LOAN BÁO TIN MỪNG TẠI CHÂU Á TRONG THIÊN NIÊN KỶ III:
NHỮNG THÁCH THỨC CHO CHÂU LỤC VÀ CHO THẾ GIỚI
TGM. Felix Machado, Vasai, Ấn Độ[1]
Bản dịch: Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên
Nhập đề
Hội Thánh và mọi phần tử của Hội Thánh mang bản
chất ‘truyền giáo’ do sứ mạng Thiên Chúa trao. Sứ mạng không thay đổi của Hội
Thánh cũng phải tiếp tục hôm nay trong thiên niên kỷ 3, tại Châu Á và trên toàn
thế giới. “Sứ mạng mà Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc đã ủy thác cho Giáo hội còn rất
lâu nữa mới có thể hoàn tất... sứ mạng ấy vẫn mới chỉ bắt đầu, nên chúng ta cần
phải hết sức dấn thân cho công việc này”.[2]
Nền tảng sứ mạng
của Hội Thánh là chính Đức Kitô, “Ánh Sáng thế gian” được sai đến vì “Thiên
Chúa quá yêu thương thế gian” (Ga 3, 16). Làm chứng cho Chúa Giêsu và rao giảng
Người như là Đấng Cứu Thế độc nhất cho toàn thể loài người chính là nội dung sứ
mạng Kitô giáo. Nội dung việc rao giảng luôn luôn là Đức Kitô, Đấng hoàn thành
việc giải phóng trọn vẹn và đích thực khỏi mọi sự dữ, tội lỗi và sự chết, và nhờ
Người mà Thiên Chúa thông truyền chính sự sống của Ngài cho chúng ta. Đây là
Tin Mừng mà mọi người trên trái đất có quyền được nghe biết. Trong Tông thư hậu-Thượng
Hội đồng, Ecclesia tại Châu Á, Đức
giáo hoàng Gioan Phaolô II giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho người dân Châu Á như
là Đấng “đã đến để mọi người được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Đấng Cứu
Thế sinh ra tại Châu Á. Chúng ta phải coi việc rao giảng về Người tại châu Á là
một ân huệ cho châu Á. Mặc khải đầy đủ về Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô không
chống lại các ước vọng thâm sâu của con người; hơn nữa, mặc khải này làm thoả
mãn sự đói khát của mọi cõi lòng con người, vượt quá mọi mong đợi. Chính vì lý
do này, việc rao giảng Đức Giêsu Kitô không thể bị áp đặt, nhưng được đề nghị tại
châu Á, vì nó chỉ có thể mang lại kết quả nếu được đón nhận một cách tự do và
yêu mến.
Công đồng Vatican II có một mối quan tâm tới
toàn thế giới. Sắc Lệnh Ad Gentes về
Hoạt động truyền giáo của Hội Thánh đã đưa thêm một chiều kích thiết yếu và phổ
quát vào việc truyền giáo, bằng cách vạch ra những vùng đất trên địa cầu, đặc
biệt tại châu Á và châu Phi, những nơi mà các nền văn hoá khác nhau và dân số
đông đảo vẫn còn chưa được biết đến Tin Mừng. Trong bối cảnh con người đang đi
tìm sự thống nhất của thế giới, văn kiện này nhấn mạnh vào kế hoạch của Thiên
Chúa, đó là “toàn thể loài người phải tạo thành một Dân của Thiên Chúa.” Ad Gentes tập trung vào việc làm cho Hội
Thánh hiện diện tích cực từ bên trong và
gắn liền với những nền văn hoá đa dạng ngoài Kitô giáo đang phát triển tại nơi
Hội Thánh hiện diện.
Tông huấn Evangelii
Nuntiandi về Loan báo Tin Mừng trong Thế giới ngày nay đặt sứ mạng Kitô
giáo trong bối cảnh rộng lớn của nó và cho nó một bản sắc mới. Tông huấn định
nghĩa truyền giáo là “đưa Tin Mừng vào mọi môi trường nhân loại và, nhờ sự tiếp
xúc này, biến đổi nhân loại từ bên trong và đổi mới nhân loại”.[3]
Toàn thể văn kiện đều nói đến chủ đề đổi mới, dù trên bình diện cá nhân, xã hội
hay toàn cầu, vì văn kiện nói, “Hội Thánh loan báo Tin Mừng khi Hội Thánh, chỉ
nhờ vào sức mạnh thần linh của sứ điệp mà mình loan báo, tìm cách hoán cải cùng
lúc lương tâm cá nhân và tập thể của con người, các sinh hoạt và các môi trường
sống cụ thể của họ”.[4]
Evangelii
Nuntiandi trình bày Truyền giáo như một thực tại phức
tạp, liên kết, bổ túc và mạch lạc.[5]
Thay vì chia cắt thế giới thành các khối Kitô giáo và ngoài Kitô giáo, Evangelii Nuntiandi nhìn thế giới như một
thực tại phức tạp, đa dạng, nghĩa là thế giới phi Kitô hoá, thế giới của những
con người thuộc các truyền thống tôn giáo khác nhau, thế giới của những người
không tin, những người không thực hành đạo và những người dửng dưng với chân lý
tôn giáo, v.v... Đi theo giáo huấn của Công đồng Vatican II, Evangelii Nuntiandi đặt hoạt động truyền
giáo xoay quanh con người và trong sự tôn trọng đầy đủ tự do của con người.
Redemptoris
Missio xác định rõ căn tính của thế giới hôm nay và
cho thấy căn tính ấy ảnh hưởng tới việc thực hành truyền giáo hôm nay như thế
nào: hiện tượng di dân, đô thị hoá, chủ nghĩa tương đối, khuynh hướng tục hóa và trần thế hóa ý niệm về ơn cứu độ, chủ nghĩa
đa nguyên, chủ nghĩa duy vật và sự tìm kiếm cái thánh thiêng. Redemptoris Missio cũng lưu ý tới những
giá trị thiết thân với cõi lòng con người hôm nay và tạo thành những đặc trưng
và những đòi hỏi của cuộc đối thoại đại kết và liên tôn, thái độ vị tha và bác
ái, chất lượng hiện hữu cao hơn sở hữu, công việc chứng tá, v.v... Các yếu tố
có vẻ tương phản nhau đã được tích hợp và kết hợp hài hoà trong Redemptoris Missio: đối thoại và rao giảng,
thăng tiến nhân bản và hội nhập văn hoá, sự hiện diện chứng tá và hoạt động,
công lý và linh đạo, thực tại xã hội và thực tại tôn giáo, canh tân Kitô giáo
và cứu độ phổ quát, v.v...
Redemptoris
Missio cũng làm sáng tỏ một số thuật ngữ thường dùng
trong thần học truyền giáo: thuật ngữ ‘truyền giáo’ được dùng để chỉ về hoạt động
toàn cầu của Hội Thánh, trong khi thuật ngữ ‘loan báo Tin Mừng’ (hay ‘phúc âm
hoá’) được dùng để chỉ việc rao giảng Lời Chúa bằng tất cả các cách thức khác
nhau.[6]
Truyền giáo không chỉ là một bổn phận thường xuyên của Hội Thánh và của mọi tín
hữu nhưng còn là một cơ hội để canh tân Hội Thánh, tạo sức sống mới cho đức tin
và căn tính Kitô hữu, cống hiến niềm phấn khởi và kích thích mới. Theo nghĩa
này, chúng ta có thể gọi truyền giáo là “mẹ của thần học” như lời Martin Kahler
nói vào cuối thế kỷ 20.[7]
Redemptoris
Missio cống hiến một hướng đi mới cho truyền giáo để
đáp ứng các nhu cầu mới của thế giới hôm nay. Nó cho thấy rằng các chân trời
truyền giáo là vô hạn vì vai trò cứu độ và phổ quát của Đức Kitô.
Bối cảnh châu Á
Về mặt địa dư, châu Á có thể chia thành 5
vùng:
1. Tây Á (Trung Đông), đa phần là các tín đồ Hồi
giáo, với một nhóm ít người theo đạo Kitô và Do Thái;
2. Bắc Á, hay Sibêria thuộc châu Á, chủ yếu gồm
người Hồi giáo;
3. Nam Á, tiểu lục địa Ấn Độ, chủ yếu gồm người
Hinđu và Phật giáo, với một nhóm đáng kể những người Hồi giáo, Kitô giáo và các
tôn giáo khác;
4. Đông Nam Á, trong đó có các nước Đông
Dương, chủ yếu gồm những người theo đạo Phật và Lão, với một sự hiện diện có ảnh
hưởng của một số người Kitô giáo;
5. Đông Á, Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên,
chủ yếu gồm những người theo đạo Phật và Lão, với những nhóm ít người theo Thần
Đạo và Khổng giáo.
Trong khi tại Trung Đông, và cả Afghanistan,
Pakistan, Bangladesh, Inđônêsia và Brunêi, dân số đa phần là những tín đồ Hồi
giáo, thì tại Nêpal và Ấn Độ, dân số đa phần theo đạo Hinđu. Đa số dân chúng ở
Sri Lanka, Myanmar và Thái Lan theo Phật giáo. Một nửa dân số Malaysia theo Hồi
giáo. Một số khá đông dân tại Triều Tiên và Nhật Bản theo Phật giáo. Tại
Philíppines, dân số đa phần là Kitô hữu, với một nhóm nhỏ theo Hồi giáo. Tại hầu
hết các nước châu Á, số người theo các tôn giáo truyền thống (bộ lạc, sơ khai,
bản xứ) không phải là ít. Số tín đồ theo Thần Đạo tại Nhật Bản có thể tương đối
ít nhưng không thể coi nhẹ ảnh hưởng của Thần Đạo đối với mọi người dân Nhật.
Cũng có những người theo Bái Hoả giáo, Kỳ Na giáo (Jainism), và đạo Xích (Sikhism),
họ sống chủ yếu tại Ấn Độ. Cũng cần phải nói rằng tất cả các xã hội tại châu Á
đều có cấu trúc đa tôn giáo ở một mức độ nào đó. Mặc dù các tín hữu Kitô chỉ
chiếm một thiểu số tại toàn thể châu Á, nhưng có thể nói sự hiện diện của Hội
Thánh có một ảnh hưởng sâu sắc.
Chúng ta có thể thấy Liên Hội Đồng Giám Mục Á
Châu có một tác động quan trọng đối với sự phát triển và tăng trưởng về đời sống
thiêng liêng và thần học của Hội Thánh tại châu Á. Có thể nhấn mạnh một ít điểm
sau đây: 1) Dấn thân và phục vụ đời sống; 2) Phân tích biện chứng về xã hội; 3)
Suy niệm nội quan và có phê phán; 4) Đối thoại ba chiều với các nền văn hoá,
các tôn giáo và người nghèo; và 5) Tìm kiếm sự hài hoà trong nhiệm vụ suy tư thần
học trong môi trường châu Á.
Một vài đặc điểm của xã hội hôm nay
Xã hội ngày nay lại chẳng mang dấu ấn của niềm hi vọng bị
tan vỡ đó sao?[8]
Năm 2000, chúng ta đã tưởng một trang mới đang
được lật qua―từ hai cuộc thế chiến (hàng triệu người bị giết tại Đức, Nhật,
Liên Xô, Trung Quốc)―bύớc sang một kỷ nguyên hoà bình. Chúng ta đã hi vọng rằng
hoà bình và thịnh vượng sẽ ngự trị trên các xã hội chúng ta. Chúng ta đã hi vọng
rằng bức tường Bá Linh sụp đổ năm 1989 sẽ chấm dứt mọi thù nghịch và xung đột để
mở đường cho dân chủ và tình đoàn kết. Nhưng sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001
và các sự kiện tiếp theo trên khắp thế giới đã nhắc cho chúng ta rằng xung đột
vẫn còn tiếp diễn. Tình hình ngày càng tồi tệ tại Irắc và Afghanistan và việc
trợ giúp nhân đạo khẩn cấp tại châu Phi làm gia tăng các mối hoài nghi của
chúng ta. Xã hội hôm nay mang một số nét đặc biệt: 1) được ghi dấu bằng chủ
nghĩa cực đoan; 2) bao gồm những người di dân; 3) sự tìm kiếm căn tính sắc tộc,
văn hoá và tôn giáo; 4) nổi bật đà gia tăng tiến trình toàn cầu hoá; và 5) nổi
bật tình trạng gia tăng chủ nghĩa quân phiệt, v.v…
Tôi xin được khai triển thêm về từng điểm một:
1) Chủ
nghĩa cực đoan (hay chủ nghĩa cơ bản―fundamentalism), thuật ngữ được tạo ra
vào những năm 1920 trong giới Tin Lành, là một phong trào chủ động chứ không thụ
động. Ban đầu, những người theo chủ nghĩa cực đoan (fundamentalists) có nghĩa là “những người muốn chiến đấu vì những
điều cơ bản (fundamentals)’. Vì vậy
chủ nghĩa cực đoan là một khái niệm tương đối mới, cả về nguồn gốc và sự phát
triển của nó. Sau đây là một định nghĩa về chủ nghĩa cực đoan: “Có nghĩa là rao
giảng về việc đòi lại uy quyền đối với một truyền thống thánh cần phải được tái
lập để làm chất giải độc cho một xã hội đã xa rời nguồn gốc văn hoá của nó”. Những
người theo chủ nghĩa cực đoan là những người thường phủ nhận sự phân biệt triệt
để giữa cái linh thánh và cái thế tục đã phát triển theo trào lưu hiện đại hoá.
Chúng ta có thể vạch ra 5 đường lối của chủ nghĩa cực đoan: a) Chủ nghĩa cực
đoan đối kháng, có tính chiến đấu, phản
ứng lại những gì được coi là mối đe doạ cho căn tính cốt tuỷ của những người
theo phong trào này. b) Nó chiến đấu cho
một thế giới quan đã được truyền lại để bảo vệ thế giới ấy, bằng vũ lực nếu cần.
c) Nó chiến đấu với một số ý tưởng
nòng cốt đã được chọn vì các ý tưởng này củng cố căn tính. d) Nó chiến đấu chống lại mọi đối lập, dù bên
ngoài hay bên trong. Vì vậy nó có khuynh hướng mất kiên nhẫn đối với những người
ôn hoà hay thoả hiệp. e) Nó chiến đấu dưới
lá cờ tôn giáo, nghĩa là dưới uy quyền của Thiên Chúa hay nhân danh một hình thức
siêu việt nào đó.
Về những nguyên nhân của chủ nghĩa cực đoan,
chúng ta có thể nói đến:
a) mặc cảm sợ hãi là nguyên nhân đầu tiên. Sự
sợ hãi này bắt đầu xuất hiện và gia tăng khi thế giới trải qua những thay đổi
văn hoá nhanh chóng do công nghệ và truyền thông hiện đại mang đến. Những thay
đổi đột ngột này dẫn đến sự phân hoá các nền văn hoá. Khi văn hoá bị phá vỡ,
người ta đâm ra lo âu sợ hãi.
b) Cảm giác thất vọng ở mức độ rộng của quần
chúng là một nguyên nhân nữa của chủ nghĩa cực đoan. Thất vọng trước tình hình
hiện hữu và sự hình thành phản ứng sau đó cùng với ước muốn trở về lại tình trạng
“tinh tuyền” và “chân chính” nguyên thuỷ của tôn giáo liên hệ, đó là những căn
nguyên của chủ nghĩa cực đoan tôn giáo.
c) Chúng ta cũng có thể kể đến các nhu cầu tâm
lý, như nhu cầu quyền lực, tự tin, thoải mái, sự bảo vệ và sự an toàn, của những
người theo chủ nghĩa cực đoan.
2) Xã hội
gồm những người di dân: Nếu lấy xã hội phương Tây làm ví dụ, chúng ta thấy
rằng vì là xã hội giàu có về kinh tế và quyền lực, nó thu hút những di dân từ
các nước nghèo và bất ổn hơn về mặt chính trị. Những di dân này thường thuộc
các tôn giáo khác nhau. Với hiện tượng toàn cầu hoá gia tăng trên trái đất này,
nhiều người thuộc một truyền thống tôn giáo cụ thể bị thu hút bởi các Phong
Trào Tôn Giáo Mới hay thậm chí bởi đủ loại giáo phái. Trong xã hội hiện đại,
tôn giáo có vẻ như bị gạt ra bên lề. Người ta có vẻ như di chuyển khắp
nơi―trong nước hay vượt qua biên giới. Người ta mang theo các nền văn hoá, các
niềm tin tôn giáo, các lịch sử, v.v… của họ. Mặc dù bề ngoài xem ra như có sự
hoà nhập, trên thực tế thế giới gồm những người gắn bó với các nền văn hoá, các
tôn giáo và các lịch sử riêng của mình, họ sống cạnh nhau nhưng không thực sự gần
gũi, gặp gỡ nhau.
3) Tìm
kiếm căn tính sắc tộc, văn hoá và tôn giáo: Sống trong ‘ngôi làng toàn cầu’
hôm nay, con người sợ đánh mất căn tính văn hoá và tôn giáo của mình. Nỗi sợ
này khiến cho các tín đồ của các tôn giáo thiếu sự tin tưởng lẫn nhau; ví dụ,
các tín đồ Hinđu sống tại Ấn Độ dưới chế độ dân chủ thế tục, hay những người Hồi
giáo nhập cư tại các nước phương Tây. Trong cuộc tìm kiếm căn tính tôn giáo của
mình, cần lưu ý rằng, trước hết, không thể sử dụng một tiêu chuẩn duy nhất nào
để đánh giá về ý nghĩa và tính nhất quán, vì mỗi truyền thống tôn giáo đều dàn
trải trong một thời gian rất dài và một không gian bao la. Thứ hai, nhiều truyền
thống tôn giáo hiểu những phát biểu về chân lý của họ có giá trị phổ quát về bản
chất và tầm quan trọng. Tìm hiểu căn
tính tôn giáo của một người không thể chỉ bị giới hạn vào những tình cảm tiêu cực
mà mình cảm thấy do các sự kiện lịch sử (vd., chế độ thực dân), nhưng phải quan
tâm đến những thành tựu của truyền thống tôn giáo, sức sống của những tư tưởng
thuộc truyền thống ấy và tính sáng tạo trong những khát vọng của nó. Thứ
ba, cần phải giữ sự phân biệt giữa căn tính và sự đồng hóa. Hai yếu tố này
không thể tách rời nhưng không phải là một. Thứ tư, tìm kiếm căn tính tôn giáo
phải là sự ‘trung thành với cội nguồn’ chứ không phải là ‘trở về với một ý hệ
nào đó’ được hình thành bằng việc làm sống lại quá khứ. Công việc phải làm là
tìm lại các giai đoạn phát triển của một truyền thống tôn giáo trong quá trình
lịch sử của nó. Tìm kiếm căn tính tôn giáo phải là tìm kiếm ‘sự cải tổ bên
trong’. Qua việc ‘trở về cội nguồn’, người ta có thể nhận được của nuôi dưỡng sự
tăng trưởng để sống trong hiện tại; họ có thể khám phá ra những tấm nhìn mới và
những chiến lược hành động mới. Nhưng khi tôn giáo trở thành một công cụ để
thao túng trong tay những nhà chính trị ích kỷ, thì sẽ chỉ dẫn đến một ‘chủ
nghĩa hồi sinh’ quá khứ. Vì vậy vấn đề không phải là tình cảm nuối tiếc trạng
thái hỗn mang nguyên thuỷ, mà là khắc phục sự phân mảnh của đời sống hôm nay. Vấn
đề là tái lập sự hài hoà giữa tất cả các chiều kích của thực tại. Có thể nói
các tôn giáo là những thực thể sống. Các tín đồ cần phải liên tục dấn mình vào
một cuộc canh tân tinh thần bằng cách duy trì lòng trung thành với cội nguồn của
mình.
4) Toàn
cầu hoá hiểu như là một hệ thống áp đặt, mạnh mẽ và tất yếu, nó đã làm gia
tăng những xung đột trầm trọng tại các vùng khác nhau trên thế giới. Có lẽ toàn
cầu hoá đang tạo cơ hội cho nhiều nước đang phát triển, nhưng phải nói rằng
toàn cầu hoá có nghĩa là sự kiểm soát các nền kinh tế thế giới bởi các tập đoàn
khổng lồ không chịu trách nhiệm với bất cứ một cộng đồng hay quốc gia nào. Kết
quả là tình trạng nghèo khó đã trở nên thê thảm tại nhiều vùng trên thế giới.
Toàn cầu hoá dẫn đến một sự gia tăng ý thức về sự lệ thuộc lẫn nhau, bởi lẽ một
hậu quả quan trọng của toàn cầu hoá là một hệ thống thị trường tích hợp và các
công nghệ truyền thông. Sự kiện này kéo theo những hệ luỵ đạo đức.
Toàn cầu hoá cũng là một hiện tượng văn hoá và
xã hội, thậm chí là một hiện tượng tôn giáo. Nó cho ra đời nền văn hoá xuyên quốc
gia cạnh tranh với các nền văn hoá địa phương. Văn hoá toàn cầu này thường được
đồng nhất với văn hoá pop của Mỹ.
Toàn cầu hoá có liên quan tới địa vị thống trị của nền văn hoá xuyên quốc gia
này. Toàn cầu hoá thành công nhờ sự hỗ trợ của các công nghệ truyền thông hiện
đại và quyền kiểm soát các phương tiện truyền thông toàn cầu được củng cố bởi một
số ít tập đoàn. Văn hoá của chủ nghĩa tiêu thụ thường tự khẳng định mình như là
một sức mạnh thế tục hoá trong xã hội. Quyền bá chủ của văn hoá tiêu thụ đòi hỏi
các truyền thống tôn giáo của một xã hội phải thu hẹp vào lãnh vực tư riêng.
Nói khác đi, quyền bá chủ của văn hoá toàn cầu đang là một thách thức tất yếu.
Sự xâm lấn của văn hoá toàn cầu và văn hoá tiêu thụ của nó đang được đáp trả bằng
sự trỗi dậy của các thực tại truyền thống có nguồn gốc nơi sắc tộc, khu vực, và
đặc biệt là tôn giáo. Chúng ta có thể thấy được mối tương quan giữa sự thống trị
của văn hoá toàn cầu với sự xuất hiện của các phong trào tôn giáo cực đoan như
‘Taliban’, Al Qaeda hay Hindutva không? Các nhóm mới này không chỉ thách thức
quyền thống trị của văn hoá tiêu thụ toàn cầu, mà còn phủ nhận cả các truyền thống
đa nguyên, đa sắc tộc của nhà nước-quốc gia: một sự bác bỏ quyền công dân và một
sự trở về với căn tính sắc tộc.
Sau cùng, sức mạnh tục hoá của văn hoá tiêu thụ
toàn cầu đẩy tôn giáo vào lãnh vực tư riêng. Nó gặp phải sự kháng cự của những
người có tôn giáo và sự kháng cự lại xu hướng tư nhân hoá tôn giáo này thường
mang hình thức một sự khẳng định giá trị và căn tính tôn giáo, và khẳng định
cách quyết liệt. Toàn cầu hoá có khuynh hướng tách biệt các tôn giáo ra khỏi mối
quan hệ truyền thống với địa phương. Hậu quả của tất cả những chuyện này có thể
thấy được trong sự xuất hiện của bạo lực vì lý do tôn giáo. Toàn cầu hoá đoạn
tuyệt với các xã hội truyền thống; thế rồi sự kiện này gây ra những cố gắng nhằm
phục hồi tôn giáo (hiểu theo nghĩa nuối tiếc một ý thức cộng đồng đã bị mất),
thậm chí bằng hình thức bạo lực. Có thể đáp lại thách thức của toàn cầu hoá bằng
việc bảo đảm “một sự toàn cầu hoá trong liên đới, một sự toàn cầu hoá không loại
trừ kẻ khác”. Theo nghĩa này, thách thức của toàn cầu hoá cũng có khía cạnh
tích cực của nó là bây giờ chúng ta có rất nhiều phương tiện để trợ giúp nhân đạo
cho các anh chị em túng thiếu của chúng ta, kể cả các hệ thống phân phối hiện đại
về lương thực và quần áo, cung cấp nhà ở và chăm sóc sức khoẻ. Việc chăm lo cho
các anh chị em chúng ta vượt qua biên giới các cộng đồng quốc gia và đã ngày
càng mở rộng không gian của nó tới toàn thể thế giới. “Một trong các dấu chỉ của
thời đại chúng ta, một dấu chỉ đáng chú ý là sự ý thức ngày càng gia tăng và tất
yếu về tình liên đới với mọi dân tộc” (Vatican II, Apostolicam Actuositatem, số 8).
5) Chủ
nghĩa thế tục: Toàn cầu hoá và chủ nghĩa thế tục là hai phong trào chính gắn
chặt vào trong cấu trúc của xã hội và các nền văn minh hiện đại. Sự khác biệt
cơ bản giữa chủ nghĩa thế tục và niềm tin tôn giáo là ở chỗ chủ nghĩa thế tục
quan niệm rằng thế giới chúng ta sống có thể được hiểu hoàn toàn trong thực tại
của nó. Không cần phải có điểm qui chiếu nào khác ngoài ‘lịch sử’, ‘xã hội’ hay
‘nhà nước’ để có thể hiểu được mục đích và hoạt động của con người trong đó và
rút ra những giá trị giúp cho con người hoàn thành vai trò của mình trong vũ trụ.
Chủ nghĩa thế tục không buộc phải nhìn mình bằng con mắt của bất cứ ai ngoài
chính nó.
6) Chủ
nghĩa quân phiệt: Liên quan tới sự gia tăng khổng lồ về chi tiêu quân sự (một
tổng số 900 tỷ đôla hằng năm cho trang bị vũ khí, so với chỉ có 60 tỷ đôla cho
việc trợ giúp phát triển), tôi cảm thấy chúng ta có nhu cầu cấp bách phải dấn
thân theo đuổi một chương trình giải trừ quân bị bằng việc cổ vũ một văn hoá
hoà bình dựa trên nhân phẩm và luật pháp, và bằng một văn hoá đa phương dựa
trên đối thoại và hợp tác chân thành, nhất quán và có trách nhiệm từ mọi phần tử
của cộng đồng quốc tế.
Câu hỏi chúng ta phải đặt ra là: Có thể làm được
gì để huy động các nguồn lực vốn được chi tiêu cho quân sự, nay hướng về những
mục tiêu hoà bình và phát triển đích thực của con người, xã hội và kinh tế? Một
cách nghịch lý, có thể thấy vấn đề an ninh (là mối quan tâm của các chính phủ
và thúc đẩy gia tăng trang bị vũ khí) lại liên kết chặt chẽ với sự phát triển.
Thiếu phát triển thường dẫn đến thất vọng và từ đó khiến cho người ta, đặc biệt
là giới trẻ, tìm đến với những hoạt động mang tính chất khủng bố. Chắc chắn phải
khẳng định một cách tuyệt đối rằng không điều gì có thể biện minh được cho bạo
lực.
Xã hội hôm nay cũng bộc lộ thái độ hoài nghi,
vỡ mộng đối với nền chính trị dân chủ, hoang mang về đời sống gia đình và những
vấn đề về luân lý và đạo đức, tình trạng các thành phố thoái hoá thành những khu
vực nghèo khổ hoang dại và dơ dáy nằm giữa những lâu đài xa hoa sang trọng, sự
xung đột của các chủ nghĩa quốc gia, sự chiếm đoạt các nguồn lực không thể tái
chế vì những lợi ích ngắn hạn, nền kinh tế duy lợi nhuận, chủ nghĩa khoái lạc,
thù ghét người nước ngoài, nạn lao động trẻ em, bóc lột phụ nữ, v.v…
Nền tảng của sứ mạng Kitô giáo: Tình
Yêu
Đức Giêsu Kitô, mặc khải cuối cùng, đầy đủ và
dứt khoát của Thiên Chúa, là tác giả của sứ mạng Hội Thánh. Người nói cho chúng
ta biết Người muốn chúng ta hiểu Người như thế nào: Người là tình yêu. Vì vậy,
người Kitô hữu nhìn nhận rằng tâm điểm cuộc đời mình là tình yêu, tình yêu
Thiên Chúa dành cho mọi người. Tình yêu của Thiên Chúa, được mặc khải nơi Đức
Giêsu Kitô, tạo cho cuộc đời chúng ta hướng đi quyết định. Tình yêu thúc đẩy
chúng ta ra khỏi con người mình để đến với người khác. Mục tiêu tối hậu của
truyền giáo là chia sẻ tình thương của Thiên Chúa với người khác. “Tình yêu” hệ
tại chính sự kiện là, trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa, tôi yêu cả những người
mà tôi không thích hay thậm chí không biết. Tôi chỉ có thể làm được điều này dựa
trên cơ sở một cuộc gặp gỡ thân mật với Thiên Chúa, một cuộc gặp gỡ đã trở
thành một sự hiệp thông của ý chí, và cả tình cảm của tôi, nhưng theo cái nhìn
của Đức Giêsu Kitô. Bạn của Người cũng là bạn của tôi. Vượt lên trên những dáng
vẻ bên ngoài, tôi nhận ra nơi nội tâm người khác một ước muốn tìm thấy một dấu
chỉ yêu thương, quan tâm.. Nhìn bằng đôi mắt của Đức Kitô, tôi có thể cho người
khác nhiều hơn những nhu cầu bên ngoài của họ; tôi có thể cho họ cái nhìn yêu
thương mà họ khao khát”.[9]
“Do đó tình yêu là sự phục vụ mà Hội Thánh thực
thi để không ngừng chăm lo cho những đau khổ và nhu cầu của con người, cả những
nhu cầu vật chất”.[10]
Vì vậy tôi sẽ định nghĩa truyền giáo là việc Hội Thánh phục vụ thế giới và việc
phục vụ này mang nhiều hình thức khác nhau.
Toàn thể sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh bao gồm
các yếu tố khác nhau của tình yêu (phục vụ):
a) truyền giáo bằng sự hiện diện đơn thuần và
chứng tá đời sống Kitô giáo;
b) truyền giáo hàm chứa cả sự dấn thân cụ thể
để phục vụ loài người và mọi hình thức hoạt động để phát triển xã hội và đấu
tranh chống nghèo khổ và các cơ cấu sinh ra nghèo khổ;
c) truyền giáo bao gồm đời sống phụng vụ và cầu
nguyện, chiêm niệm, vốn là những chứng tá hùng hồn về một mối quan hệ sống động
và mang tính giải thoát với vị Thiên Chúa chủ động và chân thực, Đấng kêu gọi mọi
người vào Vương Quốc và vinh quang của Ngài;
d) truyền giáo bao gồm việc đối thoại trong đó
người Kitô hữu gặp gỡ các tín đồ của các tôn giáo khác để đồng hành với nhau
trên con đường chân lý và làm việc chung với nhau trong các dự án mọi người
cùng quan tâm;
e) truyền giáo bao gồm việc loan báo và huấn
giáo, trong đó Tin Mừng Đức Giêsu Kitô được rao giảng và những hoa quả của nó đối
với đời sống được đem ra phân tích.[11]
Chứng tá Kitô giáo
Trong thế giới hôm nay, việc làm chứng về một
đời sống Kitô chân chính trở thành phương tiện đầu tiên để loan báo Tin Mừng.
Trong Tông huấn của ngài, Đức giáo hoàng Phaolô VI nói, “Người đương thời sẵn
sàng nghe những nhân chứng hơn là các thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe các thầy dạy,
thì bởi vì chính các thầy dạy ấy cũng là những nhân chứng”[12]
Hơn nữa, có những hoàn cảnh mà chúng ta không
thể rao giảng công khai về Đức Giêsu Kitô là Cứu Chúa. Trong những hoàn cảnh
như thế, chứng tá của một nếp sống đáng kính và trong sạch, chứng tá của sự
siêu thoát với của cải vật chất, chứng tá của sự tự do trước những quyền lực của
thế giới này, tóm lại là chứng tá của sự thánh thiện―dù chỉ âm thầm―đã là một sự
hoàn thành nhiệm vụ truyền giáo rồi.
Để tránh ngộ nhận rằng loan báo Tin Mừng bằng
chứng tá có nghĩa là một thái độ vô danh, mơ hồ, tầm thường hay thụ động, chúng
ta cần phải suy tư về chủ đề này trong bối cảnh thời các tông đồ. Từ ‘chứng tá’
có gốc tiếng Hi Lạp là martyr, nghĩa
là ‘người làm chứng’, thuật ngữ này sẽ được sử dụng vào cuối thế kỷ 2 và đầu thế
kỷ 3 để chỉ về những tín hữu làm chứng cho Đức Kitô và lời dạy của Ngài bằng
cách hi sinh mạng sống mình (tử đạo). Các tông đồ là những người làm chứng về Đức
Kitô, về cuộc khổ nạn, sự chết và phục sinh của Người, bằng cách hi sinh mạng sống
của các ngài: “Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng; tại các hội đường, anh
em sẽ bị đánh đòn; anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để
làm chứng cho họ được biết.” (Mc 13,
9; xem Cv 22, 17-21).
Vì vậy, làm chứng không phải là một thái độ thụ
động hay yếu hèn, nhưng có nghĩa là tham dự tích cực và đầy đủ vào đời sống và
sứ vụ của Đức Kitô, lấy Người làm mẫu mực. Các vị tử đạo là những người không
chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói nhưng trên hết bằng việc bắt chước Đức
Giêsu là Chúa và là Thầy, sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình.
Mặc dù với đa số chúng ta, thật khó tưởng tượng
cảnh mình bị bắt giữ, bị đưa ra xét xử và kết án tử hình như một nạn nhân anh
hùng vì đức tin và việc sống đạo của mình, nhưng chúng ta vẫn cần là những chứng
nhân trong thế giới hôm nay, nơi mà sự dữ đã trở thành một dịch bệnh và được thể
chế hoá. Thế giới hôm nay bị thống trị bởi chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa khoái lạc,
chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa thờ ơ, v.v… Tất cả những ai
đã được rửa tội đều được mời gọi đương đầu với những thách thức này và những
thách thức khác nữa, trước tiên bằng việc sống chứng tá. Một cách cụ thể, sống
chứng tá chính là sống trung thành với Thiên Chúa giữa cái xã hội duy vật hôm
nay, nơi mà Thiên Chúa và các giới luật của Ngài thường bị nhạo báng và gạt ra
bên lề. Ám chỉ về chứng tá tối thượng của tình yêu đối với mọi người theo gương
Chúa Giêsu, Lumen Gentium khích lệ mọi
Kitô hữu: “‘Thiên Chúa là tình yêu; ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa,
và Thiên Chúa ở trong người ấy’ (1Ga 4, 16). ‘Thiên Chúa tuôn đổ tình yêu vào
lòng chúng ta nhờ Thánh Thần, Đấng đã được ban cho chúng ta’ (Rm 5, 5). Thế nên
ân huệ trên hết và cần thiết nhất chính là đức ái nhờ đó chúng ta yêu mến Thiên
Chúa trên hết mọi sự và yêu người khác vì Thiên Chúa” (số 42). Như thế việc làm
chứng trở nên đồng bản tính với đức tin Kitô giáo.
Trong xã hội ngày càng tục hoá hôm nay, trong
một thế giới phức tạp nhưng đa dạng, cần phải nhấn mạnh về “chứng tá”. Trong
khi không rời xa ý nghĩa thần học thâm sâu của việc tử đạo, người Kitô hữu hôm
nay được mời gọi làm chứng bằng việc sống bác ái, vui tươi, kiên nhẫn, tử tế, tốt
lành, chân thật, tự chủ, từ bi, tha thứ, hoà giải và bình an (xem Gl 5, 22). Chớ
gì người môn đệ Chúa Kitô không bao giờ trở thành nguyên nhân gây chia rẽ hay
khiêu khích của những cuộc tranh cãi hay bút chiến. Chớ gì họ không bao giờ có
ác cảm đối với bất cứ ai; chớ gì họ tránh khỏi mọi thái độ đắc thắng và tự tôn,
và chớ gì họ biểu lộ tinh thần khiêm tốn trước mọi người. Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II khích lệ chúng ta: “Các môn đệ Đức Kitô phải có quả tim dịu hiền và
khiêm nhường của Thầy mình, không bao giờ kiêu căng, không bao giờ hèn yếu khi
đối thoại với các tôn giáo khác (x. Mt 11,
29)”.[13]
Thăng tiến phẩm giá con người
Khoa truyền giáo học cũng phải cung cấp nguồn
lực cho ơn gọi Kitô giáo để đáp lại những câu hỏi mà nhiều người phải đối diện
trong đời sống hằng ngày, đặc biệt là những người nghèo. Nói một cách đơn giản,
nhiều người trên thế giới đang phải đấu tranh để sống xứng với phẩm giá con người.
Bằng việc phân định, khoa truyền giáo học phải có ý thức về các nguyên nhân
phát sinh các xung đột xã hội, ví dụ như khoảng cách ngày càng tăng giữa người
giàu và người nghèo, người có của và người không có gì, v.v... Trong ánh sáng
Tin Mừng, xã hội phải thay đổi để trở nên tốt đẹp hơn và biến đổi triệt để, để
cho thực tại của Nước Thiên Chúa tiếp tục tiến triển.
Việc thăng tiến phẩm giá con người là thành phần
cấu tạo của sứ mạng Hội Thánh. Trong cuộc đấu tranh để giải phóng mọi con người
và toàn thể cộng đồng loài người, người Kitô hữu phải sống liên đới với những
người nghèo, những người bị loại trừ, bị áp bức, bị bóc lột, bị đối xử bất
công. Một cách cụ thể, tình liên đới này có nghĩa là sống với những người nghèo
(‘anawim’: những người cùng khổ chỉ
biết trông cậy vào Thiên Chúa Giavê) này, nói bằng ngôn ngữ của họ, học hỏi lịch
sử của họ, thành thạo phong tục tập quán của họ, giúp họ nắm giữ vận mệnh trong
tay họ, v.v... Việc dấn thân cụ thể cho công lý, trong ánh sáng Lời Chúa, cũng
làm cho chúng ta thêm phong phú và hiểu được ý nghĩa nguyên thuỷ của Lời Chúa.
Như thế, “giảng dạy và phổ biến học thuyết xã
hội của Hội Thánh cũng là thành phần của sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội
Thánh. Vì là một học thuyết có mục đích hướng dẫn hành vi của con người, làm
phát sinh một sự ‘dấn thân cho công lý’, tuỳ theo vai trò, ơn gọi và hoàn cảnh
riêng của mỗi cá nhân.
“Lên án các điều ác và các điều bất công cũng
là thành phần của sứ vụ loan báo Tin Mừng trong lãnh vực xã hội, là một khía cạnh
của chức năng ngôn sứ của Hội Thánh. Nhưng cần phải minh định rằng rao giảng
luôn luôn là việc quan trọng hơn lên án, và việc lên án không thể bỏ qua việc
rao giảng, vì rao giảng tạo cho nó sự chắc chắn và sức mạnh thực sự với động cơ
cao hơn”.[14]
Bối cảnh văn hoá-xã hội của thế giới thì rộng
lớn và khác biệt từ nơi này tới nơi khác và từ người này tới người khác. Hội
Thánh có thể đương đầu với vấn đề này bằng cách tiếp cận từng môi trường xã hội
trong khi lưu ý tới tính chất đa dạng này.
Hợp tác giữa các tín đồ của các tôn
giáo khác nhau
Hội Thánh Công giáo có một chọn lựa rõ ràng và
không thể đảo ngược là đi vào mối quan hệ tích cực với các tín đồ của các tôn
giáo khác. Các lý do của sự chọn lựa này có thể tìm thấy cả ở ngoài và ở trong
mầu nhiệm Hội Thánh, “một dấu chỉ và công cụ của sự hiệp thông với Thiên Chúa
và sự hiệp nhất giữa mọi người”.[15]
Ví dụ, đối thoại liên tôn được nhìn nhận bởi sự kiện đa nguyên tôn giáo trong
thế giới chúng ta; Hội Thánh cũng khẳng định rằng Hội Thánh dấn thân vào việc đối
thoại tôn giáo không chỉ vì các lý do nhân học và xã hội học, nhưng chủ yếu là
vì lý do thần học.
Dựa trên những hướng dẫn rõ ràng, cụ thể và
chính xác lấy từ các giáo huấn của Nostra
Aetate, Hội Thánh Công giáo hiểu về đối thoại liên tôn theo một nghĩa nhất
định. Trong thực hành, Hội Thánh tiếp cận việc đối thoại liên tôn bằng các cách
thức khác nhau: truyền thông hỗ tương, thái độ tôn trọng lẫn nhau và thân thiện,
hành động chung mang tính xây dựng, vâng phục sự thật là điều vượt trên tất cả,
và tôn trọng tự do lương tâm.
Qua đối thoại với các tín đồ của các truyền thống
tôn giáo khác, người Kitô hữu muốn hiểu biết rõ bản thân mình hơn trước mặt các
tôn giáo bạn, muốn hiểu biết các tôn giáo bạn một cách công bằng và trung thực,
xua tan những sợ hãi và hiểu lầm, tiếp nhận ảnh hưởng, nguồn cảm hứng và sự
phong phú của nhau qua đối thoại.
Hội Thánh Công giáo dạy rằng đối thoại liên
tôn là một phần của sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh. Vì vậy, một mặt Hội
Thánh khích lệ các Kitô hữu cởi mở trong đối thoại với các tín đồ của các tôn
giáo khác và các truyền thống của họ, mặt khác Hội Thánh cũng yêu cầu các Kitô
hữu vững vàng không lay chuyển trong chân lý cơ bản về Đức Tin của họ. Hội
Thánh dạy rằng, người Kitô hữu càng trung thành gắn bó với truyền thống của
mình―là môn đệ trung thành của Đức Giêsu Kitô, Lời trở thành xác thịt và là Đấng
cứu chuộc mọi người―và không đầu hàng hay thoả hiệp trong vấn đề đức tin, thì
việc đối thoại của họ càng trở nên trung thực và hiệu quả. Nói cách khác, trong
khi Hội Thánh tham gia đối thoại với các tôn giáo khác và các tín đồ của các
tôn giáo ấy, Hội Thánh cũng muốn rằng việc rao giảng Đức Giêsu Kitô là Chúa và
Đấng Cứu Thế không phải là một chọn lựa tuỳ thích mà là bổn phận quan trọng nhất
của Hội Thánh, và quả thực, là lý do hiện hữu của Hội Thánh.
Mặc dù Kinh Thánh không trực tiếp đưa ra lời dạy
cụ thể nào về đối thoại liên tôn, nhưng chúng ta có thể thấy rõ rằng, đặc biệt
trong Tân Ước, Đức Giêsu khen ngợi người có đức tin vào Thiên Chúa và sẵn sàng
hoán cải cả khi họ thuộc về một truyền thống tôn giáo khác. Thực ra, điều mà Đức
Giêsu tuyệt đối ngăn cấm là tôn thờ ngẫu tượng. Khi cắt nghĩa mầu nhiệm Đức
Giêsu Kitô như là sự hiện diện cứu độ phổ quát và chủ động của Thiên Chúa trong
thế giới (Logos), các Giáo Phụ đã bắt
đầu và khai triển một tư tưởng thần học thâm sâu mà ngày nay đang thúc đẩy những
suy tư xa hơn cho cuộc đối thoại của Hội Thánh với các tôn giáo khác.
Theo đức tin của Hội Thánh, “mặc khải đầy đủ
và hoàn toàn về mầu nhiệm cứu rỗi của Thiên Chúa đã được ban cho trong Đức
Giêsu Kitô, trong khi sự hiểu biết về mầu nhiệm vô biên này còn phải được khai
thác và đào sâu trong ánh sáng của Thần Chân Lý, Đấng hướng dẫn chúng ta trong
kỷ nguyên Hội Thánh để “đi vào sự thật trọn vẹn” (Ga 16, 13)... (Và) liên kết với
tính độc nhất vô nhị của vai trò trung gian cứu độ của Chúa Kitô là tính độc nhất
vô nhị của Hội Thánh mà Người đã lập”.[16]
Do đó, Hội Thánh hoàn toàn ý thức được rằng việc thực hiện đối thoại liên tôn
thực sự cũng nêu lên những vấn đề thần học cơ bản và sâu xa.[17]
Người Kitô hữu trong đối thoại phải luôn luôn
trung thành với đức tin mà mình tuyên xưng. Để làm điều này, họ không cần tỏ ra
cao hơn phía bên kia, hay có thái độ đắc thắng đối với phía đối thoại. Người
Kitô hữu phải nhớ rằng “sự bình đẳng cần có trong đối thoại liên tôn là bình đẳng
về nhân phẩm của các bên đối thoại, chứ không phải bình đẳng về nội dung giáo
lý, càng không phải bình đẳng về địa vị của Đức Giêsu Kitô―Thiên Chúa làm người―trong
tương quan với các vị sáng lập của các tôn giáo khác”.[18]
Nhờ thực hành đối thoại liên tôn, Hội Thánh đã
trở nên ý thức về những sự kiện như: 1) có những yếu tố chân lý và ân sủng (dù
chỉ một phần) trong các tôn giáo khác; 2) đối thoại với tín đồ của các tôn giáo
khác luôn luôn là đối thoại về sự cứu rỗi, dù họ không công khai tuyên xưng đức
tin vào Chúa Giêsu Kitô; 3) đối thoại liên tôn là một nguồn làm giàu lẫn cho
nhau; 4) lời cầu nguyện chân thành của các tín đồ của các tôn giáo khác luôn
luôn hiệu quả vì chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, Đấng lắng nghe mọi lời cầu
nguyện; và 5) cần phải luôn luôn khẳng định “sự duy nhất cơ bản, tuy tiềm ẩn
nhưng triệt để, của gia đình nhân loại được thiết lập giữa mọi người nam cũng
như nữ trên thế giới này”.
Hội Thánh khuyến khích mọi người Công giáo đi
vào đối thoại với các tôn giáo khác, vì “mọi Giáo hội địa phương chịu trách nhiệm
về toàn thể công việc truyền giáo. Hơn nữa, do đức tin và phép rửa của mình, mọi
Kitô hữu được kêu gọi thi hành toàn thể sứ mạng của Hội Thánh ở một mức độ nào
đó. Các nhu cầu của hoàn cảnh, vị trí đặc thù của Dân Thiên Chúa, và đặc sủng của
mỗi cá nhân giúp cho người Kitô hữu hướng các cố gắng của mình chủ yếu vào khía
cạnh này hay khía cạnh khác của sứ mạng ấy”.[19]
Kinh nghiệm những năm gần đây cho chúng ta những
bằng chứng về các cách thức khác nhau được diễn tả trong đối thoại. Có thể nhận
ra bốn hình thức đối thoại: 1) đối thoại đời sống―bao gồm sự quan tâm, tôn trọng
và sự niềm nở đối với người khác; 2) đối thoại hợp tác hay hành động―kêu gọi mọi
Kitô hữu cùng nhau làm việc với từng hay mọi mục tiêu có tính nhân đạo, xã hội,
kinh tế hay chính trị nhằm hướng tới sự giải phóng và thăng tiến nhân loại; 3)
đối thoại chuyên môn―bao gồm đối chiếu, đào sâu và làm giàu di sản tôn giáo của
mỗi bên đối thoại; và 4) đối thoại về kinh nghiệm tôn giáo―bao gồm chia sẻ kinh
nghiệm cầu nguyện, chiêm niệm, đức tin và bổn phận, cũng như cách diễn tả và
cách tìm kiếm của mỗi bên về Đấng Tuyệt Đối.
Hội nhập văn hoá là điều thiết yếu để
rao giảng Tin Mừng một cách mạnh mẽ
Theo giáo huấn của Hội Thánh, hội nhập văn hoá
là một yếu tố sống còn cho việc truyền giáo, vì thiếu yếu tố này, truyền giáo sẽ
bị suy yếu. Mục tiêu của hội nhập văn hoá là “đạt tới sự nhập thể đích thực của
đức tin vào chính cốt tuỷ của mỗi nền văn hoá, hầu hấp thu những giá trị, những
khát vọng đích thực và những tiêu chuẩn cụ thể của mỗi nền văn hoá ấy”. [20]
Ngày nay hội nhập văn hoá được Hội Thánh định nghĩa chính thức là “sự biến đổi
thâm sâu các giá trị văn hoá đích thực nhờ tháp nhập chúng vào Kitô giáo và đưa
Kitô giáo vào trong các nền văn hoá khác nhau của nhân loại”.[21]
Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II cắt nghĩa thêm rằng “Nhờ hội nhập văn hoá, Hội
Thánh về phần mình trở nên dấu chỉ dễ hiểu hơn về mình là gì, và là một công cụ
truyền giáo hiệu quả hơn”; ngài còn khuyến cáo rằng “tiến trình (hội nhập văn
hoá) là một tiến trình sâu xa và toàn diện, nó bao gồm sứ điệp Kitô giáo cũng
như sự suy tư và thực hành của Hội Thánh. Nhưng đồng thời nó là một tiến trình
khó khăn, vì nó hoàn toàn không được phép gây phương hại cho nét đặc trưng và
toàn vẹn của đức tin Kitô giáo”.[22]
Hội nhập văn hoá là một tiến trình liên tục nhờ đó một cộng đoàn Kitô giáo đã
ăn rễ sâu trong nền văn hoá địa phương diễn tả/cử hành và sống đức tin của mình
một cách rất tự nhiên với nền văn hoá ấy. Có hai nguyên tắc định hướng cho mọi
cố gắng hội nhập văn hoá: 1) nó phải luôn luôn phù hợp với Tin Mừng; và 2) nó
không được chia cắt, làm lạc hướng hay biến chất Giáo hội địa phương khỏi mối
hiệp thông với Giáo hội hoàn vũ.[23]
Ơn đức tin được đào sâu khi chúng ta để cho nó
thấm nhập vào cuộc sống chúng ta vốn gắn chặt mật thiết với văn hoá. Mặc dù
“Tin Mừng và loan báo Tin Mừng chắc chắn không đồng hoá với văn hoá.... và
không lệ thuộc vào bất cứ nền văn hoá nào”.[24]
Văn hoá được định nghĩa là hình thức diễn tả
chung được phát triển trong lịch sử về các trực giác và các giá trị đặc trưng
cho đời sống một cộng đồng. Văn hoá là một khái niệm động, không phải một khái
niệm tĩnh. Hội nhập văn hoá là tiến trình qua đó một nền văn hoá cụ thể được tiếp
nhận và thanh tẩy trong ánh sáng mầu nhiệm Đức Kitô, nguyên lý và chuẩn mực của
mọi tiến trình hội nhập văn hoá. Cộng đoàn thời các tông đồ đã thực hiện tiến
trình này liên quan tới văn hoá Do Thái.
Căn tính cơ bản của các cộng đoàn Kitô là đức
tin của Hội Thánh như được dạy bởi Huấn quyền. Đức tin này của Hội Thánh được
nhập thể, vì “đức tin mà không trở thành văn hoá là đức tin không được tiếp nhận
đầy đủ, không được suy nghĩ trọn vẹn và sống một cách trung thành”.[25]
Đức tin làm biến đổi và thanh tẩy văn hoá, nhưng cũng có một tiến trình qua đó
chính đức tin được suy nghĩ lại và cắt nghĩa lại, đương nhiên phải bảo toàn trọn
vẹn sự thật của đức tin. “Nhờ hành động này trong các giáo hội địa phương, Hội
Thánh hoàn vũ được trở nên phong phú với các hình thức diễn tả và các giá trị
trong các lãnh vực khác nhau của đời sống Kitô giáo, như loan báo Tin Mừng, phụng
tự, thần học và các công cuộc bác ái”.[26]
Nói cách khác, Giáo hội địa phương được mong đợi làm giàu cho Hội Thánh hoàn vũ
bằng sự đóng góp đặc thù của mình. Sự đóng góp này phải được nhìn trong cách diễn
tả văn hoá của cùng một đức tin của Hội Thánh được tuyên xưng bởi các tông đồ
và được Hội Thánh giữ gìn trong suốt lịch sử. Một mặt, phải bảo toàn căn tính
và sự duy nhất cơ bản của Hội Thánh, và mặt khác, phải biểu lộ sự đa dạng hợp
pháp.[27]
Tiến trình hội nhập văn hoá thường được trình
bày như một cuộc gặp gỡ trừu tượng giữa đức tin và văn hoá hay giữa hai hệ thống.
Chúng ta không được quên rằng đúng hơn nó là một cuộc đối thoại giữa hai nhóm
người. Người Kitô hữu ở mọi nơi cần phải được khuyến khích sống nền văn hoá địa
phương của mình, và nền văn hoá ấy một khi đã được thấm nhuần đức tin của Hội
Thánh, sẽ trở thành kinh nghiệm làm biến đổi và phúc âm hoá mọi người khác
chung quanh họ. Là một tiến trình biến đổi từ tình trạng tha hoá sang hài hoà,
hội nhập văn hoá giúp chúng ta đánh giá đúng chúng ta là ai trong tư cách những
thụ tạo của Thiên Chúa và Ngài đã đặt chúng ta sống ở đâu.
Hội nhập văn hoá là một tiến trình cộng đồng,
bao gồm “toàn thể Dân Thiên Chúa”.[28]
Tuy nhiên các nhà thần học và các chuyên gia trong lãnh vực các khoa học xã hội
đóng một vai trò lớn trong bản chất và cách thức của tiến trình này. Đó là lý
do tại sao cần phải xây dựng một cơ sở thần học vững chắc cho hội nhập văn hoá.
Huấn quyền của Hội Thánh đã thường xuyên nhắc nhở chúng ta về bổn phận sống đức
tin Kitô của mình, hoàn toàn nhập thể vào mảnh đất chúng ta sinh ra, lớn lên và
chết. Một văn kiện khá mới của Bộ Phượng Tự và Bí Tích[29]
khuyến khích tiến trình hội nhập văn hoá, đồng thời đưa ra các hướng dẫn rõ
ràng. Văn kiện nói đến ngôn ngữ, ca hát và âm nhạc, các cử chỉ và điệu bộ, các
cử động múa và nghệ thuật như là những lãnh vực có thể sử dụng cho hội nhập văn
hoá. Văn kiện khuyên các giáo hội địa phương thận trọng chỉ cổ vũ hội nhập văn
hoá khi một điều gì chính đáng và chắc chắn được đòi hỏi vì lợi ích của Hội
Thánh. Sự phát triển hữu cơ, nghĩa là sự hấp thu một cái gì mới, là một chiều
kích cơ bản của việc thực hành hội nhập văn hoá. Mọi sự thay đổi cần phải làm từ
từ và cần phải có sự cắt nghĩa đầy đủ để tránh mọi nguy cơ của việc tuyệt đối gạt
bỏ các cố gắng hội nhập văn hoá. Cần hết sức cẩn thận để tránh xa tạp giáo, thậm
chí bất cứ ý tưởng nào của tạp giáo. Việc tránh mọi sự hàm hồ và luôn luôn
trung thành với đức tin của Hội Thánh sẽ tạo ra những kết quả chân thực của hội
nhập văn hoá. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II diễn tả điểm này một cách rõ ràng:
“Trung thành với cội nguồn không có nghĩa là sao chép một cách máy móc khuôn mẫu
của quá khứ. Trung thành với cội nguồn luôn luôn mang tính sáng tạo, sẵn sàng
đi xuống tận chiều sâu, cởi mở trước những thách thức mới, nhạy bén trước những
‘dấu chỉ của thời đại’. Trung thành với cội nguồn trước hết là khả năng tạo ra
một tổng hợp hữu cơ các giá trị ngàn đời, thường được xác nhận trong lịch sử,
và thách thức của thế giới hôm nay, đức tin và văn hoá, Tin Mừng và đời sống”.[30]
Trở về với Thiên Chúa, Đấng được mặc
khải dứt khoát và đầy đủ trong Đức Giêsu Kitô
Khó mà phủ nhận tình trạng tội lỗi nghiêm trọng
của con người, kể cả ngày nay, khi quí vị đọc bản mô tả vắn tắt tôi đã trình
bày về xã hội hiện đại ở đầu bài tham luận này. Tuy nhiên, “ở đâu tội lỗi tràn
đầy, ở đó ân sủng của Thiên Chúa càng chan chứa”. Nhu cầu ơn cứu rỗi vẫn luôn
luôn là nhu cầu cấp bách hôm nay và việc trung thành với lời hứa của Thiên Chúa
trong Đức Giêsu Kitô mời gọi từng người và mọi người chấp nhận ơn cứu độ mà Người
ban cho mọi người vì Người muốn “mọi người được cứu độ và nhận biết Chân Lý của
Người” (1 Tm 2, 4). Vì vậy các cố gắng
từ phía chúng ta để công bố mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô phải trở thành một ưu
tiên. Do đó, mọi nỗ lực thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh phải
được củng cố và gia tăng.
Mọi sứ mạng rốt cuộc phải qui về sứ mạng của Đức
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng được Cha sai đến để cứu nhân loại tội lỗi. “Việc
loan truyền Lời Chúa nhắm đến việc làm cho con người trở lại làm Kitô hữu, tức
là làm cho con người hoàn toàn và chân thành gắn bó với Chúa Kitô và Phúc Âm của
Người bằng đức tin. Việc trở lại là một tặng ân của Thiên Chúa, một công việc của
Chúa Ba Ngôi. Chính Thần Linh là Ðấng mở lòng con người ra để họ tin vào Chúa
Kitô và ‘tuyên xưng Người’ (x. 1Cor. 12, 3); ‘Không ai đến được với Tôi nếu Cha
là Ðấng sai Tôi không lôi kéo họ’ (Jn 6, 44)”.[31]
Trong thần học truyền giáo của Kitô giáo, chỉ
nhắc đến sự hoán cải như một chuyển động quay về với Thiên Chúa mà thôi là
không đủ. Theo Đức Tin của Hội Thánh, quay về với Thiên Chúa cũng có nghĩa là đồng
thời quay về với Đức Kitô, và trở nên một thành phần trọn vẹn của Hội Thánh,
Thân Thể Đức Kitô, qua bí tích Thanh Tẩy. Hội Thánh dạy rằng ai trở về với
Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải dứt khoát và đầy đủ trong Chúa Giêsu Kitô, thì
không thể tách rời khỏi Hội Thánh vì Hội Thánh là Hiền Thê của Người.
Kết luận
Những thách thức ghê gớm được đặt ra bởi thế
giới hôm nay không thể làm cho người Kitô hữu mất niềm tin vào sứ mạng và việc
loan báo Tin Mừng mà Chúa Cứu Thế đã uỷ thác cho họ. Thiên Chúa thực sự tin tưởng
chúng ta. Chúng ta sẽ làm Ngài thất vọng nếu chúng ta xa rời lòng tin tưởng và
tín nhiệm Ngài đã đặt vào chúng ta. Đức Kitô ở với chúng ta khi chúng ta ‘được
sai đến với người khác’ để yêu mến họ bằng chính tình yêu của Thiên Chúa. Lưu
tâm tới những thách thức này của thế giới hôm nay, tôi đã trình bày một ít chủ
đề mà mọi Kitô hữu phải nhấn mạnh để việc truyền giáo luôn luôn là thích hợp,
có ý nghĩa và đáng tin hôm nay nơi mọi dân tộc của Châu Á và của cả thế giới.
Trích Bản tin Hiệp
Thông / HĐGM VN, Số 73 (Tháng 11 & 12 năm 2012)
[6] M. Zago, Commentary on Redemptoris Missio,
trong Redemption and Dialogue, Ed.
William Burrows, Orbis Books, New York, 1993, tr. 63
[7] Xem Stephen B. Bevans & Roger P.
Schroeder, Constants in Context, A
Theology of Mission for Today, Orbis Books, 2004, tr. 11.
[8] [Vài sự
kiện cần nhớ: Mỗi phút, các quốc
gia trên thế giới tiêu 1.8 triệu đôla Mỹ về trang bị quân sự; Mỗi giờ, 1500 trẻ em chết vì thiếu ăn; Mỗi ngày, một loài bị tuyệt chủng; Mỗi tuần trong thập niên 1980, có nhiều
người hơn bị giam giữ, tra tấn, sát hại, tỵ nạn, hay bị xâm phạm bằng các cách
thức khác bởi các hành vi của các chế độ đàn áp, nhiều hơn bất cứ thời kỳ nào
trong lịch sử; Mỗi tháng, hệ thống
kinh tế thế giới tăng thêm 7.5 tỉ đôla Mỹ vào gánh nặng nợ nần đã quá sức chịu
đựng là hơn 1.500 tỷ hiện đang đè trên vai các dân thuộc Thế Giới Thứ Ba; Mỗi năm, một vùng rừng nhiệt đới rộng bằng
khoảng 3 phần tư diện tích Hàn Quốc bị tàn phá và mất; Mỗi mười năm, nếu cứ tiếp tục xu hướng nóng lên toàn cầu hiện nay,
nhiệt độ bầu khí quyển trái đất sẽ tăng rất mạnh (khoảng 1.5 đến 4.5 độ C) dẫn
tới tình trạng mực nước biển dâng lên với những hậu quả thảm khốc, đặc biệt đối
với các vùng duyên hải của tất cả các lục địa].
[31] Gioan Phaolô II, Redemptoris Missio, 1990, số 46.