-1678) vào khoảng năm 1993, khi cụ Hoàng Xuân Việt và một vài vị khác lên
Đà Lạt trình bày cuộc phát hiện tác phẩm này với Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn
Lâm. Lúc ấy tôi đang ngụ ở Dòng Don Bosco. Tôi rất thích khi một người bạn kể lại
cách diễn ý tên nguyên tổ A-đam thành A-dang, tức A-dương nghĩa là nhảy vào ánh
sáng, tên tháp Ba-bel được diễn dịch là Hỗn Lầu. Đọc mấy tờ photocopy anh ấy
trao, tôi cứ tự hỏi lẽ nào lục bát của thế kỷ XVII lại trong sáng với những từ
mới mẻ và rõ nghĩa đến vậy? Thế nhưng tôi cũng chẳng có lý do gì để nghi ngờ
tính lịch sử của bản văn. Tôi thấy tiếc vì không được đọc toàn văn và lúc ấy
cũng không hề nghĩ sẽ có ngày tập thơ được in ra. Mãi đến giữa năm 2020, khi lục
tìm trên mạng Internet những bài viết về văn học Công giáo Việt Nam, tôi mới biết
tác phẩm đã được ấn hành tại Canada, năm 2000.
8. DỰ KIẾN ÂN BẢN SẤM
TRUYỀN CA NHẤT LÃM |
1. TIẾNG VIỆT THUẦN VIỆT
Sự kinh ngạc của tôi được Giáo sư
Antôn Nguyễn Văn Trung giải đáp trong một tiểu luận chưa in, tựa đề “Đọc Sấm truyền ca của Lữ Y Đoan”. Ở đoạn
“Hình thức diễn tả và nội dung”, ông viết:
“Có thể Lữ Y
Đoan không thắc mắc gì về những khó khăn liên quan đến việc dịch vì ông đã tìm
ra hướng dịch khi viết Sấm truyền ca.
Chính Thiên Chúa đã tôn trọng điều kiện nói với ai thì dùng tiếng nói của người
đó. Thiên Chúa đã nói với loài người qua các tiên tri bằng ngôn ngữ của các sắc
dân Do Thái, sau đó còn sai Con Một xuống thế "làm người và ở giữa chúng
ta" cùng nói với những người chung quanh, những đám đông bằng ngôn ngữ của
họ, sau cùng là lời khuyên của Thánh Phaolô: "Do Thái với người Do Thái,
Hy Lạp với người Hy Lạp".
Như vậy, Lữ Y Đoan là người Việt
Nam, đương nhiên nói tiếng Việt, dùng văn hóa Việt với người Việt. Đơn giản chỉ
có thế.
Không phải chỉ Lữ Y Đoan, mà những
người đầu tiên rao giảng đạo Chúa từ thế kỷ XVII cũng đều phải nói tiếng Việt,
theo tinh thần, văn hóa của người Việt, cho người Việt hiểu. Hai kinh quan trọng
được dịch là "Kinh Lạy Cha" và kinh "Kính Mừng". Tiếng Việt
không có lối gọi trống trơn, bao giờ cùng phải bày tỏ thái độ đối với người
mình nói với. Đối với Thiên Chúa, là đấng Tạo Hoá phải tin thờ, thêm từ lạy (Lạy
Cha). Đối với Đức Mẹ, dù là mẹ Chúa Cứu Thế, cũng chỉ là một thụ tạo nên chỉ
Kính thôi và do đó thêm từ Kính. Lời chào của Thiên Thần thực ra là một lời mừng,
một tin vui, nên dịch là Mừng thêm từ Kính (Kính mừng Maria). Trong Sấm Truyền
Cũ (Bản in Tân Định 1890) Adong Eva được gọi là ông Adong bà Eva. Nhưng chương
sau nói về Cain, Abel thì gọi "Thằng Cain giết ông Abel", mặc dầu
Abel là em, nhưng lại là người tốt lành nên đáng trân trọng.
Nói chung, Lữ Y Đoan cũng như các
tác giả khác ở thế kỷ XVII đều đã dùng tiếng Việt thuần Việt để chuyển dịch
kinh sách đạo sang tiếng Việt. Nhưng trong Sấm
truyền ca, Lữ Y Đoan đã bạo dạn hơn, triệt để hơn trong việc đưa toàn bộ lối
diễn tả Việt Nam vào việc chuyển dịch Kinh thánh ra tiếng Việt.
2. 350 NĂM SẤM TRUYỀN CA
Khi chúng tôi biết bên Canada đã
in Sấm truyền ca, thì năm 2020 đã
trôi tới tháng Sáu. Anh em trong Ban mục vụ Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn chúng
tôi thấy cần cấp tốc tái bản quyển sách cho độc giả tại Việt Nam được biết trước
khi năm thứ 350 của tác phẩm này qua đi. Rất may, chúng tôi đã kịp tìm được một
bản photocopy, tại thư viện dòng Đa Minh ở Gò Vấp, và một bản in tại dòng Mân
Côi, Bùi Chu. Chúng tôi theo đó để xây dựng lại bản thảo và vào buổi tối cuối
năm 2020, ấn bản Nước Mặn của quyển sách đã kịp chào đời “lấy ngày” trong buổi
họp mặt ra mắt Ban mục vụ Văn thơ Công giáo giáo phận Hà Tĩnh tại nhà xứ An
Nhiên, Tp. Hà Tĩnh.
Bìa Sấm truyền ca, ấn bản Tủ sách Nước Mặn
2020
3. TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
Trong ấn bản Canada năm 2000, tại
“mấy lời nói đầu”, nhà báo Nguyễn Văn Nhạn viết vào năm 1956:
"Theo truyền khẩu, bổn Sấm truyền ca nầy do linh mục Louis Đoan
(thầy cả Lữ Y Đoan) viết ra lối năm 1670.
Ngài là một nhà thông thái Hán học,
gia nhập đạo Công giáo lúc thiếu thời
và tình nguyện làm thầy giảng buổi sơ khai Công giáo Đàng Trong. Ngài viết nhiều
tập thơ về giáo lý, giúp bổn đạo dễ bề học hỏi. Trong số đó, có bổn Sấm truyền ca rất công phu, ngài viết
theo thể thơ lục bát là loại văn chương bình dân thời đó.
Ngài đúc kết theo cảm nghĩ và hiểu
biết của dân tộc Á đông; vì đó người ta nhận thấy bổn Sấm truyền ca là một hòa đồng văn hóa Á đông và Kitô giáo. Hạng văn
nho thời đó mến phục và thích đọc tác phẩm này, cũng có một số người trí thức
đã xin theo Công giáo.
Lúc già trên 60 tuổi, nhận thấy
tài đức và lòng nhiệt thành, nên đức Vít-vồ Lâm Biên Mộc (Đức cha Lambert de la
Motte) giám mục Địa phận Đàng Trong đã phong chức linh mục cho ngài, tại Kẻ
Chàm (Cacham) thuộc vùng Quảng Ngãi năm 1676.
Bổn Sấm truyền ca của ngài, đã bị các linh mục ngoại quốc thời đó chống
đối, viện lẽ đã pha trộn nhiều tư tưởng ngoại giáo. Dầu sao cũng có người gìn
giữ và khi chạy nạn cơn bắt đạo thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) ra lịnh cấm
đạo Công giáo rất nhặt năm 1701, họ
đã mang theo vào đất Đồng Nai.
Sống len lỏi với thổ dân, tìm nơi
hoang địa hợp nhau khai phá đất đai lập nghiệp sinh sống, theo cái thế da beo:
Việt đông thổ rút, Việt rút thổ đông, chịu đựng biết bao gian lao khổ cực để sống
và giữ đạo cách âm thầm.
Đến năm 1757, chúa Nguyễn Phúc
Khoát hoàn toàn làm chủ vùng Thủy Chân Lạp (miền lục tỉnh) và phân khu hành
chánh. Bấy giờ nhiều làng xã người Việt kê khai lên bản đồ đất nước, đồng thời
các vùng Công giáo cũng ra mặt như Cái Mơn, Cái Nhum, Mặc Bắc, Bãi Giồng... là
những vùng đa số là người Công giáo.
Bổn Sấm truyền ca còn được tìm thấy ở Cái Nhum, Cái Mơn thuộc Long Hồ
dinh (hiện nay, 1956, thuộc tỉnh Bến Tre). Có người viết ra chữ quốc ngữ từ bổn
gốc chữ nôm, và đã được chuyền tay nhau chép lại và phổ biến rất hạn chế, vì lẽ
quá dài và ít người có đủ khả năng về văn hóa giữa thời Hán, Nôm và chữ quốc ngữ
đang tranh giành chỗ đứng dưới chế độ Pháp thuộc tại Nam Kỳ.
… Lúc nhà in Công giáo của địa phận
Sài Gòn mới thành lập tại nhà thờ Tân Định (Sài Gòn), nhiều giáo hữu và linh mục
nhiệt tâm muốn xuất bản tác phẩm này nhưng qua nhiều lần thảo luận, không đi đến
kết quả, vì hai lý do:
Vì chi phí quá nặng đối với nhà
in còn nghèo, số vốn xuất bản không được đức Giám mục sở tại trợ cấp. Kế đó, do ý kiến các linh mục Pháp không đồng
ý, vì e bản dịch Sấm truyền ca không
lột hết ý nghĩa của Kinh thánh theo bản Vulgata.
Khoảng
năm 1920-1930, tại Sài Gòn có nhiều báo chí Công giáo do giáo dân đảm trách,
như nhựt báo Công giáo Đồng thinh của
Đoàn Kim Hướng; tuần báo Công giáo tiến
hành của Đoàn Công Chánh; tuần báo Dân
Nam của Tô Đức Thế; tuần báo Dân Hiệp
của Nguyền Cang Thường... và báo Nam kỳ Địa
phận là tờ liên lạc thông tin của Tòa Giám mục Sài Gòn do linh mục lãnh đạo, đã xuất bản từ đầu thế kỷ XX.
Trong thời gian nầy, theo lời Paulus Tạo, ký giả Công giáo đang giúp tuần báo Nam kỳ Địa phận (Nhà thờ Tân Định, Sài
Gòn) thì ông Trần Hớn Xuyên (họ đạo Cái Mơn, Bến Tre) đã giao tận tay ông bổn Sấm truyền ca và yêu cầu có thể xuất bản
hoặc đăng tải từng phần trên báo chí Công giáo, nếu có thể được.”
4. TRUY TẦM LẬP
QUỐC KINH
Lo việc chế bản, càng đọc quyển Sấm truyền ca, càng mê, tôi khao khát có
được bản văn 21 chương đầu của Lập quốc
kinh để thưởng thức, và hơn nữa, để in ra nhằm bảo tồn.
Tôi suy rằng Giáo sư Nguyễn Văn
Trung đã photocopy các bản thảo Tạo đoan
kinh và Lập quốc kinh của Sấm truyền ca , gửi tặng đến những vị đồng
tác giả có bài trong quyển Về sách báo
tác giả Công giáo thế kỷ XVII-XIX. Tôi tìm địa chỉ tất cả những tác giả còn
sống hoặc người nhà của các vị, và hỏi thăm nhưng không ai còn giữ được những
tài liệu ấy.
Tại Canada, nhà nghiên cứu Nguyễn
Vy Khanh giúp hỏi nhóm biên tập Tập san Y Sĩ, cơ quan đã xuất bản quyển Sấm truyền ca. Ở tòa soạn tập san ấy
cũng không còn dấu vết nào của bản thảo Lập
quốc kinh.
Đầu tháng 8/2021, ông Khanh đích
thân đi thăm Giáo sư Nguyễn Văn Trung và cho biết: “Tuần trước con đã ghé thăm
Gs. Nguyễn Văn Trung và đã xem lại toàn bộ tài liệu và sách báo của Gs. Trung.
Gs. Trung nay trí nhớ không như trước, nên khi hỏi, Gs. cho biết đã đưa hết các
bản chụp và tài liệu cho nhóm ông Lê Phụng và Tập san Y Sĩ, như con đã cho Cha
biết. May vẫn còn văn bản “Đọc Sấm
Truyền Ca Của Lữ Y Đoan” Giáo sư đã giao cho ông Lê Phụng nhưng không được
in lại, nay Gs. giao cho con. Con sẽ photocopy gửi bưu điện cho Cha - 22 trang
chữ đánh máy nhỏ.” (Thư 13/8/2021)
Tôi cũng theo chân bộ tài liệu
liên quan tới Sấm truyền ca để xin
quý Bề trên và nhân viên thư viện các Tòa giám mục Đà Lạt, Sài Gòn hoặc Thanh
Hóa tìm giúp nhưng không thấy dấu vết nào.
Còn một địa chỉ cuối cùng là kệ
sách của cố Giáo sư Trần Thái Đỉnh. Tôi viết thư đến thứ nam của cụ là Lm. Trần
Đức Quý, và nhận được câu trả lời: còn hơn một năm nữa cha mới về Việt Nam thăm
nhà – vào dịp Giáng sinh 2022.
5. GẤP NGÀN LẦN MƠ ƯỚC
Ngày 22/11/2022 cha Quý về tới Việt
Nam. Chiều vọng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, 23/11/2022, lúc 15g00, tôi nhận
được điện thoại, và qua FaceTime, tôi được nhìn thấy cha Quý cầm một bản sao
quyển Sấm truyền ca do ông Nguyễn Văn
Nhạn chép tay, phần cuối có chép 21 chương của Lập quốc kinh.
“Xin tôn vinh Thiên Chúa là “Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động
nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới”
(Ep 3,20).
Bản photocopy từ kệ sách của cụ
Trần Thái Đỉnh cống hiến cho ta 21 chương đầu của Lập quốc kinh (Sấm truyền ca ,
quyển II, trang 170-237), nằm liền sau tác phẩm Tạo Đoan Kinh (Sấm truyền ca , quyển I, trang 6-169).
Hơn nữa, điều kỳ diệu đã xảy ra: Ấn
bản Canada 2000 in theo phiên bản chép tay của Paulus Tạo, còn ở đây là phiên bản
chép tay của Nguyễn Văn Nhạn. Bản này gần với bản gốc của tác giả Lữ Y Đoan hơn
bản Paulus Tạo rất nhiều và có thể là cơ sở để phục chế được phiên bản quốc ngữ
tại Cái Mơn 1870.
Bìa Sấm truyền ca và 2 trang đầu Lập quốc kinh
6. NIÊN BIỂU CÁC SỰ KIỆN
Theo các bài nghiên cứu,
Năm 1670: tác giả Lữ Y Đoan đã
hoàn thành bộ sách Sấm truyền ca.[1] (Bản A).
1810 ông Phan Văn Cận biết đến một
bản chữ Nôm tại Cái Mơn (Bản B) – 1820: Ông Cận phiên chuyển sang chữ Quốc ngữ
(1816 – 08/12/1820, Bản B1).[2]
1870 phát hiện một hầm vô chủ
cũng tại Cái Mơn, tìm được nhiều sách trong đó có Sấm truyền ca (bản C).[3] và ông Nguyễn Văn Thế đã
chép lại[4]. Từ bản chữ Nôm này có người
viết ra chữ Quốc ngữ và đã được chuyền tay chép lại (C1)[5]
1885: Cha Phaolồ Qui bắt đầu đánh
số câu trên bản Phan Văn Cận[6]. (B2)
1908: Trần Hớn Xuyên gặp một bản
tại Cần Thơ (C2), và chép lại vào năm 1910[7]
(Bản C3). [8]
1920-1930: Bản Trần Hớn Xuyên được
giao cho ông Paulus Tạo (C3).[9]
Năm (?) Paulus Tạo đối chiếu hai
bản và chép lại bản (B2) thành (B3).[10]
Năm 1947: Nguyễn Cang Thường đưa
về Tòa soạn báo Tông Đồ[11] (Đây là bản C3 sau 1952 trở
thành C4 rồi năm 1956 được chép thành C5. Còn bản B3 đi về đâu?
- Nếu B3 cũng được Nguyễn Cang
Thường đưa về Tòa soạn báo Tông Đồ, thì sau bão, hoặc nó hỏng hết/ hoặc tồn tại
nguyên vẹn/ hoặc bị tàn phá nhiều hay ít hơn bản C4. Không thấy Nguyễn Văn Nhạn
nói tới.
- Có lẽ B3 không theo về Tòa soạn
báo Tông Đồ nhưng vẫn được gia đình Paulus Tạo giữ, và chỉ có phần Tạo Đoan
Kinh, như ghi rõ trên bìa sách ở trang XVII ấn bản B4?
Năm 1950, chuyển theo báo Tông Đồ
về trụ sở mới.[12] (C3)
Sau 1952: sau bão lụt, chỉ còn
sót lại hai quyển đầu [13] quyển thứ I gọi là Tạo Đoan
Kinh và 21 chương đầu của Lập quốc kinh
(C4).
Tháng 10/1956: Nguyễn Văn Nhạn
chép lại (Bản C5).[14]
Vài năm sau 1975 ở Sài Gòn, [15] hai gia đình nhà báo Paulus
Tạo và Nguyễn Văn Nhạn trao lại cho ông Hoàng Xuân Việt hai bản chép tay Sấm truyền ca (B3 và C5). Theo
mạch văn của Gs. Nguyễn Văn Trung, có lẽ bản B3 chỉ có quyển Tạo Đoan Kinh,
không có các quyển sau (Xuất hành, Lêvi, Dân số và Đệ nhị luật)?
Sau đó ông Hoàng Xuân Việt trao lại
cho Giáo sư Nguyễn Văn Trung và Giáo sư đã sao chụp một số bản gửi cho bạn bè đọc.[16]
Năm 1988, Gs Trung đã nói tới Sấm truyền ca trong chương IV "Một
nếp sống đạo bình dân, đại chúng" trong tập biên khảo "Đạo Chúa ở Việt
Nam".
Gs Nguyễn Văn Trung sao chụp cả 2
bản (B3 và C5) chia sẻ với giới nghiên cứu[17].
Năm 1993, một công trình của nhiều
tác giả biên khảo "Về sách báo của các tác giả Công Giáo thế kỷ XVII -
XIX", do Khoa Ngữ Văn Trường Đại Học Tổng Hợp Tp. HCM thực hiện, in 500 bản
như tài liệu tham khảo, ba người cộng tác trong công trình này đã phát biểu ý
kiến về Sấm truyền ca , cả 3 đều trân
trọng đón nhận đề cao.[18]
1994: Ở ngoài nước, Mục Sư Lưu Hồng
Khanh đã nhắc tới Sấm truyền ca trong
bài "thần học trong mạch sống văn hóa xã hội Á Châu"[19].
1997: Hai nhà biên khảo Văn Học,
Trần Đức Cương, Lê Phụng trong "Nẻo Mới Vào Văn Học: Cảo Luận” vận dụng những
lối tiếp cận mới của Tây Phương để tìm hiểu Văn Học Việt Nam, phần cuối nói đến
Sấm truyền ca cho thấy khả năng truyền
thông của tiếng Việt như một ngôn ngữ phổ biến.[20]
1997: Nguyễn Vy Khanh nhắc tới Sấm truyền ca trong bài "Tiếng Việt
và một số tác phẩm mới phát hiện".[21]
2000: Ấn bản Canada (B4)
2002: “Ðôi lời giới thiệu Sấm truyền ca Lữ Y Ðoan”, bài viết chưa
công bố của Gs.Nguyễn Văn Trung, mời gọi tìm kiếm bút tích Sấm truyền ca.[22]
2020: Ần bản Tủ sách Nước Mặn.
(B5)
2022, ngày 23/11: Tìm lại được 21
chương đầu của Lập quốc kinh trong
C5.
7. HIỆN TRẠNG BẢN VĂN
Ghi chú của Paulus Tạo ở lời “tựa
của Phan Văn Cận” và “mấy lời nói đầu” của Nguyễn Văn Nhạn khó giúp ta phân biệt
các bản sao được nhắc đến, nhưng bù lại, chỉ cần quan sát trên hình thức trình
bày và nội dung của hai bản văn của Paulus Tạo (bản B, nơi ấn bản Canada 2000)
và bản chép tay của Nguyễn Văn Nhạn (bản C, mới nhận được), ta có thể kết luận
dễ dàng:
Bản B4: Canada 2000 (Paulus Tạo)
- Danh từ riêng gần âm Latin theo
Phaolô Qui
- Xem việc đánh số câu là đương
nhiên, không có vấn đề, không bận tâm về nguồn gốc số câu.
- Một số câu thơ bị sửa đổi
- Chú thích
Bản C5: Nguyễn Văn Nhạn
- Danh từ riêng vừa dựa theo âm vừa
diễn nghĩa
- Tại câu đầu tiên: ghi chú rằng
“đánh số câu theo Kinh thánh Cựu ước do linh mục Phaolồ Qui”; bị sót các số câu
19 và 21 của chương XLVI. Nếu bản B3 không có 21 chương Lập quốc kinh, việc đánh số câu cho Lập quốc kinh của bản C5 có lẽ do Nguyễn Văn Nhạn thực hiện theo
cùng một cách với cha Phaolô Qui?
- Chú thích: một số giống với bản
B4, một số không có trong B4.
- Không có 6 câu kết.
8. DỰ KIẾN ÂN BẢN SẤM TRUYỀN CA NHẤT LÃM
Khi ấn hành bản Nước Mặn 2020,
chúng tôi mong có nhiều tín hữu ngày nay đọc và hiểu dễ dàng, nên đã cập nhật một
số từ cổ và sửa một số lỗi chính tả thấy rõ trên bản Canada (B4) có thể không gặp
trong bản B3. Điều ấy khiến bản văn (B5) càng thêm xa bản gốc.
Nay bản C5 cung cấp thêm những
thông tin quý:
- Nguyên dạng những tên riêng vừa
dựa theo âm vừa diễn nghĩa
- Ghi chú ở câu 1,1 cho thấy khi
chép C5, ông Nhạn đã tham khảo và mượn lại việc đánh số câu từ bản B3.
- Cũng có nghĩa là ông Nhạn đã
tham khảo và mượn lại nhiều chú thích từ bản B3.
- Cuối Tạo Đoan Kinh, bản C5
không có sáu câu “lời kết” (B5, câu 3601-3606)
- Bản B4 lập mục lục đồng bộ với
hai câu thơ 4 chữ đầu mỗi đoạn Kinh thánh (B4, trang 181-186), bản C5 không có
thông tin này. Bản B4 dựa vào đâu để có những câu thơ tựa đề ấy? Chi tiết này
cho thấy có độ chênh đáng kể giữa bản B4 so với B3.
- Suy ra, nếu tìm được bản B3, ta
sẽ có thêm một số thông tin lý thú.
Từ những ghi nhận ấy, chúng tôi
xin đóng góp vài ý luận giải
- Đối chiếu những tên riêng vừa dựa
theo âm vừa diễn nghĩa (Dư Tiệp/Du Tiệp, Sĩ Mông/Sử Mông vv…) ta có thể kết luận
như Nguyễn Văn Nhạn rằng bản tìm được ở Cái Mơn năm 1870 là một bản Nôm, “có
người viết ra chữ quốc ngữ” (C1) – sau Phan Văn Cận (B1) 50 năm.
- Bản C1 không chịu sự biên tập lại
của cha Phaolồ Qui, do đó gần nguyên bản chữ Nôm hơn.
- Ông Paulus Tạo chép bản B3 năm
nào không rõ nhưng đã có bản C3 trong tay để tham khảo và phải trước bản C5 của
ông Nguyễn Văn Nhạn (1956). Có khả năng ông Tạo điều chỉnh một số chi tiết của
B3 theo bản C3.
- Khi chép bản C5 (1956), ông
Nguyễn Văn Nhạn có bản B3 trước mặt để tham khảo. Có khả năng ông Nhạn điều chỉnh
một số chi tiết của C4 theo bản B3.
- Hai ghi nhận và giả thuyết vừa
nói có thể giải thích làm sao hai bản chuyển sang Quốc ngữ cách nhau 50 năm lại
có thể giống nhau đến thế.
- Bản Canada 2000 (B4) khi in, do
lỗi đánh máy hoặc cố tình sửa, có thể bị chênh so với bản B3 (gốc).
- Cả hai bản phiên âm quốc ngữ (B
và C) đều thực hiện tại Nam bộ với cách phát âm Nam bộ. Bản B3 do một người Nam
bộ chép lại, thế nhưng bản B4 lại khá nhiều lỗi chính tả của người miền Bắc. Những
lỗi ấy có lẽ chỉ mới vấp do người đánh máy phiên bản B4. Do đó rất cần tìm được
bản chép tay B3 để đối chiếu.
- Dù sao có thể tạm kết luận: Do sự can thiệp của cha Phaolồ Qui, bản
B3 khá xa với bản B. Bản C5 gần với bản C hơn, tức là gần nhất với nguyên bản
chữ Nôm (A).
Nếu tìm lại được bản B3, ta có thể
thực hiện một ấn bản nhất lãm, in song song ba cột: Bản B3- Bản C5 – Ghi chú, để
phục chế một bản chữ Quốc ngữ (Bản D) tương đối trung thực với bản chữ Nôm (A)
hiện đã thất lạc, và như thế sẽ mở rộng khả năng nghiên cứu cho nhiều người.
Bản B3 |
Bản C5 |
Ghi chú |
Từ bản Phan Văn Cận - B1 |
Bản Quốc ngữ sát gốc hơn Từ bản
1870 - C1 |
|
(1) |
(2) |
(3) |
9. TIẾP TỤC CUỘC KIẾM TÌM
Hành trình kỳ diệu hơn 350 năm
qua của Sấm truyền ca cho phép ta mơ
và bắt tay tìm kiếm. Không riêng phần Tạo Đoan Kinh của bản B3 mà ta còn hướng
tới truy tìm toàn bộ 5 quyển của tác phẩm, cả bản Nôm và bản Quốc ngữ.
Gs. Nguyễn Văn Trung vừa qua đời
ngày 19-10-2022 ở Canada. Trong bài viết tháng 4-2002 chưa công bố, tựa đề, ông
cho biết: “Tuy nhiên đối với người nghiên cứu cần nguyên bản, chúng tôi sao chụp
cả hai bản chép tay Sấm truyền ca của
Paulus Tạo và Nguyễn Văn Nhạn.” Đó là hai bản B3 và C5. Bản C5 vừa tìm lại được.
Rất hy vọng một trong những bản sao chụp B3 vẫn còn tồn tại.
Cũng trong bài viết ấy, Giáo sư
Trung tha thiết ngỏ lời mời gọi tích cực kiếm tìm:
“Thày giảng và
thày cả Lữ Y Ðoan được giới thiệu là người thâm nho nổi tiếng hơn cả. Như vậy,
nếu Lữ Y Ðoan đã soạn "Sấm truyền ca"
là điều có thể tin được và ông phải soạn Sấm
truyền ca , phổ biến Sấm truyền ca trong
thời kỳ làm thày giảng, hoạt động ở Ðàng Trong vào thế kỷ XVII gồm các tỉnh từ
ÐàNẵng đến Phan Thiết. Sau khi ông qua đời, Sấm
truyền ca mới được phổ biến ở miền Nam (Lục Tỉnh). Cũng phải giả thiết Sấm truyền ca được soạn thảo phổ biến ở
miền Trung thời kỳ Dòng Tên cởi mở rộng rãi và gặp khó khăn cấm đoán thời kỳ Hội
Thừa Sai Paris nghiêm ngặt.
Nhưng dù được
khuyến khích hay bị ngăn cấm, Sấm truyền
ca và Lữ Y Ðoan không thể không được nhắc đến trong các thư từ, tường trình
gửi về Âu Châu của Dòng Tên và Hội Thừa Sai Paris. Do đó tiếp tục tìm kiếm ở
các văn khố Dòng Tên, Dòng Phanxicô, Hội Thừa Sai Paris, có hy vọng không những
biết nhiều hơn nữa về Lữ Y Ðoan, Sấm truyền
ca mà còn kiếm ra bản quốc ngữ, bản Nôm toàn bộ Sấm truyền ca. Ở trong nước, có hy vọng tìm ra bản nôm, các bản quốc
ngữ. Tha thiết đề nghị các Giám Mục ÐàNẵng, Qui Nhơn, Phan Thiết, Sàigon, Mỹ
Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Long Xuyên lưu tâm tìm kiếm, phát hiện.”
Ước mong quý độc giả, Công giáo
cũng như ngoài Công giáo, cùng quan tâm tìm kiếm để đưa ra ánh sáng những đóng
góp quý giá của tiền nhân.
Cụ thể, nếu quý vị có cơ may biết
được tác phẩm còn tồn tại đâu đó, hoặc nếu quý vị tìm thấy những bản chép tay,
những bản in cổ, bằng quốc ngữ hoặc Hán Nôm mà trong nhà chưa đánh giá được,
xin vui lòng dùng điện thoại sao chụp lại (ít là một số trang đầu và một số
trang cuối) gửi về cho chúng tôi qua địa chỉ: Lm. Võ Tá Khánh, Tòa Giám mục Qui
Nhơn, 116 Trần Hưng Đạo, Tp Quy Nhơn, Sđt: 0935-424-449 hoặc qua email tinmunggiesu@gmail.com.
Ban quản trị Tủ sách Nước Mặn sẽ nhờ người đọc để báo lại cho quý vị biết nội
dung của tư liệu. Nếu đó là những tư liệu liên quan đến đời sống và lịch sử Dân
Chúa, chúng tôi sẽ trao đổi với quý vị để cùng tìm cách bảo tồn.
Đặc biệt, theo tâm tình của cố
Gs. Antôn Nguyễn Văn Trung, chúng tôi rất mong tìm được địa chỉ gia đình hai
nhà báo Paulus Tạo và Nguyễn Văn Nhạn để tỏ lòng biết ơn và gửi ấn phẩm B5 làm
quà kỷ niệm. Nếu quý vị nào biết, xin làm ơn chia sẻ thông tin. Xin chân thành
cảm tạ.
[8] Bản này tên riêng giữ nguyên dạng “mượn âm và diễn
ý”, không sửa theo Phaolô Qui; còn số câu là mượn của Phaolô Qui?
[17] “Tuy nhiên đối với người nghiên cứu cần nguyên bản,
chúng tôi sao chụp cả hai bản chép tay Sấm Truyền Ca của Paulus Tạo và Nguyễn
Văn Nhạn.” (Nguyễn Văn Trung, Sấm Truyền Ca Lữ Y Ðoan, Ðôi lời giới thiệu, bài
viết tháng 4-2002 chưa công bố)
[18] Ba vị này là: Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, Trần Thái Đỉnh
và Trần Thanh Đạm. Theo Nguyễn Văn Trung, “Đọc Sấm Truyền Ca của Lữ Y Đoan”,
chưa in.
[22] Nguyễn Văn Trung, “Sấm Truyền Ca Lữ Y Ðoan, Ðôi lời
giới thiệu”, bài viết tháng 4-2002 chưa công bố.