NGHỆ THUẬT GIÁO DỤC CON CÁI
Lm. Giuse Đặng Chí Lĩnh
WGPSG (15.8.2020)
– Giáo dục là nghệ thuật dẫn đưa và thúc đẩy tiềm năng của cá nhân. Người làm
công tác giáo dục tương tự công việc của một người hộ sinh, nghĩa là giúp trẻ
sinh ra và có cuộc sống tự lập. Vì là một nghệ thuật, thế nên giáo dục không giống
kiểu công thức có sẵn như mì ăn liền và có giá trị cho mọi trường hợp được.
Trách nhiệm của
cha mẹ trong việc giáo dục con cái là hướng dẫn từng bước để chúng sống tự lập.
Cha mẹ không chỉ dạy dỗ, hướng dẫn, đồng hành với con cái, mà còn phải giúp
chúng biết chịu trách nhiệm về những nhu cầu cá nhân và biết tự giáo dục.
I. Vai trò của các mô hình giáo dục
tính tự lập
Cách thức giáo dục
con cái –có thể tạo thuận lợi hoặc cản trở sự tự lập – sẽ đưa đến những kết
quả khác nhau trong tiến trình phát triển và hạnh phúc của chúng.
Có rất nhiều cách
để mô tả hành vi của cha mẹ đối với con cái. Ở đây chúng ta nói đến hai
khía cạnh quan trọng trong cách hành xử của cha mẹ:
- Những đòi hỏi của cha mẹ (demandingness): đó là những điều mà
cha mẹ yêu cầu con cái phải cư xử đúng mực và sống có trách nhiệm tương ứng với
lứa tuổi của chúng, những quy tắc chính đáng phải tuân thủ trong đời sống
hằng ngày về các sinh hoạt, giờ giấc, ăn uống, ngủ nghỉ, học tập, sống đạo.
- Những đáp ứng của cha mẹ (responsiveness): đó là những hỗ trợ, nâng
đỡ về mặt tinh thần lẫn vật chất của cha mẹ trước những đòi hỏi chính đáng của
con cái.
Từ hai khía cạnh trên trong cách giáo dục của cha mẹ, chúng ta có bốn mô hình giáo dục sau:
1. Uy tín: cả hai khía cạnh đều ở mức cao
Cha mẹ có uy tín vừa đầy tình thương nhưng cũng rất cương nghị. Họ xác định những chuẩn mực tương xứng với lứa tuổi của con cái và buộc chúng phải nghiêm túc tuân thủ. Họ giúp con cái phát triển sự tự lập và tự quyết nhưng họ vẫn đảm đương trách nhiệm cuối cùng về hành vi của con cái. Cha mẹ cùng giải quyết với con cái những khó khăn, trao đổi và giải thích cho chúng những vấn đề liên quan đến kỷ luật. Cha mẹ thiết lập những kỷ cương cần tuân thủ, nhưng không phải là những luật lệ cứng ngắc, mà phải uyển chuyển và hướng đến việc thảo luận, đối thoại cách cởi mở và chân thành. Ngoài ra, các quy tắc phải được giải thích và thực thi trong bầu không khí của sự gắn kết, yêu thương và công bằng. Tình thân gia đình, sự nâng đỡ, khích lệ về tinh thần lẫn việc chu cấp những đòi hỏi thiết yếu và chính đáng của con cái sẽ giúp chúng biết tự chủ và sống có trách nhiệm.
2. Độc đoán: cha mẹ đòi hỏi con cái nhiều (khía cạnh thứ nhất ở mức cao), nhưng lại không quan tâm và đáp ứng đúng mức những nhu cầu chính đáng của chúng (khía cạnh thứ hai ở mức thấp).
Cha mẹ độc đoán
thường chỉ đưa ra mệnh lệnh và kỷ luật phải tuân thủ. Họ không thích trao đổi,
thảo luận bởi vì họ cho rằng con cái cần chấp nhận vô điều kiện các chuẩn mực bất
biến của họ. Những bậc cha mẹ theo phương cách giáo dục này không khuyến khích
mà lại giới hạn tính tự lập của con cái. Trong các gia đình độc tài, nơi mà các
quy tắc được thực thi một cách cứng nhắc, và rất hiếm khi có sự giải thích hay
điều chỉnh, dễ xảy ra những khó khăn, nhất là trong giai đoạn con cái đến tuổi
vị thành niên. Cha mẹ độc đoán nghĩ rằng việc con cái không lệ thuộc vào họ là
dấu hiệu sự nổi loạn và thiếu tôn trọng người lớn, và họ sẽ tìm cách ngăn cản
tính độc lập của chúng. Thay vì khuyến khích sự tự lập, cha mẹ độc tài vô tình
có thể giữ sự phụ thuộc của con, không cho phép chúng học cách tự đưa ra quyết
định và chịu trách nhiệm về việc mình làm. Trong trường hợp con cái ở ngoài tầm
kiểm soát của cha mẹ kèm với việc thiếu tình thương của cha mẹ, trẻ ở tuổi vị
thành niên có thể công khai nổi loạn chống lại cha mẹ hòng khẳng định sự độc lập
của mình. Tuy nhiên, trong những trường hợp này, các cuộc nổi loạn không phải
là dấu hiệu của sự độc lập thực sự về mặt tình cảm, mà chỉ là một cuộc dấu chỉ
cho thấy sự thất vọng của tuổi vị thành niên trước sự cứng nhắc quá mức và thiếu
hiểu biết của cha mẹ.
3. Nhu nhược và nuông chiều: ngược với mô hình thứ hai, nghĩa là cha mẹ
ít đưa ra những đòi hỏi (khía cạnh thứ nhất ở mức thấp), nhưng bày tỏ tình
thương và sự nuông chiều thái quá (khía cạnh thứ hai ở mức cao)
Cha mẹ theo mô
hình này biểu lộ sự nhân nhượng và thụ động đối với vấn đề kỷ luật. Họ chỉ đòi
hỏi con cái vài thứ lặt vặt và cho chúng tự do hành động như chúng muốn. Họ
nghĩ rằng sự kiểm soát là một trở ngại cho việc tự do hành động, và như thế sẽ
cản trở sự phát triển lành mạnh của con cái nói chung. Thay vì lưu tâm đến hành
vi của con cái, họ lại xem mình như nguồn tài nguyên mà con cái có thể khai
thác tùy thích.
4. Dửng dưng: cả hai khía cạnh đều ở mức thấp
Cha mẹ thờ ơ với
bổn phận nhằm giảm bớt thời gian và công sức cho những tương tác với con cái;
trong những trường hợp cực đoan, họ bỏ bê chúng. Cha mẹ biết rất ít về đời sống
và các hoạt động của con mình, ít quan tâm đến những trải nghiệm của chúng ở
trường và với bạn bè, ít khi nói chuyện với chúng và hiếm khi để tâm đến các
quan điểm của chúng khi chúng phải quyết định điều gì đó. Những bậc cha mẹ theo
mô hình này thường quy hướng mọi sự về mình, và tổ chức gia đình trước hết chỉ
cho nhu cầu và lợi ích bản thân.
Trong những gia
đình theo mô hình thứ ba và thứ tư nảy sinh những vấn đề khác biệt so với các
gia đình độc tài (mô hình thứ hai). Mô hình ba và bốn cho thấy cha mẹ không hướng
dẫn đúng mức con cái khiến chúng không có được những chuẩn mực cho hành vi.
Bốn mô hình giáo
dục nêu trên đưa đến các kết quả khác nhau về sự phát triển tâm lý của trẻ. Con
cái có bố mẹ theo mô hình uy tín dễ thích ứng về mặt tâm lý xã hội, sống có
trách nhiệm, tự tin, thích nghi, sáng tạo, ham thích học hỏi, có kỹ năng xã hội
tốt hơn và thành công hơn ở trường học so với các bạn đồng trang lứa mà được
giáo dục theo các mô hình khác. Ngoài ra các trẻ này thường cảm thấy hạnh phúc,
có đời sống tâm lý ổn định, và chúng cảm thấy hài lòng với những mối quan hệ
trong gia đình.
Trẻ có cha mẹ độc
đoán thường sống phụ thuộc, thụ động, ít thích ứng về mặt xã hội, kém tự tin và
ít ham thích học hỏi.
Còn các em có bố
mẹ nuông chiều thì kém trưởng thành, sống thiếu trách nhiệm, thích sống tuân thủ
hơn là giữ các vị trí lãnh đạo.
Con cái của cha mẹ
dửng dưng thường bốc đồng và nhiều khả năng sau này chúng sẽ tham gia vào các
hành vi nguy cơ (tình dục bừa bãi, rượu chè, ma túy, phạm pháp).
II. Tại sao mô hình uy tín có tính ưu việt?
Trước hết, mô
hình này mang lại cho trẻ một sự cân bằng tối ưu giữa kiểm soát và được phép,
mang lại cho chúng tính độc lập, cung cấp cho chúng cơ hội để phát triển khả
năng tự quyết và đồng thời cung cấp các tiêu chuẩn, giới hạn rạch ròi và những
hướng dẫn khi chúng cần đến. Chúng có được sự tự lập theo kiểu tiệm tiến, và điều
này giúp chúng tự tin và tự quyết. Mô hình này cũng thúc đẩy sự phát triển các
kỹ năng và tăng cường khả năng đề kháng những ảnh hưởng tiêu cực, bao gồm những
căng thẳng và những ảnh hưởng xấu của bạn bè.
Kế đến, các bậc
cha mẹ theo mô hình này đối thoại nhiều với con cái, thế nên chúng phát triển tốt
về mặt trí tuệ là cơ sở của sự trưởng thành về tâm lý xã hội. Các cuộc thảo luận
trong gia đình, việc giải thích các quyết định, quy tắc và kỳ vọng từ phía người
lớn giúp trẻ hiểu được hệ thống xã hội và quan hệ xã hội.
Thứ ba, vì mô
hình uy tín dựa trên mối quan hệ yêu thương, cho nên con cái sẽ gắn bó với cha
mẹ và lưu tâm đến những bận tâm của cha mẹ. Điều này tạo điều kiện cho những ảnh
hưởng tốt của cha mẹ trên con cái về những giá trị cũng như cách ứng xử.
Cha mẹ uy tín có
trách nhiệm đối với con cái, biết cách hướng dẫn và đồng hành với chúng. Họ rất
nhạy cảm với nhu cầu của con cái, nhưng họ cũng tính đến khả năng của họ trong
việc giải quyết những nhu cầu chính đáng của con cái. Họ khuyến khích con cái
trao đổi về những đòi hỏi của chúng. Họ thảo luận với chúng về những lối hành xử
trong những tình huống khác nhau. Họ cũng đánh giá cao và khuyến khích sự phát
triển của một ý chí tự chủ của con cái, đưa ra những quy tắc về trách nhiệm
tương xứng với từng lứa tuổi, và hướng chúng đến việc tự rèn luyện kỷ luật bản
thân.
Tóm lại, trong
lãnh vực giáo dục nói chung, mô hình uy tín thích hợp hơn các mô hình khác. Mô
hình này giúp con cái và người thụ huấn nói chung phát triển tư duy phê phán, sự
tự tin, tự chủ, và cảm thấy hạnh phúc. Mô hình này cho phép người ta có được
cách hành xử trưởng thành và đúng mực trong những tình huống khác nhau của cuộc
sống.
Nguồn: WGPSG
SÁCH THAM KHẢO
CICOGNANI E. – B. ZANI, Genitori e adolescenti, Roma, Carocci, 2003.
MAIOLO G., L’occhio del genitore. L’attenzione ai bisogni psicologici dei figli, Trento, Erickson, 2000.
MAIOLO G., Adolescenze spinose. Come comunicare senza fare (e farsi) del male, Trento, Erickson, 2002.
PALMONARI A., Gli adolescenti, Bologna, il Mulino, 2001.
RENAUD H. – J. P. GAGNÉ, Essere
genitore. Avviamento alla professione, Milano, San Paolo, 2003.