NGUYÊN TẮC
THAM GIA
Nicolas
Masson
Nguyên tắc tham gia có phải là
người bà con nghèo nàn với các nguyên tắc của Học thuyết Xã hội (HTXH) của Giáo
hội không? Sau những nguyên tắc tượng đài như công ích, liên đới hay bổ trợ, nó
có thể mang lại điều gì hơn nữa? Vả lại, so với các nguyên tắc khác, nó chỉ có
ba đoạn trong cuốn Tóm lược HTXH của Giáo hội Công giáo. Tuy nhiên,
nguyên tắc “nhỏ” này là rất quan trọng. Khi nhắc lại trách nhiệm của mỗi
người, nó mang lại tất cả sự năng động cho việc thực hiện HTXH của Giáo hội. Quả
thế, liệu một gia đình, một hiệp hội, một doanh nghiệp hay một quốc gia có thể
sống và phát triển mà không có sự tham gia của các thành viên của mình? Liệu nó
có thể liên đới, tôn trọng công ích và bổ trợ mà không có sự tham gia của họ?
Qua nguyên tắc tham gia, cuốn Tóm lược nhắc nhớ
rằng mỗi người phải đóng góp “vào đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội và chính
trị của cộng đồng dân sự mà họ thuộc về. Tham gia là một bổn phận mà tất cả mọi
người đều phải thực hiện một cách có ý thức, một cách có trách nhiệm và vì công
ích”[1].
Trước hết, mỗi người được mời gọi đảm trách những
lãnh vực mà bản thân mình chịu trách nhiệm (gia đình của mình, công việc của
mình). Họ cũng được yêu cầu, càng nhiều càng tốt, tích cực cởi mở với đời sống
công cộng[2] và
vượt trên vai trò công dân của mình, tham gia vào đời sống xã hội.
Bằng cách tham gia vào công ích như thế, con người
đáp lại ơn gọi làm người của mình, được tạo dựng để yêu thương và được yêu
thương. Bởi vì nó được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. “Con người, thụ
tạo duy nhất trên trần gian mà Thiên Chúa muốn vì chính nó, chỉ có thể tìm thấy
chính mình một cách trọn vẹn qua việc trao ban chính mình cách vô vị lợi”[3].
Việc thực hiện HTXH của Giáo hội ngang qua hành
động tự do của con người mà sự dấn thân “tự nguyện và quảng đại”[4] của
họ nhằm phục vụ công ích là cần thiết “mỗi người tùy theo đại vị và vai trò
của họ”[5]. Sự tham gia là nền tảng của bác
ái xã hội và chính trị (FT 173). Khi hiến mình phục vụ anh chị em của
mình, con người xây dựng nền văn minh tình yêu (Cv 33; FT
183).
Do đó, theo thứ tự hành động, sự tham gia chẳng
phải là hàng đầu hay sao? Khi một cộng đồng được tạo ra hay trải qua một cuộc
khủng hoảng to lớn, có lúc đã không có sự tổ chức hữu hiệu. Vì vậy, sự tham gia
của ít nhất một số người là cần thiết để tạo ra hoặc tái tạo cộng đồng. Sự tham
gia của tất cả mọi người sẽ được yêu cầu để cộng đồng sống cách trọn vẹn.
Nếu con người nhận được “nghĩa vụ” tham gia, thì
nghĩa vụ này chỉ có ý nghĩa nếu con người cũng nhận được các phương tiện và quyền
lợi tương ứng. Họ nhận được chúng từ những người khác. Sự tham gia phải được hiểu
trong một luồng chuyển động. Bài viết này muốn cho thấy tính trung tâm của
nguyên tắc “nhỏ” này.
1. Cội nguồn Thánh Kinh
Trong Thánh Kinh, từ “tham gia” không xuất
hiện một cách rõ ràng. Cũng không có truyền thống Thánh Kinh rõ ràng nào về chủ
đề này. Tuy nhiên, từ sách Sáng Thế ký, các bản văn thánh mời gọi con người dấn
thân phụng sự Thiên Chúa, anh chị em mình và toàn thể công trình tạo dựng. Toàn
bộ giao ước giữa Thiên Chúa và con người ngụ ý sự dấn thân và trách nhiệm của tất
cả mọi người, vượt trên những khác biệt.
Như thế, từ đầu sách Sáng Thế ký, Thiên Chúa đã
trao phó cho người công trình tạo dựng của Ngài và tất cả những ai cư ngụ trong
đó. “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và
canh giữ đất đai”[6].
Theo lệnh truyền này, Thiên Chúa trao phó cho con người khu vườn và cư dân của
mình. Nó phải hành động sao cho khu vườn đơm hoa kết trái và hữu ích cho mọi
người.
Giao ước đòi hỏi sự tham gia chủ động của dân
Ngài, nhưng Thiên Chúa không bao giờ đặt. Ngài bảo vệ dân Israel với điều kiện
họ giữ giao ước của Ngài. “Môisê lấy cuốn sách Giao ước đọc cho dân nghe. Họ
thưa: “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân
theo”[7]. Về sau, trong
sách Samuel, khi dân tuyên bố muốn có một vị vua, Thiên Chúa đã cảnh báo họ[8]
nhưng tôn trọng ý muốn của dân: “Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một
vua cai trị chúng”[9].
Trong Tin Mừng theo thánh Mátthêu, mỗi người được
mời gọi tham gia. Chẳng hạn, trong dụ ngôn thợ làm vườn nho[10],
tất cả mọi người, bất kể họ được thuê vào giờ nào, đều được mời gọi làm việc
trong vườn nho của ông chủ. Không ai bị loại trừ, ngay cả những trẻ nhỏ: “Cứ
để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống
như chúng”[11] như những người mong manh
nhất.
Mỗi người đều là thừa tác viên của ân sủng của
Chúa. Mọi người đều có trách nhiệm với người anh em của mình. Điều này đặc biệt
rõ ràng trong dụ ngôn về sự phán xét cuối cùng của Mátthêu: “Ta bảo thật các
ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của
Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”[12].
Nơi Luca, người Samaritanô nhân hậu giúp đỡ người lữ khách bị thương, và
nói rộng hơn: “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què
quặt, đui mù”[13].
Trong bốn sách Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Các con hãy cho họ
ăn”[14].
Thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô dạy chúng ta rằng
Thiên Chúa “…muốn rằng không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ
phận đều lo lắng cho nhau”[15]. Việc xây dựng
Giáo hội đòi hỏi sự tham gia của tất cả mọi người, mỗi người mang đến những món
quà của mình theo cách bổ sung cho việc phục vụ xây dựng cộng đồng. Giáo huấn của
thánh Phaolô có thể soi sáng không chỉ cho các Giáo hội mà còn cả xã hội.
2. Xuất hiện trong học thuyết xã hội
Các dòng tu và đan tu tìm cách sống Tin Mừng một
cách triệt để sẽ đẩy nguyên tắc tham gia xa hơn[16].
Mỗi người đều có “quyền tham gia vào các quyết định liên quan đến họ” và
vào việc chọn người “được mời gọi quản trị”. Trong Tu Luật của thánh Biển
Đức, nếu viện phụ thực thi quyền bính, thì “ngài không bao giờ là nguồn gốc
của luật” . Chỉ hội đồng mới có thể lập pháp trong các giới hạn mà tu luật
trao cho ngài. Cũng chính hội đồng bầu chọn viện phụ. Các quy luật này sẽ tham
gia gián tiếp vào quá trình thử nghiệm các quy luật dân chủ hiện đại[17].
Trong cùng một chuyển động, thánh Catarina
Siêna, trong khi mạo muội chất vấn Đức Giáo hoàng, đã không ngần ngại viết
trong các cuộc đối thoại của mình: “Cha cũng không cho mỗi người tất cả các
nhân đức…Có một số nhân đức mà Cha phân phát theo cách như vậy, đôi khi cho người
này, đôi khi cho người kia…Đối với người này, đó là bác ái; đối với người kia,
đó là công bằng; với người này là lòng khiêm tốn; với người kia là một đức tin
sống động…Đối với của cải vật chất, đối với những thứ cần thiết cho cuộc sống
con người, Cha đã phân phát chúng với sự bất bình đẳng lớn[18], và Cha
không muốn mỗi người sở hữu tất cả những gì cần thiết cho mình để mọi người có
cơ hội, khi cần thiết, thực hành lòng bác ái đối với nhau…Cha muốn họ cần nhau
và trở thành thừa tác viên của Cha để phân phát những ân sủng và những món quà
hậu hĩ mà họ nhận được từ Cha”[19].
Ngay từ những bản văn đầu tiên của HTXH của Giáo
hội, vấn đề tham gia đã hiện diện. Thông điệp Rerum Novarum (Tân
Sự) tố giác việc, một mặt, triệt để loại trừ con người khỏi việc chia sẻ của cải
và việc phục tùng nô lệ của họ với công việc sản xuất phi nhân. Rerum
Novarum đặt nền móng cho nguyên tắc tham gia mà không nêu rõ tên rõ
ràng: “Mọi công dân, không có ngoại lệ, phải mang lại phần của mình vào khối
lượng của cải chung mà, vả lại, bằng sự hoàn trả tự nhiên, được phân phối lại giữa
các cá nhân. Tuy nhiên, những đóng góp của riêng mỗi người không thể giống nhau
và cũng không thể ở mức độ ngang nhau”[20].
Trong Rerum Novarum, thuật ngữ “tham
gia” được dành riêng cho việc tham gia vào quyền sở hữu. Chỉ trong các thông điệp
tiếp theo mà nó sẽ mang một ý nghĩa rộng lớn hơn. Chẳng hạn, sự tham gia liên
quan đến tất cả các chiều kích của con trong lao động: bản thân lao động
là ”sự tham gia vào công trình của Thiên Chúa”[21], nhưng cũng liên
quan đến tất cả những ai làm việc để “phục vụ anh em của mình, một sự đóng
góp cá nhân vào việc thực hiện kế hoạch quan phòng trong lịch sử”[22].
Tiếp đến qua “sự tham gia tích cực của tất cả mọi người vào việc quản lý
doanh nghiệp”[23]
và cuối cùng qua việc tham gia vào những thành quả của lao động và tài sản.
Trong đường hướng của Rerum Novarum,
các Đức Giáo hoàng đã đưa ra những định hướng tổng quát hơn về việc tổ chức xã
hội bằng cách dựa vào nguyên tắc bổ trợ. Trong Thông điệp Quadragesimo
Anno (Tứ Thập Niên), Đức Piô XI đưa ra một định nghĩa tiêu cực đầu
tiên, như một điều kiện để mỗi người tham gia. Ngài nhắc lại rằng thật bất công
khi lấy đi của “các cá nhân (…) những quyền hạn mà họ có khả năng thực hiện
theo sáng kiến của riêng họ và bằng phương tiện riêng của họ”[24].
Đức Bênêđíctô XVI sẽ nêu lên một định nghĩa tích cực: “Nguyên tắc bổ trợ trước
hết là sự giúp đỡ nhân vị, thông qua quyền tự quản của các cơ quan trung gian.
Sự giúp đỡ này được đề nghị khi nhân vị và các tác nhân xã hội không thể tự
mình làm những gì thuộc trách nhiệm của mình và nó luôn ngụ ý rằng chúng ta có
một mục tiêu giải phóng vốn thúc đẩy tự do và sự tham gia như là tinh thần
trách nhiệm. Nguyên tắc bổ trợ tôn trọng phẩm giá của nhân vị mà nó nhìn thấy
nơi nhân vị một chủ thể luôn có khả năng cống hiến điều gì đó cho người khác”[25].
Đức Phanxicô sẽ củng cố vấn đề: “Như thế, nguyên tắc bổ trợ trở thành một thực
tại cụ thể bảo đảm sự tham gia và hoạt động của các cộng đồng và các tổ chức cấp
dưới bổ sung cho hoạt động của Nhà nước”[26].
Như thế, nguyên tắc tham gia sẽ dần dần được mở
rộng sang các lĩnh vực khác của xã hội: đời sống chính trị, văn hóa, tôn giáo,
việc thực hiện bổn phận này đòi hỏi nhiều quyền hơn. Liên quan đến lĩnh vực duy
nhất của doanh nghiệp, Đức Gioan XXIII trong Thông điệp Mater et
Magistra (Mẹ và Thầy), nhấn mạnh đến sự cần thiết phải “giảm bớt hợp
đồng lao động bằng các yếu tố vay mượn từ hợp đồng xã hội” , để “công
nhân và nhân viên được mời gọi tham gia một cách nào đó vào quyền sở hữu doanh
nghiệp, vào việc quản lý nó hay những lợi nhuận mà nó mang lại”[27]. Đức Gioan-Phaolô
II nêu rõ rằng mỗi người phải “ (…) ý thức rằng, ngay cả khi mình làm
việc trong một sở hữu tập thể, họ cũng đồng thời làm việc vì lợi ích của chính
họ”.
Mỗi người đều được mời gọi hành động trong lãnh
vực trách nhiệm trực tiếp của mình bởi vì như thánh Gioan-Phaolô II nhắc nhở
chung ta về vai trò của giáo dân: “Không có chỗ cho sự thờ ơ, khi có rất nhiều
công việc đang chờ đợi tất cả chúng ta trong vườn nho của Chúa”[28].
Quả thế, ngày nay hơn bao giờ hết, tầm quan trọng của các vấn đề xã hội, kinh tế,
văn hóa, chính trị và sinh thái chứng tỏ rằng “không ai được phép ngồi yên
không làm gì”[29].
3. Quyền lợi và bổn phận tham gia
Nguyên tắc tham gia, giống như nguyên tắc bổ trợ,
thống nhất quyền lợi và bổn phận nhưng theo cách khác nhau. Bởi vì nguyên tắc bổ
trợ giả thiết một tổ chức có phẩm trật, nên nó đưa ra một phẩm trật về các quyền
lợi và bổn phận và bảo vệ nhân vị khỏi bị tước đoạt quyền lực từ bên trên.
Nguyên tắc tham gia, bởi vì nó khởi đi từ nhân vị, nên mang lại một cái nhìn
ngang bằng hơn nhưng cũng giả thiết sự cân bằng giữa quyền lợi và bổn phận. Đức
Gioan XXIII nhắc nhở chúng ta: “Trong đời sống xã hội, bất kỳ quyền lợi nào
được ban cho một người theo bản nhiên đều tạo ra nơi người khác một bổn phận, bổn
phận nhìn nhận và tôn trọng quyền lợi này. Quả thế, mọi quyền thiết yếu của
con người đều vay mượn sức mạnh bắt buộc của nó từ luật bản nhiên vốn ban nó và
áp đặt nghĩa vụ tương ứng. Trong khi đòi hỏi quyền lợi của mình, những ai quên
đi bổn phận của họ hay chỉ chu toàn chúng một cách bất toàn đều có nguy cơ phá
hủy bằng tay này những gì họ xây dựng bằng tay kia”[30].
S. Weil giúp chúng ta tiến xa hơn khi bà viết: “Khái niệm “nghĩa vụ” vượt trội
hơn hơn khái niệm “quyền lợi”, vốn phụ thuộc và liên quan đến nó. (…). Một người
đơn độc trong vũ trụ sẽ không có bất kỳ quyền lợi nào, nhưng người đó sẽ có các
nghĩa vụ”[31].
Khi hoạt động chính trị được suy nghĩ từ quyền lợi,
điều đó dẫn đến các phương thức vận hành chia nhỏ xã hội. “Tôi có quyền. Đâu là
những chiến lược để khiến người ta công nhận chúng?” chứ không phải “Tôi có
nghĩa vụ. Chúng phải bàn đến đến điều gì? Ai phải được hưởng lợi chúng?”. Những
câu hỏi sau cùng này có nhiều hơn trong cuốn sổ tình yêu. Ai yêu thương thì tự
cho mình nghĩa vụ phục vụ người mình yêu thương. Trong Thông điệp Fratelli Tutti
(Tất cả đều là anh em), khi giải thích dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, Đức
Thánh Cha Phanxicô đã hướng sự tham gia vào việc phục vụ tha nhân. “Câu kết
luận của Chúa Giêsu là một lời yêu cầu: “Ông hãy đi và làm như thế” (Lc 10,
37). Nói cách khác, Ngài thúc giục chúng ta gạt bỏ mọi khác biệt và, trước nỗi
đau khổ, hãy trở nên gần gũi với mọi người. Vì thế, tôi không còn nói rằng tôi
có “những người thân cận” mà tôi phải giúp đỡ, nhưng đúng hơn tôi cảm thấy được
kêu gọi trở nên người thân cận đối với những người khác”[32].
4. Mọi người, không trừ ai, đều được mời gọi
tham gia
Tất cả mọi người đều được mời gọi tham gia
tích cực vào đời sống xã hội và chính trị. Các phương thức có thể đa dạng nhưng
phẩm chất của một xã hội hay một cộng đồng có thể được đánh giá bằng khả năng
thu hút sự tham gia của tất cả các thành viên của mình và đặc biệt là những người
nghèo khổ nhất. Đối với Hannah Arendt[33],
người nghèo là người “không có quyền để có quyền” . Đó là người không thể
bằng bất cứ cách nào quyết định cuộc sống của mình và đóng góp vào đời sống của
nhóm. Như thế, người nghèo bị tước mất một nhu cầu cốt yếu của tâm hồn: cảm thấy
mình hữu ích và thậm chí không thể thiếu.
Vì thế, làm cho người nghèo tham gia, trước
hết đó là cho phép họ, càng nhiều càng tốt, xác định và trở thành tác nhân của
sự phát triển của chính họ. “Chúng ta không thể đối mặt với tai tiếng về
nghèo đói bằng cách thúc đẩy các chiến lược kiểm soát vốn chỉ làm cho yên tâm
và biến người nghèo thành những con người thuần hóa và vô hại. Thật buồn biết
bao khi thấy rằng, đằng sau những việc làm được cho là vị tha, chúng ta giảm
thiểu người khác thành thụ động”[34].
Đó cũng chính là làm sao để họ góp phần vào sự
phát triển của xã hội. Từ hơn 50 năm qua, phong trào ATD Quart Monde ( Agir
tous pour la dignité Quart Monde / Mọi người hành động vì phẩm giá Thế giới thứ
tư)[35]
nhắc nhở chúng ta rằng không có người nghèo nào mà không thể cho đi. Mời gọi
con người cho đi, trong chừng mực những gì họ đã nhận được, đó là nhìn nhận sự
cao cả của họ. Để giải thích lại Hannah Arendt, đó là trao cho họ quyền có bổn
phận tham gia vào việc xây dựng thành đô.
Đối với các tổ chức, điều đó có nghĩa là họ
không chỉ phải ý thức rằng mọi người đều có giá trị màm còn phải xác tín rằng mỗi
người đều có thể mang lại điều gì đó độc đáo. Do đó, phát triển sự tham gia, đó
là xây dựng một trong những cơ cấu đổi mới vốn tin tưởng hết sức có thể vào mỗi
người và cho phép họ hành động theo tài năng của mình.
5. Những thể chế chất lượng tạo điều kiện cho sự
tham gia
Các thể chế mang lại một khuôn khổ cho sự tham
gia của các thành viên của mình: các mục đích theo đuổi; các hình thái chỉ định
quyền bính, phân bổ quyền hạn và trách nhiệm, các phương thức quyết định và kiểm
soát. Một số thể chế tạo điều kiện cho ý thức trách nhiệm, sáng kiến, thấm chí
chấp nhận rủi ro, những tương quan tốt giữa mọi người, sự trợ giúp lẫn nhau… Trái
lại, các thể chế khác có xu hương ấu trĩ hóa bằng cách ra lệnh phải làm gì, bằng
cách kiểm soát, bằng cách chống đối…[36].
Khả năng dấn thân và hành động cá nhân nhằm phục
vụ công ích tùy thuộc vào chất lượng của các thể chế. Trong Thông điệp Caritas
in Veritate (Bác ái trong Chân lý), Đức Bênêđíctô XVI rút ra những hệ
quả về tầm quan trọng của chúng: “Hành động vì công ích một mặt có
nghĩa là chăm sóc, và mặt khác sử dụng toàn thể các thể chế vốn cấu
trúc đời sống xã hội, về mặt thể chế, dân sự và văn hóa, một đời sống xã hội
mang hình thức của “polis”, của thành đô”[37].
Chăm sóc các thể chế, trước tiên đó là sử dụng
chúng. Bằng cách thực hiện quyền biểu quyết của mình khi có quyền này và bằng
cách đóng góp vào các cuộc tranh luận. Sự tồn tại của các cuộc tranh luận là
thiết yếu đối với đời sống của các thể chế. Chúng có chát lượng khi có sự tôn
trọng mỗi người, ý thức về số phận chung và mong muốn chung tiến tới. Không có
sự tìm kiếm chung về điều thiện này, các cuộc tranh luận có thể tạo ra ảo tưởng
khi chúng không phải là những mưu mẹo để thông qua một cuộc cải cách hay
trở thành một nơi mà mỗi người tìm cách áp đặt cho người khác sự công nhận chỉ
những lợi ích cá nhân của mình.
Tiếp đến, đó là dấn thân phục vụ chúng. Bằng
cách tham gia vào một đô thị, một phòng ban, một nghiệp đoàn hay một hiệp hội,
mỗi người đều có thể, tùy theo khả năng, thời gian và sở thích của mình, tham
gia và hành động nhằm phục vụ công ích. Cũng chính trong các cơ quan trung gian
mà các quan điểm của các công dân được cấu trúc.
Sau cùng, đó là bảo vệ và chăm lo cho sức
khỏe của các thể chế. Đó là bảo vệ sự tham gia thông qua các quy tắc và mục
tiêu. Điều đó đặt ra vấn đề về quy mô của các tổ chức và sự gia tăng sức nặng của
các quy định vốn hạn chế sáng kiến của các nhóm đến nỗi chúng buộc họ phải khiếu
nại lên cấp cao hơn và do đó tìm kiếm sự tuân thủ nhiều hơn là khả năng thực hiện
các sáng kiến.
6. Giáo dục trách nhiệm và phát triển tình yêu đối
với công ích
Các thể chế không thể hoạt động mà không có những
người thúc đẩy chúng. Các thể chế, bất kể chất lượng của
chúng, không thể tồn tại nếu không có những người được thúc đẩy bởi một ý thức
sâu xa về trách nhiệm và ý thức về công ích. Một cách hỗ tương, các thể chế chất
lượng đào tạo những người có trách nhiệm, những người mà tiếp đến làm cho chúng
sống và tiến bộ.
Giáo dục ý thức trách nhiệm và tình yêu đối với
công ích bắt đầu từ các gia đình, vốn “tạo nên nơi chốn đầu tiên trong đó
các giá trị về tình yêu và tình huynh đệ, về sự chung sống và chia sẻ, về sự
quan tâm và chăm sóc tha nhân được sống và truyền lại”[38]. Các trường học,
hiệp hội và doanh nghiệp đều có thể là nơi học tập. Việc giáo dục này là cấp
bách. Quả thế, xã hội cảu chúng ta thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân. Vấn đề này xứng
đáng có một bài viết riêng. Không khai triển mọi thứ, chúng ta chỉ cần lưu ý rằng
tiến bộ kỹ thuật thúc đẩy ảo tưởng rằng mỗi người đếu có thể tự xoay xở một
mình.
7. Kết luận
Nguyên tắc tham gia kêu gọi những gì tốt nhất của con người, sự tự do và tính sáng tạo của họ. Nó sẽ luôn là một hành động cá nhân mà chúng ta thực hiện với và cho người khác. “Phẩm giá của nhân vị đòi hỏi mỗi người phải hành động theo một quyết tâm có ý thức và tự do. Trong đời sống xã hội, đặc biệt chính từ các quyết định cá nhân mà chúng ta phải mong đợi sự tôn trọng các quyền lợi, việc thực hiện các bổn phẩn, sự cộng tác vào nhiều hoạt động. Cá nhân sẽ phải trưởng thành ở đó bằng xác tín cá nhân; bằng sáng kiến của mình, bằng ý thức của mình về các trách nhiệm chứ không phải dưới tác động của những cưỡng bức hay áp lực bên ngoài”[39].
Tý Linh
(theo: https://www.doctrine-sociale-catholique.fr/les-principes/216-participation)
Nguồn: xuanbichvietnam.net (22.07.2023)
[14] Lc 9, 13. Chúa Giêsu sẽ sai các môn đệ
đi truyền giáo từng hai người một (Lc 10, 1) và trong những lời cuối cùng của
mình, Ngài sẽ yêu cầu các ông làm chứng cho Ngài (Lc 24, 48).
[17] Leo Moulin khai triển ý tưởng rằng các dòng đan tu cũng như Hy Lạp Cổ đại là mô hình của nền dân chủ phương Tây. “Les origines religieuses des technique électorales et délibératives moderne”, Politix. Revue des sciences sociales du politique Année 1998 43 pp. 117-162
[18] Khi nói điều đó, thánh Catarina Siêna đặt
vấn đề về mục đích phổ quát của của cải và việc sử dụng quyền tư hữu.
[29] Christifideles Laici §2 dựa vào Mt 20,
6-7. Xem thêm trong Laudato Si: “Đặc
biệt, các Kitô hữu biết rằng bổn phận của họ ở trong công trình tạo dựng và bổn
phận của họ đối với thiên nhiên và Đấng Tạo Hòa là một phần không thể thiếu
trong đức tin của họ”.
[31] Simone Weill, L’enracinement, 1943. Trong phần dẫn nhập, bà nhắc nhở chúng ta rằng các
quyền lợi không tự tồn tại. “Việc
thực hiện hiệu quả một quyền lợi không đến từ người sở hữu nó nhưng từ những
người khác, những người nhận ra mình có nghĩa vụ về điều gì đó đối với người ấy.
Vì thế, nghĩa vụ có hiệu lực ngay khi nó được nhìn nhận”. Như thế, “khái niệm nghĩa
vụ trỗi vượt hơn khái niệm quyền lợi vốn phụ thuộc và liên quan đến nó. Một quyền
lợi không có hiệu lực nơi chính nó, nhưng chỉ thông qua nghĩa vụ tương ứng với
nó”.
[35] Được thành lập vào năm 1957 bởi Cha
Joseph Wresinski, nó đặc biệt dựa vào di sản giáo dục phổ thông do Paulo Freire
phát triển.
[36] Cf. Diễn văn của Đức Piô XII nhân kỷ niệm
50 năm Rerum Novarum: “Sự
thiện và sự dữ của các linh hồn tùy thuộc và được xâm nhập từ hình thức được
trao cho xã hội, hòa hợp hay không với các lề luật của Thiên Chúa”.
[37] Caritas In Veritate, CV 7. Do đó, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ nói về nền sinh
thái xã hội. “Nền sinh thái xã hội nhất
thiết mang tính thể chế và dần dần đạt đến các chiều kích khác nhau vốn đi từ
nhóm xã hội cơ bản là gia đình, ngang qua cộng đồng địa phương và Quốc gia, cho
đến đời sống quốc tế. Trong mỗi cấp độ xã hội và giữa chúng, được phát triển
các thể chế vốn điều chỉnh các mối tương quan nhân loại. Tất cả những gì gây hại
cho chúng đều có tác hại, chẳng hạn như mất tự do, bất công và bạo lực”.(Laudato Si’, § 139)
[39] Gioan XXIII, Pacem in terris, PT 34