Điều đó không làm chúng ta ngạc nhiên: Chúa Giêsu đã được gọi là “Vua” ngay từ thời của Ngài, nhưng Lễ trọng Chúa Kitô Vua chỉ trở thành một phần của lịch Giáo hội vào năm 1925. Một lần nữa, chúng ta thấy tầm quan trọng của Truyền thống Giáo hội trong việc cho chúng ta biết về đức tin của Giáo hội.

Nhưng tại sao lại có những ngày lễ mang tính hoàng gia này? Ngày nay ngày càng ít người - cả người Công giáo - sống trong các nước có vua chúa. Những ngày lễ này có phải… là hơi lỗi thời không? KHÔNG.

Trước hết, những ngày lễ này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không chỉ là công dân của thành phố trần gian. Sự cai trị của con người là có thật và thậm chí đáng được chúng ta tôn trọng: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập…” (Rôma 13:1). Khi Chúa Giêsu nói về “những gì của Thiên Chúa” và “những gì của Xêda”, điều đó không hề loại trừ rằng ngay cả những gì Xêda có đều do bởi Thiên Chúa. Và ngay khi Philatô cố tỏ ra mình có uy quyền: “Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?” (Gioan 19:10), Chúa Giêsu liền sửa sai ông ta: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Gioan 19: 11).

Vậy thì, đúng vậy, quyền lực trần gian là có thật nhưng nó có giới hạn. Quyền lực trần gian đó chịu sự chi phối của một thẩm quyền cao hơn. Chúng ta cũng vậy.

Thứ hai, thẩm quyền cao hơn đó không được thiết lập “theo ý chí của những người bị trị” nhưng được thiết lập theo ý muốn của Thiên Chúa – Đấng không do con người bầu chọn. Thẩm quyền cao hơn đó được Thiên Chúa thiết lập trên sự thật và sự thiện hảo bởi vì Thiên Chúa là Sự thật (Gioan 14:6) và là Đấng Thiện Hảo Tối Thượng, cả sự thật và sự thiện hảo đều không thể do con người định nghĩa hay do “sự lựa chọn” của họ mà thành. Những ai được vào Nước Trời là bởi ý chí họ ngay lành; nhưng ngay cả những kẻ ở trong hỏa ngục cũng không thể lật đổ vương quyền Thiên Chúa để dựng nên một chế độ khác. Milton đã viết rằng những người ở hỏa ngục giống như những kẻ “thà cai trị trong hỏa ngục còn hơn phục vụ trên thiên đàng”, nhưng ngay cả tình trạng thất bại của Satan tồn tại cũng bởi vì Thiên Chúa, trong Sự thật của Ngài, không cho phép sự dữ giả dạng thành “sự thiện”.

Sự Phục sinh cho thấy rõ rằng Thiên Chúa, chứ không phải ma quỷ hay con người tội lỗi, sẽ có tiếng nói quyết định cuối cùng trong lịch sử. Sự Phục sinh đã làm rõ rằng điều thiện hảo, chứ không phải điều ác, sẽ chiến thắng. Vì vậy, Nước Trời làm chứng cho sự thật tối hậu về lịch sử nhân loại, về vũ trụ, và về toàn thể hiện hữu.

Chúng ta, con người, được mời đến Vương quốc đó, và sự đáp lại của chúng ta là do ý chí tự do của chúng ta. Nhưng dù chúng ta chọn ủng hộ hay chống lại Thiên Chúa thì cũng không thay đổi được sự thật rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa, chúng ta không phải là Thiên Chúa, và chúng ta sẽ không thể xác định lại chân lý và sự thiện hảo cho phù hợp với sở thích của riêng mình.

Thứ ba, Đức Maria cho chúng ta thấy ý nghĩa của việc trở thành thần dân của Vương quốc đó. Câu trả lời của Mẹ đối với biến cố Truyền tin - đối với kế hoạch của Thiên Chúa dành cho cuộc đời Mẹ - không phải là, “Để con suy nghĩ rồi sẽ trả lời lại với Chúa.” Nhưng đó là một sự chấp nhận, trong sự tin tưởng yêu thương, Thiên Chúa là ai và Mẹ là ai, một sự chấp nhận đạt đến đỉnh điểm trong câu trả lời đơn giản, “Fiat!” “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Luca 1:38).

Chúa Giêsu cho chúng ta biết mầu nhiệm về Vương quốc của Ngài: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em” (Mátthêu 23:11). Câu trả lời của Đức Maria là “Tôi là tôi tớ của Chúa.” Đó là lý do tại sao Mẹ là Nữ Vương Thiên Đàng. Câu trả lời của Satan là “Non serviam - Tôi không phục vụ”. Đó là lý do tại sao hắn ở trong lò Hỏa ngục.

Không phải là Thiên Chúa trả thù. Mà sự thật là sự thật, và sự thật không thể thay đổi để phù hợp với lời nói dối. Cuối cùng, mỗi người phải chọn bên, mà bên thì không phụ thuộc vào ý thích chủ quan, nhưng phụ thuộc vào lòng trung thành mà người ấy gắn bó với sự lựa chọn của họ.

Thứ tư, Mẹ Maria là Nữ Vương Thiên Đàng vì nhiều lý do:

Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, sinh ra Chúa Giêsu Kitô, được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Vai trò của Mẹ trong sự cứu độ nhân loại là duy nhất và không thể thay thế. Hãy chú ý đến động từ: “là”. Vai trò không thể thay thế của Mẹ không kết thúc khi Mẹ được đưa cả hồn lẫn xác lên Thiên đàng “sau khi hoàn tất cuộc sống trần thế của mình.”

Mẹ Maria vẫn còn mang Chúa Giêsu đến cho chúng ta. Mẹ là Mẹ của chúng ta, được trao vai trò làm mẹ trong một bối cảnh rất riêng: bởi Con của Mẹ khi Ngài bị treo trên đồi Canvê (Gioan 19:27). Mẹ là Mẹ của Giáo hội. Mẹ tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Giêsu qua lời chuyển cầu của Mẹ: đó là lý do tại sao, trong kinh Mân côi này, chúng ta liên tục đọc lời cầu xin Mẹ “bây giờ và trong giờ lâm tử.” Ơn cứu độ không phải là việc riêng của những người thui thủi một mình: nhưng là của những người được cứu độ vốn là thành viên của một gia đình, một phần của Vương quốc. Và các gia đình thì có những người mẹ. Ý tưởng này chẳng có gì là cách mạng.

Thiên Chúa thì công bằng. Không một người nào đã từng yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn hoặc trung thành theo Ngài nhiều hơn Mẹ Maria. Vậy thì tại sao chúng ta lại không mong đợi Mẹ chiếm giữ vị trí cao nhất trên thiên đàng? Khi nói về sự Lên Trời của mình, Chúa Giêsu đã nói “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở… Thầy đi dọn chỗ cho anh em” (Gioan 14:2). Chúa Giêsu sẽ đặt Mẹ của Ngài ở vị trí nào khác?

Chúng ta thực sự muốn ai khác làm Mẹ và làm Nữ Vương của chúng ta ngoài Đấng mà cả cuộc đời đã biểu lộ trọn vẹn cuộc sống con người theo ý Chúa? Ngoài Thiên Chúa, chúng ta còn muốn sống cuộc sống đời đời với ai khác và dưới quyền ai khác nữa ngoài Mẹ?

Mầu nhiệm này được mô tả trong nghệ thuật của Democrito Bernardo Bitti, một họa sĩ và linh mục Dòng Tên sống vào nửa sau thế kỷ 16.

Democrito Bernardo Bitti, “Lễ đăng quang của Đức Trinh Nữ,” ca. 1575, Nhà thờ San Pedro, Lima, Peru (ảnh: Public Domain)

Mặc dù lớn lên và học nghệ thuật ở nơi ngày nay là Ý, ông đã sử dụng tài năng của mình trong tư cách là một nhà truyền giáo để trang trí các nhà thờ ở Peru, nơi bức tranh này được tìm thấy, khi đó là trung tâm quyền lực Tây Ban Nha ở Nam Mỹ. Ông thường được gọi là hoạ sĩ “phong cách Mannerism,” một trào lưu hậu Phục hưng, đi ngược lại sự cân xứng, hài hoà của trào lưu trước đó bằng sự cầu kỳ hoang sơ, rực rỡ, đôi khi cường điệu. Hãy nhìn vào các thiên thần trong bức tranh này: họ chen chúc ở bất cứ nơi nào có thể, ở khắp mọi nơi. Hội họa Phục hưng trước đó để lại dấu ấn bằng sự đối xứng, cân bằng và “tuân thủ tỷ lệ nhiều hơn”.

Tác phẩm “Coronation of the Virgin - Đức Maria được đội triều thiên” của Bitti có niên đại từ cuối những năm 1500. Lưu ý năm: rõ ràng, ý tưởng về Mẹ Maria, Nữ Vương Thiên Đàng, đã có từ lâu trong Truyền thống của Giáo hội. Tác phẩm chứa đựng nhiều yếu tố đặc trưng thường gặp trong nghệ thuật về “Đức Maria được đội triều thiên”. Mẹ Maria luôn được trình bày như đang được trao vương miện, hoặc bởi chính Chúa Giêsu hoặc tiêu biểu hơn, là bởi toàn thể Ba Ngôi. Xét cho cùng, sự cộng tác của Mẹ Maria trong công trình cứu độ là sự cộng tác trong các kế hoạch của toàn thể Ba Ngôi: kế hoạch yêu thương của Chúa Cha, được thực hiện nhờ Chúa Con, được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Mẹ Maria là nữ tử, người mẹ và hiền thê.

Mẹ Maria luôn được trình bày trong thái độ riêng có của Mẹ: khiêm hạ. “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1: 49) chứ không phải “được tôn vinh, được ngưỡng mộ.”

Trong cảnh tượng này, các thiên thần tụ tập chung quanh và chứng kiến cảnh tượng này. Tổng lãnh Thiên thần Gabriel có vai trò nổi bật trong cuộc đời của Mẹ Maria, vì vậy các thiên thần là một phần của sự kiện này. Nhưng các thiên thần không chỉ đơn thuần là những người đứng xem, những người tò mò muốn tham gia vào “Lễ Đăng Quang của năm”, vì đó không phải là một lễ đăng quang diễn ra trong năm mà là Lễ Đăng Quang trong cõi đời đời. Chính từ ngữ “thiên thần” có nghĩa là “sứ giả”, tức là những người phục vụ Thiên Chúa trực tiếp nhất. Triều đình thiên đàng là triều đình của những người tôi tớ yêu thích nơi họ đang ở và thực sự hiện diện ở nơi đó vì họ biết yêu thương. Bức tranh cho thấy điều đó. Chúng ta đặc biệt lưu ý đến các thiên thần nhạc công ở phía dưới bên phải và bên trái: như Josef Pieper đã nhắc nhở chúng ta, “chỉ có những người đang yêu mới hát”. Không nghi ngờ gì nữa, bài hát của sự kiện đó là Te Deum Laudamus - Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi hát mừng - được lặp lại với niềm say mê hứng thú lớn lao hơn nữa vào ngày tận thế.

(Xem thêm Thông điệp Ad Caeli Reginam năm 1954 của Đức Giáo hoàng Piô XII.)

Phêrô Phạm Văn Trung

Chuyển ngữ từ: ncregister.com