HỒNG Y HENRI-MARIE DE LUBAC, S.J. VÀ CÔNG ĐỒNG VATICAN II

Cao Viết Tuấn
(Dịch và tổng hợp từ wiki và các nguồn khác)

Mục lục

1. Những năm trước khi làm Linh mục. 1

2. Những năm đầu trong vai trò giáo sư và thần học gia. 1

3. Thế Chiến II và cuộc kháng chiến thiêng liêng. 2

4. Những năm tháng đen tối 3

5. Trong thời gian diễn ra Công đồng Vatican II 4

6. Teilhard de Chardin. 6

7. Những năm sau Công Đồng. 6

8. Những năm cuối đời 7

9. Lòng tin Kitô giáo. 7


WHĐ (05.04.2021) - Hồng Y Henri-Marie de Lubac được xem như là một trong những Thần học gia có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ XX. Các tác phẩm và nghiên cứu của ngài đã đóng một vai trò quan trọng trong việc định hướng của Công Đồng Vatican II.

1. Những năm trước khi làm Linh mục

Henri de Lubac chào đời ngày 20 tháng 2 năm 1896, tại Cambrai, trong một gia đình quý tộc lâu đời ở Pháp. Ngài là một trong sáu người con của một ông chủ ngân hàng, còn mẹ ngài chỉ lo việc nội trợ trong nhà. Ngài được dưỡng dục trong bầu khí quý tộc của gia đình ngay từ nhỏ.

Vào ngày 9 tháng 10 năm 1913, chàng thanh niên quý tộc de Lubac gia nhập Dòng Tên tại Lyon. Do bầu khí chính trị ở Pháp thời đó, thời gian nhà tập của ngài phải được tổ chức ở East Sussex, Anh quốc.

Sau đó, vào năm 1914, ngài trở về nước và phục vụ trong quân đội Pháp.

Năm 1920, ngài bị thương ở đầu, nên phải trở lại nhà dòng, ngài tiếp tục học Triết học, tại Canterbury và sau đó tại St. Helier, Jersey. Vào năm 1924, sau một năm giảng dạy tại một trường của Dòng Tên ở Mongré, Nord-Pas-de-Calais, de Lubac trở lại Anh quốc và theo đuổi chương trình Thần học tại Ore Place ở Hastings, East Sussex.

Năm 1926, Học viện Thần học lại dời về Fourvière ở Lyon, nơi đây de Lubac đã hoàn thành hai năm thần học còn lại.

Ngài được truyền chức Linh mục ngày 22 tháng 8 năm 1927.

2. Những năm đầu trong vai trò giáo sư và thần học gia

Năm 1929, de Lubac bắt đầu giảng dạy tại Phân khoa Thần học ở Trường Đại học Công giáo Lyon, và tại đây ngài làm giáo sư bộ môn Thần học căn bản (fundamental theology), từ năm 1929-1961, với hai lần gián đoạn: lần thứ nhất trong thời gian diễn ra Thế Chiến I, khi đó ngài buộc phải lẩn trốn bởi vì những hoạt động của ngài với Phong trào kháng chiến của Pháp; và lần thứ hai từ năm 1950 cho đến năm 1958, khi đó do áp lực của Rôma, Dòng Tên đã rút ngài ra khỏi công việc giảng dạy và thuyên chuyển ngài đến một cộng đoàn khác.

Trước Thế Chiến II, cuốn sách đầu tiên của ngài, Catholicisme, les aspects sociaux du dogme được dịch sang tiếng Anh với nhan đề Catholicism: Christ and Common Destiny of Man được xuất bản vào năm 1938, đã gây được tiếng vang lớn. Tác phẩm đã góp phần quan trọng vào việc làm nảy sinh một mối quan tâm mới trong thần học Công giáo trong phần tư thế kỷ trước Công đồng Vatican II. Tác phẩm lớn này được xem như đã đánh dấu sự khởi đầu cho một phong trào thần học quan trọng, gọi là thần học về nguồn. Các thần học gia đã tham gia phong trào này - cùng với de Lubac - tin rằng chìa khóa cho sự phục hồi tư tưởng và đời sống Kitô giáo nằm ở việc tái khám phá một cách có phê phán những nguồn mạch vĩ đại của đời sống và tư tưởng Kitô giáo, đó là: phụng vụ, Thánh Kinh, tác phẩm của các giáo phụ, và tác phẩm của các bậc tiến sĩ và các nhà thần bí vĩ đại trong Giáo Hội, đặc biệt là Thánh Thomas Aquinas.

Trong những năm của thập niên 1940, cùng với một anh em Dòng Tên khác, và cũng là học trò của ngài, Jean Daniélou, ngài xây dựng tủ sách Sources Chrétiennes (Các nguồn mạch của Kitô giáo), là một tuyển tập song ngữ (nguyên ngữ và được dịch sang Pháp ngữ) bao gồm các tác phẩm quan trọng của Kitô giáo thời sơ khai và của các giáo phụ, chúng đã giúp phục hồi lại việc nghiên cứu thần học giáo phụ, và giáo lý về Thánh Truyền.

Vào năm 1945, khi việc in ấn trở nên dễ dàng hơn, nhiều tác phẩm khác của ngài đã được viết từ trước năm 1940 cũng được xuất bản cùng lúc, bao gồm Surnaturel, études historiques, và ba tác phẩm khác viết về Phật giáo.

Tại đây, trong số các học trò của ngài, nổi bật nhất là Jean Daniélou và Hans Urs von Balthasar

3. Thế Chiến II và cuộc kháng chiến thiêng liêng

Trong khoảng thời gian diễn ra Thế Chiến II, de Lubac tham gia vào một phong trào có tên là cuộc kháng chiến thiêng liêng (spiritual resistance), nhằm hỗ trợ xuất bản một tạp chí bí mật chống lại Đức Quốc xã, có tên gọi là Témoignage chrétien, hay Christian Witness. Tạp chí này nhằm cho thấy sự bất tương hợp giữa niềm tin Kitô giáo với triết lý và hành động của chế độ Đức Quốc xã, ở Đức cũng như chính quyền Vichy ở miền Nam nước Pháp. Ngài cũng kiên quyết đấu tranh chống lại chủ trương bài Do Thái. Những nỗ lực của ngài trong thời gian này được tập hợp thành một tác phẩm hồi ký, có tên là Christian Resistance to Anti-Semitism: Memories from 1940-1944. Do những hoạt động đấu tranh như vậy, nên ngài phải thường xuyên lẩn trốn khỏi sự bắt bớ của người Đức và nhiều cộng sự viên của ngài trong tạp chí này đã bị bắt giữ và xử tử. Tuy ẩn nấp, ngài vẫn tiếp tục nghiên cứu và biên soạn.

4. Những năm tháng đen tối

Phong trào phục hồi do ngài khởi xướng đã phát triển cách mau lẹ sau Thế Chiến II. Nó không chỉ được hoan nghênh nồng nhiệt, nhưng đồng thời nó cũng hứng chịu những lên án gay gắt từ phía các thần học gia tân kinh viện. “Nền thần học mới” này bị xem như là một điều đáng lo ngại và thậm chí nguy hiểm, nhất là về siêu nhiên và ân sủng. Do áp lực từ Rôma, Cha bề trên tổng quyền của Dòng Tên, Jean-Baptiste Janssens, đã phải rút de Lubac ra khỏi các nhiệm vụ giảng dạy, vào tháng 6 năm 1950, do “có những sai lầm nghiêm trọng về những điểm thiết yếu của tín lý”[1]. Khi ấy, chính de Lubac đã phải thốt lên rằng: “sét đã đánh vào Fourvière”[2]. Lúc đó, ngoài de Lubac còn có thêm bốn vị giáo sư khác của Fourvière cùng chịu một bản án tương tự như vậy, và tất cả bị yêu cầu rời khỏi Lyon. Bên cạnh đó, tất cả các Tỉnh dòng của Dòng Tên đều được lệnh phải lấy ra khỏi các thư viện của mình ba cuốn sách của de Lubac là SurnaturelCorpus mysticum,  Connaissance de Dieu.

Hai tháng sau, Đức Giáo Hoàng Piô XII ban hành thông điệp Humani generis, mà nhiều người cho rằng nhằm ám chỉ đến de Lubac và các thần học gia khác có liên hệ đến “nền thần học mới”. Thông điệp này đã mở ra một phong trào trí tuệ được đặc trưng bằng việc chú ý đến các nguồn mạch giáo phụ của giáo lý Công giáo, một sự sẵn sàng hướng đến các tư tưởng và các mối quan tâm của con người thời đại, một sự tập trung vào công việc mục vụ và tôn trọng những năng lực của người giáo dân, và ý thức về Giáo Hội Công giáo như một hiện hữu trong lịch sử và chịu ảnh hưởng bởi lịch sử.

Cái mà de Lubac gọi là “những năm tháng đen tối” ấy đã kéo dài gần một thập niên. Mãi cho đến năm 1965, ngài mới được phép trở về Lyon, và cho đến năm 1968, Trường Đại học Lyon mới nhận được sự phê chuẩn từ Rôma cho phép de Lubac trở về dạy các môn mà trước đây ngài đã từng dạy.

Tuy nhiên, trong khoảng thời gian của “những năm tháng đen tối” này, de Lubac đã tập trung vào nghiên cứu và viết sách, kết quả là ngài đã cho ra đời bốn cuốn lịch sử của khoa chú giải thánh kinh, với tựa đề "Medieval Exegesis", cũng như những nghiên cứu khác về vô thần, Phật giáo, Giáo Hội học và bản chất bí tích của Đạo Công giáo. Chính nhờ những nghiên cứu tiên phong của ngài trong Exégèse médiévale đã làm sống lại mối quan tâm về việc chú giải thiêng liêng Thánh Kinh và đã tạo ra một động lực lớn cho sự phát triển Thần học giao ước trong Giáo Hội Công giáo Rôma.

Đến lúc này, giá trị các công trình nghiên cứu của ngài đã được giáo hội chân nhận. Ngài trở thành thành viên của Viện Hàn Lâm Khoa học Đạo đức và Chính trị vào năm 1957. Hai năm sau, năm 1959, ngài được mời về giảng dạy tại Viện Đại học Công giáo Paris.

 

5. Trong thời gian diễn ra Công đồng Vatican II

Năm 1959, Đức giáo hoàng Gioan XXIII thông báo mở Công đồng Vatican II. Đến tháng 8 năm 1960, Đức giáo hoàng đã bổ nhiệm de Lubac làm thành viên Ủy ban chuẩn bị của Công đồng, điều này đã cất khỏi Linh mục Dòng Tên người Pháp này mối nghi ngại đã đeo bám từ năm 1950. Sau đó, de Lubac tham dự Công đồng với tư cách là chuyên viên thần học. Trong thời gian này, Đức giáo hoàng Phaolô VI bổ nhiệm ngài làm thành viên của Ủy ban Thần học.

Trong một Công đồng vĩ đại như Vatican II, những đóng góp của các cá nhân rất khó nhận thấy. Tuy nhiên, người ta cũng nhận thấy những tác phẩm của ngài đã có một tầm ảnh hưởng nhất định trong khoảng thời gian diễn ra Công đồng cũng như hậu Công đồng, đặc biệt về Giáo hội học, trong đó, ngài cho thấy Giáo hội phải được hiểu như là cộng đoàn bao gồm toàn thể dân Chúa chứ không phải chỉ bao gồm hàng giáo sĩ.[3] Riêng đối với Công đồng, người ta nhận thấy ngài đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong nhiều văn kiện của Công đồng, đặc biệt là Hiến chế Tín lý về Mặc Khải của Thiên Chúa (Dei Verbum) và Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes).[4]

Được biết, ngay sau khi Công đồng Vatican II kết thúc (1965), một Hội nghị chuyên đề về “Nghiên cứu thần học đối chiếu với Giáo hội ngày nay”, đã được tổ chức tại trường Saint-Savier ở Chicago, từ 31-3 đến 3-4 năm 1966, dưới sự bảo trợ của Viện Gioan XXIII. Hội nghị quy tụ những nhà thần học tên tuổi như Jean Daniélou, Yves Congar, Karl Rahner, Johannes Metz, Charles Davis…và Henri de Lubac.

Symposium nêu câu hỏi: Đâu là những vấn đề thần học chính Giáo hội ngày nay phải đương đầu?

Henri de Lubac đã tìm cách trả lời với bài tham luận có tựa đề: “Une double tâche proposée au théologien par “Gaudium et Spes” / Hai nhiệm vụ Hiến chế Gaudium et Spes đặt ra cho nhà thần học”.

Theo nhà thần học de Lubac, Giáo hội ngày nay đang sống trong một thế giới ở đó “một số lớn người và nhà tư tưởng đặt ra trước niềm tin của chúng ta, dưới nhiều hình thức rất khác nhau, một quan niệm về con người hoàn toàn khác hẳn, loại hẳn mọi quan tâm đến Thiên Chúa. Sự vắng mặt của Thiên Chúa, thậm chí sự phủ nhận Thiên Chúa: đó là yếu tố chung của nhiều học thuyết và thái độ mà người Kitô hữu ngày nay gặp thấy khắp nơi xung quanh mình. ‘Một mưu toan bi đát nhằm dập tắt ánh sáng của Thiên Chúa hằng sống’: đó là hình thức chiến đấu thường gặp của sự phủ nhận này. Hiện hữu của chủ nghĩa vô thần đương thời đã là ‘cây gậy thúc bách Công đồng’ [Tác giả dùng cách nói của Hồng y Konig]. Trước hiện tượng này, ‘trầm trọng nhất của thời đại chúng ta’ [Đức giáo hoàng Phaolô VI], Công đồng đã muốn soi sáng và hướng dẫn một cách rõ ràng lương tâm của người tín hữu chúng ta (…).

“Như vậy, nhiệm vụ thiết yếu có tính cách học thuyết đầu tiên mà hiến chế Gaudium et Spes mời gọi và thúc đẩy chúng ta đảm nhận là một sự đương đầu với chủ nghĩa vô thần đương thời. Tôi nói rõ: đương đầu (affrontement). Nhưng tôi cũng không quên tinh thần mà văn kiện này, cũng như toàn bộ công trình của Công đồng, đã khắc sâu vào trí não chúng ta, đó là tinh thần đối thoại và thấu hiểu mà thông điệp Ecclesiam suam đã đòi hỏi khi từ chối đưa ra ‘một phán quyết quan toà’, và đã được Đức Thánh Cha nêu cao một lần nữa trong bài diễn văn bế mạc Công đồng ngày 7-12 vừa rồi”[5].

Và bài tham luận của de Lubac tại Hội nghị chuyên đề về Công đồng Vatican II ngay sau khi Công đồng bế mạc đã có thể được xem là một luận văn căn bản và rất sâu sắc về tinh thần đối thoại này của Công đồng Vatican II.

The Oxford Dictionary of the Catholic Church nói về ngài như sau: "De Lubac là một trong những nhà tư tưởng đã tạo ra một môi trường trí tuệ thuận lợi, tạo điều kiện cho Công đồng Vatican II có thể diễn ra, chủ yếu bằng cách mở ra với những nguồn thiêng liêng to lớn của truyền thống Công giáo, những nguồn ấy đã bị cản trở bởi thần học “baroque” của thời hậu Công đồng Triđentinô.”

6. Teilhard de Chardin

Ngay những năm trước khi diễn ra Công đồng cũng như trong những năm diễn ra Công đồng, với sự cho phép của các vị bề trên Dòng, de Lubac bắt đầu viết, xuất bản những cuốn sách và những bài báo bênh vực các tác phẩm của Teilhard de Chardin - một Linh mục đàn anh của ngài trong Dòng Tên, và cũng là một Triết gia người Pháp - đã qua đời vào năm 1935. Các tư tưởng của Teilhard đã sử dụng thành quả của những nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khảo cổ học, trong việc trình bày đức tin. Đây là những bước đi quá mới mẻ khiến Giáo hội và nhiều nhà thần học chỉ trích và lên án. Những tư tưởng ấy đã gây được ảnh hưởng mạnh mẽ trên nhiều thần học gia của nouvelle théologie (nền thần học mới) và do đó cũng phải chịu nhiều chống đối từ phía Rôma.

Trong chính bài tham luận nói trên, Henri de Lubac đánh giá Teilhard de Chardin là người đã có ảnh hưởng, “ít là gián tiếp và bàng bạc”, trên một số định hướng của Công đồng. De Lubac cũng không quên bác bỏ những luận điểm, theo ngài, không đúng về Teilhard de Chardin: “Teilhard de Chardin không hề, như nhiều người nghĩ, nội tại hoá sự Quang lâm của Chúa; ngài cũng không đồng hoá sự Quang lâm này với một thứ tương lai nào đó của trái đất hay của vũ trụ; ngài cũng chẳng hề đề nghị giải tán Giáo hội trong thế giới hay thế tục hoá đức tin và đức cậy. Đối với ngài, (…), sự Tiến bộ được thần thánh hoá, hay Nhân loại tương lai, là những ngẫu tượng, thuộc số những ‘thần thánh xa lạ, bạo ngược và phi nhân’ vốn cầm hãm chúng ta trong một ‘cuộc lưu đày ở Babylon’”[6].

7. Những năm sau Công Đồng

Sau Công Đồng Vatican II, de Lubac là đồng sáng lập tạp chí Concilium, nhưng sau đó không lâu, ngài đã rút lui khỏi tạp chí này cùng với Hans Urs von Balthasar và Joseph Ratzinger khi mà Concilium đã bắt đầu rời khỏi sứ mạng ban đầu của nó là thúc đẩy việc áp dụng Công đồng, và bắt đầu tạo thế đối lập với Huấn quyền. De Lubac đã cộng tác với Joseph Ratzinger và von Balthasar thành lập một tạp chí mới, có tên là Communio. Tạp chí Communio tiếp tục được gợi hứng bởi quan niệm phục hồi, xem việc tái khám phá một cách có phê phán các truyền thống phong phú của Giáo hội như là một sự tiến bộ đích thực.

Vào năm 1969, Đức giáo hoàng Phaolô VI – một người rất ngưỡng mộ các công trình của de Lubac – đã có ý định vinh thăng Hồng Y cho de Lubac, nhưng de Lubac đã từ chối, bởi vì ngài không muốn trở thành giám mục, một chức vụ mà Đức giáo hoàng Gioan XXIII đã từng đề nghị vào năm 1962 và ngài đã từ chối. Khi de Lubac từ chối mũ Hồng Y, Đức giáo hoàng Phaolô VI quyết tâm vinh thăng Hồng Y cho một thần học gia Dòng Tên, và vinh dự ấy được dành cho học trò của de Lubac là Jean Daniélou.

8. Những năm cuối đời

Không lâu sau khi được bầu làm giáo hoàng, Karol Wojtyla (Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II) – người đã quen biết với de Lubac trong những năm cùng làm việc chung với nhau tại Rôma trong thời gian diễn ra Công đồng – đã vinh thăng de Lubac lên hàng Hồng Y. Lần này Đức giáo hoàng miễn chuẩn cho ngài khỏi chức giám mục, và do đó de Lubac đã chấp nhận. Ngày 2 tháng 2 năm 1983, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vinh thăng Hồng Y cho thần học gia Dòng Tên 87 tuổi, Henri de Lubac, thuộc đẳng Hồng Y Phó Tế. Đây là lần đầu tiên kể từ năm 1962, mũ Hồng Y được ban cho một người không phải là Giám Mục.

Ngày 4 tháng 9 năm 1991, ngài qua đời tại Paris, và được an táng trong phần mộ của Dòng Tên tại nghĩa trang Vaugirard, thành phố Paris.

Tư tưởng thần học của de Lubac là mẫu mực cho thần học Công Giáo nói chung, đó là trung thành với truyền thống, hướng tới sự tiến bộ và đồng thời đem lại sức sống cho Giáo hội.

9. Lòng tin Kitô giáo

Thiết tưởng cũng nên gợi lại ở đây một tác phẩm khác của nhà thần học phong phú và sâu sắc này, đó là cuốn “La foi chrétienne” (Aubier, 1969), qua một số trích dẫn[7]:

Tin và tuyên xưng đức tin

“Việc đọc kinh Tin Kính không phải là một hành động tin. Tôi nói ra niềm tin của tôi, hay nói theo truyền thống, tôi “tuyên xưng” niềm tin của tôi, tôi “công bố” niềm tin của tôi. Các tín điều trong kinh Tin Kính, dù mang nội dung gì, đều giả thiết là đã có một hành động của niềm tin về nội dung này, và đó là hành động tin đích thực. Hành động này, có trước và mang tính nội tâm, là chính sự chuyển động của niềm tin. Đó là việc tôi đáp lại Thiên Chúa, Đấng kêu gọi tôi; việc tôi gắn với Thiên Chúa, Đấng tự mạc khải mình cho tôi; việc tôi cam kết trở về với Chúa, Đấng tự ban mình cho tôi. Trước khi nói ra bên ngoài: ‘Tôi tin ở Chúa’, và để có thể nói điều này một cách chân thành, tôi đã phải nói trong tâm can của tôi: ‘Lạy Chúa là Thiên Chúa tôi, tôi tin ở Ngài’” (trg 527).

Lòng tin Kitô giáo và tôn giáo

“Một đức tin ngày càng trở thành trần trụi, chẳng còn dấu gì bên ngoài, chẳng còn thờ phượng, lễ lạy, thể chế xã hội, chẳng còn quy chiếu về Lịch sử, không tín điều, không tình cảm, đức tin ấy quả không còn tương ứng với đức tin của người Kitô hữu bình thường, của người của Giáo hội, của vị thánh. Từ hai mươi thế kỷ nay, không một tín hữu nào của Đức Giêsu Kitô đã hiểu được một quan niệm thuần tuý lý thuyết như vậy; thậm chí chẳng ai nghĩ tới đó. Kiểu tin này, rất xa lạ với giáo huấn của Thánh Kinh cũng như của Truyền thống sống động, cho thấy có sự thiếu hiểu biết về bản tính con người và về tính cách phổ quát của Kitô giáo, vốn phải được ‘rao giảng cho mọi tạo vật’. Không gì chống đỡ, thiếu cả những yếu tố nuôi dưỡng, đức tin sẽ chết ngạt. Chính Thiên Chúa cũng sẽ biến khỏi chân trời của đức tin. Chúa Giêsu Kitô, nếu còn được người ta nghĩ tới, thì cũng chỉ còn là một người khởi xướng xa xôi. Chỉ còn lại một ý thức hệ lỏng lẻo, người ta gọi là “sự mở ngỏ về tương lai”, hoặc bằng một cái tên nào khác theo người ta muốn. Và phải có lương thiện để nhìn nhận rằng người ta đang nói về một điều gì khác không phải là đức tin Kitô giáo” (trg. 606).

Lòng tin chuyển động

Phân tích tư tưởng của thánh Augustinô về niềm tin, nhà thần học Henri de Lubac viết: “Lòng tin ở Thiên Chúa là một chuyển động khởi đầu với việc ‘hoán cải’: bí tích Thanh tẩy là sacrmentum conversionis et fidei. Nhưng chuyển động hoán cải này thực ra mới chỉ là khởi đầu. Qua sự khởi động này, một chuyển động bắt đầu; một cuộc hành trình đã được khởi xướng và giờ đây phải được tiếp tục. Kẻ tin không phải là người được đặt vào một trạng thái và chỉ cần giữ nguyên trạng thái này, không thối lui, không từ bỏ đức tin đã lãnh nhận khi chịu phép Thanh tẩy, là đủ. Người đã có lòng tin còn phải tiếp tục cất bước, và đi tới. Đó là điều thánh Augustinô đã giải thích bằng bốn động từ: Tin vào Chúa, là hướng về Ngài, là đi tới Ngài, là mỗi ngày mỗi tiến tới trên con đường dẫn đến Ngài; cuối cùng, là đến được với Ngài” (trg. 611).

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 78 (Tháng 9 & 10 năm 2013)


[1] Henri de Lubac, At the Service of the Church, San Francisco, Ignatius Press (1993), p. 68.

[2] Ibidem p. 67.

[3] D. Grumett, De Lubac: A Guide for the Perplexed, London, T & T Clark (2007), p. 51-52.

[4] J. W. O'Malley, Vatican II: Did Anything Happen? New York, Continuum (2008), p. 75.

[5] Henri de Lubac, S.J., Une double tâche proposée au théologien par “Gaudium et Spes”, trong Théologie d’aujourd’hui et de demain (Kỷ yếu, ấn bản tiếng Pháp, của Hội nghị), Les Éditions du Cerf, 1967, trg. 12-13.

[6] Id., trg. 56.

[7] Trích dẫn theo THÉO., Nouvelle Encyclopédie Catholique, Fayard, 1989.