HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ
TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
GIÁO HỘI VÀ INTERNET
Mục lục Với
các người đang làm công tác mục vụ Với
các nhà giáo dục và giáo lý viên Với
trẻ em và thanh thiếu niên |
I. NHẬP ĐỀ
1. Sự quan tâm của Giáo Hội đối với Internet biểu hiện đặc biệt
sự quan tâm xưa nay của Giáo Hội đối với các phương tiện truyền thông xã hội.
Khi coi các phương tiện truyền thông là một kết quả của tiến trình khoa học
trong lịch sử, nhờ đó loài người “ngày càng tiến xa hơn trong việc khám phá ra
những nguồn lực và những giá trị trong toàn thể vũ trụ”[1],
Giáo Hội thường bày tỏ niềm xác tín của mình rằng các phương tiện truyền thông ấy,
nói theo ngôn ngữ của Công đồng Vatican II, chính là “những phát minh kỹ thuật
kỳ diệu”[2], đã đóng góp rất nhiều để
thoả mãn các nhu cầu của con người và có thể còn đóng góp nhiều hơn nữa.
Như thế, Giáo Hội đã tiếp cận
các phương tiện truyền thông với một thái độ căn bản là tích cực[3]. Ngay cả khi lên án những lạm
dụng quá đáng, các văn kiện của Hội đồng Toà Thánh về Truyền thông Xã hội vẫn
phải đau đớn thú nhận rằng “nếu chỉ có thái độ kiểm duyệt về phía Giáo Hội
thôi… thì chưa đủ và cũng chẳng thích hợp”[4].
Khi trích dẫn Tông thư
“Miranda Prorsus” của Đức Giáo hoàng Piô XII, năm 1957, Huấn thị mục vụ “Hiệp
thông và Tiến bộ” ban hành năm 1971, cũng nhấn mạnh điểm ấy: “Giáo Hội coi các
phương tiện truyền thông là “những quà tặng của Thiên Chúa”, mà theo kế hoạch
quan phòng của Ngài, chúng sẽ liên kết mọi người trong tình huynh đệ và nhờ đó
giúp mọi người cộng tác vào kế hoạch của Chúa để hưởng ơn cứu độ”[5]. Đây vẫn là quan điểm của
chúng tôi, và cũng là quan điểm của chúng tôi về Internet.
2. Như Giáo Hội hiểu, lịch sử truyền thông của con người tựa
như một cuộc hành trình dài, đưa con người “đi từ dự phóng tự kiêu của tháp
Baben và từ sự sụp đổ khiến cho mọi người hồ đồ lẫn lộn và không hiểu nhau” (x.
St 11,1-9) đến ngày lễ Ngũ Tuần, ngày Thánh Thần ban xuống ơn ngôn ngữ, như một
cách khôi phục lại sự truyền thông, mà mục tiêu tập trung vào Đức Giêsu và nhờ
sự hoạt động của Thánh Thần”[6]. Chính trong cuộc đời, sự chết
và sống lại của Đức Kitô, “việc truyền thông giữa con người với nhau sẽ tìm được
lý tưởng và khuôn mẫu cao đẹp nhất trong Thiên Chúa làm người và làm anh em với
chúng ta”[7].
Các phương tiện truyền
thông xã hội hiện nay chính là những yếu tố văn hoá đóng một vai trò nhất định
trong lịch sử. Như Công đồng Vatican II đã nhận xét: “dù chúng ta phải cẩn thận
phân biệt những tiến bộ trần gian với sự phát triển của vương quốc Đức Kitô”,
chúng ta vẫn phải nhìn nhận “những tiến bộ ấy có liên quan một cách mật thiết với
nước Chúa, khi mà chúng góp phần làm cho xã hội loài người được trật tự hơn”[8]. Nhìn các phương tiện truyền
thông xã hội dưới ánh sáng này chúng ta sẽ thấy chúng “đóng góp rất nhiều vào
việc mở rộng và làm giàu tâm trí con người, cũng như phát triển và củng cố nước
Chúa”[9].
Điều này đặc biệt đúng với
Internet, là phương thế dùng để tạo ra những sự thay đổi có tính cách mạng
trong thương mại, giáo dục, chính trị, báo chí, quan hệ giữa quốc gia này với
quốc gia khác, giữa nền văn hoá này với nền văn hoá khác - những thay đổi này
không chỉ giới hạn trong việc con người liên hệ với nhau như thế nào, mà còn là
con người hiểu thế nào về cuộc sống của mình. Trong một tài liệu song song với
tài liệu này - mang tên “Đạo đức trong Internet” - chúng tôi đã thảo luận về những
vấn đề này theo chiều kích đạo đức[10].
Đến đây, chúng ta sẽ xem những ảnh hưởng của Internet đối với tôn giáo, cách
riêng đối với Giáo hội Công giáo.
Ảnh hưởng của Internet
3. Giáo Hội đề cập đến hai mục đích đối với Internet. Một là để
cổ vũ sự phát triển và sử dụng đúng đắn mạng Internet hầu giúp con người được
phát triển, giúp xã hội được công bằng và thế giới được hoà bình - nói chung là
giúp xây dựng xã hội ở cấp địa phương, quốc gia và cộng đồng thế giới trong
tinh thần liên đới và vì ích lợi chung. Đánh giá tầm quan trọng to lớn của việc
truyền thông xã hội, Giáo Hội tìm cách “đối thoại cách chân thành và kính trọng
với những người có trách nhiệm về các phương tiện truyền thông” - một sự đối
thoại trước hết nhằm định hình chính sách truyền thông[11].
“Về phía Giáo Hội, muốn đối thoại như thế, cần phải nỗ lực hiểu biết các phương
tiện truyền thông - mục đích, trình tự, hình thức và thể loại, những cơ chế bên
trong và những thể thức làm việc - và cần phải hỗ trợ cũng như khuyến khích những
ai tham gia công tác truyền thông. Dựa trên sự hiểu biết và nâng đỡ đầy thiện cảm
ấy, người ta có thể đưa ra những đề nghị có ý nghĩa, nhằm gỡ bỏ những trở ngại
đối với sự tiến bộ của con người và đối với việc rao giảng Tin Mừng”[12].
Nhưng Giáo Hội cũng quan
tâm tới việc truyền thông trong Giáo Hội và do Giáo Hội. Việc truyền thông ấy
không dừng lại ở chỗ có những thao tác kỹ thuật, vì nó “bắt đầu trong sự hiệp
thông yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa và trong việc các ngôi ấy liên lạc với
chúng ta”, cũng như bắt đầu từ chỗ chúng ta ý thức rằng sự truyền thông của Ba
Ngôi Thiên Chúa đã “vươn ra ngoài để đến với loài người: Ngôi Con chính là Lời
được Chúa Cha “nói ra” từ đời đời; rồi trong Đức Giêsu Kitô và qua Ngài, là Con
và là Lời đã thành xương thành thịt, Thiên Chúa truyền thông bản thân mình và
ơn cứu độ cho mọi người”[13].
Thiên Chúa vẫn tiếp tục
truyền thông cho loài người thông qua Giáo Hội, là người cưu mang và là người
giữ gìn mạc khải của Thiên Chúa, cũng là người duy nhất được Ngài giao cho nhiệm
vụ chính thức giải thích lời Ngài thông qua công tác giảng dạy của mình[14]. Ngoài ra, bản thân Giáo Hội
cũng là sự “hiệp thông” (communio), một sự hiệp thông của những con người và những
cộng đoàn Thánh Thể xuất phát từ sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa và mô phỏng
sự hiệp thông ấy[15]; và vì thế, hiệp thông là bản
chất của Giáo Hội. Đây chính là lý do mạnh hơn mọi lý do khác giải thích tại
sao “việc truyền thông của Giáo Hội phải là việc truyền thông mẫu mực, phản ánh
các tiêu chuẩn cao nhất của trung thực, trách nhiệm, nhạy cảm với các quyền của
con người và những nguyên tắc cũng như những chuẩn mực khác có liên quan”[16].
4. Cách đây ba thập niên, Huấn thị “Hiệp thông và Tiến bộ” đã
chỉ ra rằng “các phương tiện truyền thông hiện đại chính là những phương tiện mới
mẻ giúp mọi người đối diện với thông điệp Tin Mừng”[17].
Đức Phaolô VI nói rằng Giáo Hội “sẽ cảm thấy có lỗi trước mặt Chúa”, nếu Giáo Hội
không biết sử dụng các phương tiện truyền thông để loan báo Tin Mừng[18]. Đức Gioan Phaolô II đã gọi
các phương tiện truyền thông là “đất thánh đầu tiên của thời đại mới” và đã
tuyên bố rằng “nếu chỉ sử dụng các phương tiện truyền thông để phổ biến thông
điệp Kitô giáo và giáo huấn chính thức của Giáo Hội thì chưa đủ. Còn phải làm
sao đưa thông điệp ấy ăn sâu nào nền “văn hoá mới” do các phương tiện truyền
thông tạo ra”[19]. Điều ấy ngày nay còn quan
trọng hơn nữa, vì các phương tiện truyền thông bây giờ không những ảnh hưởng tới
nhận thức của con người về cuộc sống mà còn có thể nói rằng “kinh nghiệm con
người bây giờ chính là kinh nghiệm thu nhận được từ các phương tiện truyền
thông”[20].
Tất cả những điều vừa nói đều
áp dụng được cho Internet. Cả khi thế giới truyền thông xã hội “thỉnh thoảng có
gây xung đột với thông điệp Kitô giáo, đó vẫn là phương tiện đem lại cho chúng
ta những cơ hội có một không hai để chúng ta loan báo chân lý cứu độ của Đức
Kitô cho toàn thể gia đình nhân loại. Hãy nhìn những khả năng tích cực của
Internet trong việc cung cấp thông tin tôn giáo và giảng dạy, vượt mọi rào cản
và ranh giới. Có được một cử toạ đông đảo như thế, đó là điều vượt xa óc tưởng
tượng của những vị đã rao giảng Tin Mừng trước chúng ta… Người Công giáo không
nên lo sợ đến nỗi không dám mở rộng cánh cửa truyền thông xã hội cho Đức Kitô,
để Tin Mừng của Người có thể được nghe thấy từ trên nóc nhà thế giới”[21].
II. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH ĐỐ
5. “Việc truyền thông trong Giáo Hội và do Giáo Hội chủ yếu là
việc truyền đạt Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Đó là loan báo Tin Mừng như những
lời có giá trị ngôn sứ và có sức giải phóng cho hết mọi người trong thời đại
chúng ta; là làm chứng cho sự thật của Thiên Chúa và cho phẩm giá siêu việt của
con người trước tình trạng tục hoá triệt để; là liên kết với mọi người có niềm
tin để làm chứng chống lại xung đột và chia rẽ, làm chứng cho công bình và hiệp
thông giữa các dân tộc, các quốc gia và các nền văn hoá”[22].
Vì muốn loan báo Tin Mừng cho những người đã được đào tạo
theo nền văn hoá truyền thông thì phải cẩn thận lưu ý tới các đặc điểm của
chính các phương tiện truyền thông ấy, nên hiện nay Giáo Hội rất cần hiểu biết
Internet. Điều này thật cần thiết để Giáo Hội có thể truyền thông cách hiệu quả
với mọi người - nhất là với người trẻ - vì mọi người hôm nay đang ngụp sâu
trong kinh nghiệm công nghệ mới này, cũng như cần thiết để Giáo Hội sử dụng
công nghệ mới ấy cho tốt.
Các phương tiện truyền
thông đem lại cho chúng ta những điều thuận lợi và bổ ích quan trọng cả về mặt
tôn giáo: “Chúng mang đến tin tức và thông tin về các sự kiện tôn giáo, những
tư tưởng tôn giáo và những nhân vật tôn giáo; chúng đóng vai trò như những cỗ
xe phục vụ việc Phúc Âm hoá và huấn giáo. Mỗi ngày chúng đem lại nguồn cảm hứng,
sự khích lệ và những cơ hội thờ phượng cho những người bị ràng buộc ở nhà hay
các cơ sở”[23]. Nhưng trên hết và trước hết,
còn có một số lợi ích khá đặc biệt của riêng Internet. Nó cho phép con người có
thể tiếp cận trực tiếp và nhanh chóng với những nguồn tôn giáo và tâm linh quan
trọng - như những thư viện, bảo tàng và các nơi thờ phượng quan trọng, hay các
văn kiện của Huấn quyền Giáo Hội, các tác phẩm của các giáo phụ và tiến sĩ Giáo
Hội, cũng như kho tàng khôn ngoan tôn giáo qua các thời đại. Nó có khả năng
đáng kể là có thể rút ngắn khoảng cách và sự cô lập để giúp chúng ta tiếp xúc với
những người thiện chí có cùng ý hướng, làm thành những cộng đoàn ảo của đức tin
để khích lệ và nâng đỡ nhau. Giáo Hội có thể phục vụ cả người Công giáo lẫn người
không Công giáo bằng cách chọn lựa và truyền đạt những dữ kiện hữu ích qua
phương tiện truyền thông này.
Internet có liên quan tới nhiều hoạt động và chương trình của
Giáo Hội - như Phúc Âm hoá, bao gồm cả tái Phúc Âm hoá lẫn tân Phúc Âm hoá, và
việc truyền giáo đúng theo truyền thống “đến với dân ngoại”, huấn giáo và giáo
dục dưới những hình thức khác, thông tin, hộ giáo, điều hành và quản trị, tư vấn
mục vụ dưới một vài hình thức và linh hướng. Mặc dù không thể lấy thực tế ảo của
không gian tin học thay thế cho những cộng đoàn thật sự có quan hệ liên vị, cho
các bí tích và phụng vụ mang nặng tính nhập thể, cho việc loan báo Tin Mừng trực
tiếp và tức thời, nhưng Internet có thể bổ sung cho các hoạt động ấy, thu hút
con người đạt tới kinh nghiệm đầy đủ hơn về đời sống đức tin, đồng thời làm
giàu thêm cho đời sống tôn giáo của những người sử dụng Internet. Internet cũng
cung cấp cho Giáo Hội thêm một phương tiện để liên lạc với những tập thể đặc
thù như thiếu niên và thanh niên, người già và người không thể rời khỏi nhà,
người sống ở vùng xa, hội viên của các đoàn thể tôn giáo - tức là những người
có thể khó liên lạc và tiếp xúc.
Càng ngày càng có nhiều giáo xứ, giáo phận, dòng tu, các cơ
sở có liên quan với Giáo Hội, các chương trình và tổ chức đủ loại sử dụng
Internet một cách rất hữu hiệu cho những mục đích vừa kể và nhiều mục đích khác
nữa. Đã có nhiều dự án mang tính sáng tạo do Giáo Hội bảo trợ đang có mặt ở nhiều
nơi mang tầm cỡ quốc gia và khu vực. Toà Thánh đã hoạt động rất tích cực trong
lĩnh vực này từ vài năm nay và vẫn đang tiếp tục mở rộng cũng như phát triển mạng
Internet. Các tập thể có liên quan với Giáo Hội chưa tiến hành tham gia các thực
tế ảo cũng đang được khuyến khích xem lại khả năng thực hiện việc ấy sớm hơn.
Chúng tôi hết sức cổ vũ việc trao đổi quan điểm và thông tin về Internet giữa
những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực này với những người mới làm quen.
6. Giáo Hội
cũng cần tìm hiểu và sử dụng Internet như một công cụ truyền thông trong nội bộ
của mình. Muốn làm điều ấy, cần phải nhận thức rõ tính cách đặc biệt của
Internet, là phương tiện truyền thông trực tiếp, tức thời, tác động hỗ tương và
cho người sử dụng được tham gia.
Tác động hỗ tương hai chiều
của Internet đã xoá dần sự phân biệt xưa nay giữa người truyền thông và người
tiếp nhận những điều được truyền thông[24],
và tạo ra một tình trạng, nếu chưa thực hiện được thì ít là có khả năng làm như
thế, theo đó ai ai cũng có thể vừa làm người truyền thông vừa làm người tiếp nhận.
Đây không còn là sự truyền thông một chiều, từ trên xuống như thời xưa nữa. Vì
càng ngày càng có nhiều người quen với tính cách ấy của Internet trong các lĩnh
vực khác của cuộc sống, nên Giáo Hội mong rằng họ cũng sẽ như thế trong những
gì liên quan tới tôn giáo và Giáo Hội.
Công nghệ thì mới, nhưng ý
tưởng này không phải chỉ mới có đây. Công đồng Vatican II đã từng nói rằng mọi
thành phần trong Giáo Hội nên bày tỏ cho các chủ chăn của mình biết “các nhu cầu
và các ước nguyện của mình một cách tự do và tin tưởng, phù hợp với con cái
Thiên Chúa và anh em của Đức Kitô”. Thật ra, tùy theo sự hiểu biết, khả năng
chuyên môn hay địa vị của mình, người tín hữu không những có thể mà đôi khi còn
có bổn phận “bày tỏ ý kiến của mình về những gì có liên quan đến ích chung của
Giáo Hội”[25]. Huấn thị “Hiệp thông và tiến
bộ” còn lưu ý rằng là một “cơ thể sống động” như Giáo Hội “cần đến công luận để
tiếp tục động thái vừa cho vừa nhận giữa các chi thể với nhau”[26]. Mặc dù các chân lý đức tin
“không thể được giải thích một cách tuỳ tiện”, Huấn thị vẫn ghi nhận “đó cũng
là một lĩnh vực rộng lớn cho các thành phần Giáo Hội bày tỏ quan điểm của mình”[27].
Quan điểm tương tự cũng được
trình bày trong Bộ Giáo luật[28], cũng như trong các văn kiện
gần đây hơn của Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội[29].
Huấn thị “Thời đại mới” gọi sự truyền thông hai chiều và công luận là “một
trong những cách để Giáo Hội thực hiện cách cụ thể đặc tính Giáo Hội là ‘sự hiệp
thông”’[30]. Tài liệu “Đạo đức trong
truyền thông” cũng nói: “Dòng thông tin và quan điểm hai chiều giữa chủ chăn và
tín hữu, việc tự do phát biểu về những gì nhạy cảm liên hệ đến tình trạng an
sinh của cộng đoàn và đến vai trò của Huấn quyền trong việc cổ vũ tự do phát biểu,
cũng như nêu ý kiến một cách có trách nhiệm trước công luận đều là những cách
biểu lộ quan trọng cho ‘một quyền căn bản là quyền đối thoại và thông tin trong
nội bộ Giáo Hội’”[31]. Internet sẽ cho chúng ta
phương tiện công nghệ hết sức hữu hiệu để thực hiện viễn tượng ấy.
Nếu thế, đây chính là một dụng cụ có thể đem ra sử dụng
trong việc hành chính và quản trị về nhiều mặt. Bên cạnh việc mở nhiều kênh cho
công luận có nhiều cơ hội phát biểu, chúng tôi còn muốn nói tới những việc như
tham khảo các nhà chuyên môn, chuẩn bị các cuộc họp, cộng tác trong và giữa các
nhà thờ cũng như trong và giữa các tổ chức tu trì, ở cấp địa phương, quốc gia
và quốc tế.
7. Giáo dục và huấn luyện là một lĩnh vực khác nữa có nhiều
triển vọng và nhu cầu đối với Internet. “Hiện nay ai ai cũng cần một hình thức
tiếp tục giáo dục qua các phương tiện truyền thông, bằng cách tự học hoặc tham
dự một chương trình có tổ chức hoặc cả hai. Việc giáo dục qua phương tiện truyền
thông không chỉ dạy cho chúng ta biết một số kỹ thuật mà còn giúp chúng ta hình
thành nên một số tiêu chuẩn thẩm mỹ và phán đoán luân lý cách trung thực, là một
khía cạnh trong việc đào tạo lương tâm. Thông qua các trường học và các chương
trình đào tạo của mình, Giáo Hội nên cung cấp việc giáo dục theo loại này”[32]. Giáo dục và huấn luyện về
Internet nên được xếp thành một phần trong chương trình giáo dục truyền thông đầy
đủ dành cho mọi thành phần trong Giáo Hội. Khi lập kế hoạch mục vụ cho truyền
thông xã hội, chúng ta hãy cố gắng hết sức để dự trù việc huấn luyện này trong
chương trình đào tạo chủng sinh, linh mục, tu sĩ, giáo dân làm mục vụ như giáo
viên, cha mẹ, sinh viên”[33].
Cách riêng, các bạn trẻ cần
được giáo dục “không chỉ để trở thành những Kitô hữu tốt biết tiếp nhận thông
tin, mà còn là những Kitô hữu tích cực biết tận dụng mọi sự hỗ trợ cho công tác
truyền thông mà mình có thể tìm thấy trong các phương tiện truyền thông… Như thế,
các bạn trẻ sẽ trở thành những công dân đích thực của thời đại truyền thông xã
hội, một thời đại vừa mới bắt đầu”[34]
- một thời đại trong đó các phương tiện truyền thông được coi là “một phần của
nền văn minh chưa được triển khai hoàn toàn, với những hậu quả mà bây giờ chúng
ta chỉ hiểu một cách chưa trọn vẹn”[35].
Dạy Internet và công nghệ thông tin mới bao gồm nhiều thứ chứ không phải chỉ nhằm
dạy cho biết các kỹ thuật. Người trẻ cần phải học cho biết cách làm việc thành
thạo trong thế giới của các thực tế ảo, đưa ra những phê bình có suy nghĩ chín
chắn dựa theo những tiêu chuẩn luân lý lành mạnh để biết mình phải tìm kiếm điều
gì trong các phương tiện ấy, cũng như biết dùng các công nghệ mới để bản thân
mình được phát triển toàn diện và người khác được ích lợi.
Những điểm tiêu cực
8. Internet cũng đặt ra một số vấn đề đặc biệt cho Giáo Hội chứ
không chỉ là những vấn đề tổng quát đã bàn đến trong tài liệu “Đạo đức trong
Internet”, tức là tài liệu đi kèm theo tài liệu này[36].
Một khi đã nhấn mạnh những điểm tích cực về Internet, ta cũng cần phải hiểu rõ
những điểm không tích cực của Internet.
Nhìn sâu xa hơn, “thế giới
của các phương tiện truyền thông đôi khi có thể rất vô tình, thậm chí đối nghịch
cả với đức tin và luân lý Kitô giáo. Một phần là vì văn hoá của các phương tiện
truyền thông bị thấm nhiễm sâu xa một cảm thức điển hình của thời kỳ hậu hiện đại
là: chân lý duy nhất có giá trị tuyệt đối là chẳng có chân lý nào tuyệt đối hay
nếu có thì trí khôn của con người cũng không thể nào tiếp cận được, và vì thế,
chúng hoàn toàn không thích đáng”[37].
Trong số những vấn đề đặc
biệt do Internet đặt ra có vấn đề: có những địa chỉ truy cập chỉ nhằm mục đích
bôi nhọ và tấn công các tập thể tôn giáo và sắc tộc. Một số trong các địa chỉ ấy
nhắm tới Giáo hội Công giáo. Cũng như tranh ảnh khiêu dâm và bạo lực trong các
phương tiện truyền thông, những địa chỉ thù nghịch của Internet chính là “những
phản ánh bề mặt đen tối của bản tính con người đã bị tội làm cho hư hỏng”[38]. Nếu để tôn trọng sự tự do
phát biểu, đôi khi chúng ta cũng phải chịu đựng những tiếng nói hận thù tới một
mức nào đó, thì nhu cầu tự điều hoà công nghiệp truyền thông và khi cần, sự can
thiệp của chính quyền, cũng nên đặt ra và bắt mọi người phải tuân thủ một số giới
hạn hợp lý trong việc lựa chọn những điều có thể nói ra.
Số địa chỉ mạng quá nhiều tự nhận là Công giáo đặt ra cho
Giáo Hội một vấn đề khác. Như thường nói, các tập thể có liên quan tới Giáo Hội
nên có mặt trên mạng Internet một cách sáng tạo; những cá nhân và những tập thể
không chính thức nào có động cơ và có thông tin đầy đủ, có thể tự mình hoạt động,
đều có quyền có mặt trên mạng. Nhưng nói cho cùng thì thật khó phân biệt được
những cách giải thích giáo lý kỳ lạ, những việc thực hành tôn giáo lập dị và việc
ủng hộ một ý thức hệ mang nhãn hiệu “Công giáo”, với những lập trường đích thật
của Giáo Hội. Dưới đây chúng tôi xin đưa ra một cách giải quyết vấn đề.
9. Một số vấn đề khác còn cần phải được suy nghĩ nhiều. Đối với
các vấn đề ấy, chúng tôi đề nghị tiếp tục tìm tòi và nghiên cứu, chẳng hạn như
việc “triển khai một quan điểm nhân học và một nền thần học về sự truyền thông”[39], còn bây giờ chúng tôi muốn
đề cập đặc biệt tới Internet. Dĩ nhiên, song song với việc tìm tòi và nghiên cứu,
có thể và nên xúc tiến cả kế hoạch mục vụ tích cực về việc sử dụng Internet[40].
Một lĩnh vực cần nghiên cứu
có liên quan tới đề xuất sau đây: việc cho lựa chọn rộng rãi các sản phẩm tiêu
thụ và các dịch vụ có sẵn trên Internet có thể có tác dụng lan đến lĩnh vực tôn
giáo, khuyến khích người ta tiếp cận các vấn đề thuộc về đức tin với tinh thần
“tiêu thụ”. Các dữ kiện trên Internet cho thấy, một số người truy cập các địa
chỉ trên mạng liên quan đến tôn giáo có thể hành động như những người mua sắm
hoang phí, xem xét và lựa chọn những gói hàng tôn giáo có sẵn phù hợp với thị
hiếu của mình. “Khuynh hướng của một số người Công giáo hiện nay là lựa chọn để
theo” - lựa chọn những giáo huấn mình thích trong toàn bộ giáo huấn của Giáo Hội
để thi hành - và đây là một vấn đề thật sự được ghi nhận trong những bối cảnh
khác[41] chắc chắn cần phải có
thêm nhiều thông tin nữa, để tìm hiểu xem vấn đề này có bị Internet làm trầm trọng
thêm hay không và nếu có thì tới mức nào.
Tương tự như thế, thực tế ảo của không gian tin học cũng gây
ra một số hậu quả đáng lo cho tôn giáo cũng như cho các lĩnh vực khác của cuộc
sống. Thực tế ảo không thể nào thay thế sự hiện diện thật của Đức Kitô trong bí
tích Thánh Thể, không thể nào thay thế thực tại bí tích của các bí tích khác và
sự thờ phượng chung của một cộng đồng gồm những con người có máu có thịt hẳn
hoi. Không có bí tích trên Internet; thậm chí nếu như nhờ ơn Chúa, những kinh
nghiệm tôn giáo có thể trải nghiệm trên Internet được thì các kinh nghiêm ấy
cũng chưa đủ, nếu bị tách khỏi sự tương tác trong thế giới thật của người có
kinh nghiệm ấy với những người chưa có đức tin, Đây là một khía cạnh nữa của
Internet đòi chúng ta phải nghiên cứu và suy nghĩ. Đồng thời, trong kế hoạch mục
vụ người ta cũng cần xem xét làm sao hướng dẫn dân chúng đi từ thực tế ảo sang
cộng đồng có thật, làm thế nào thông qua việc giảng dạy và huấn giáo, chúng ta
có thể dùng Internet để giữ gìn và nuôi dưỡng họ sống những điều cam kết của
người Kitô hữu.
III. NHẮN NHỦ VÀ KẾT LUẬN
10. Những
người có tôn giáo, cũng như những thành phần có liên quan trong thế giới
Internet rộng lớn, có những bận tâm hợp pháp riêng, nhưng tất cả đều mong muốn
tham gia vào tiến trình làm sao phát triển phương tiện truyền thông này trong
tương lai. Khỏi cần nói cũng biết công việc này nhiều khi đòi họ phải điều chỉnh
lại nếp suy nghĩ và cách hành động của mình.
Cũng quan trọng không kém
khi mọi người thuộc đủ mọi cấp độ trong Giáo Hội biết sử dụng Internet một cách
sáng tạo để thi hành trách nhiệm và giúp Giáo Hội chu toàn sứ mạng. Nhìn thấy
vô số khả năng tích cực do Internet mang lại mà vẫn rụt rè vì sợ công nghệ hay
vì một lý do nào khác thì thật là không thể chấp nhận được. “Các phương pháp tạo
thuận lợi cho việc truyền thông và đối thoại giữa thành phần của Giáo Hội có thể
thắt chặt dây liên kết giữa họ với nhau. Nhờ tiếp cận các thông tin cách tức thời
mà Giáo Hội có thể đẩy xa việc đối thoại của mình với thế giới đương thời… Giáo
Hội cũng có thể dễ dàng cho thế giới biết những niềm tin của mình, giải thích
lý do tại sao mình có lập trường thế này hay thế nọ về một vấn đề hoặc một sự
kiện nào đó. Giáo Hội có thể nghe rõ hơn tiếng nói của dư luận quần chúng và tiếp
tục thảo luận không ngừng với thế giới chung quanh; bằng cách đó, Giáo Hội sẽ
tham gia nhạy bén hơn vào công cuộc tìm kiếm chung để khám phá ra những giải
pháp cho nhiều vấn đề cấp bách của nhân loại”[42].
11. Bởi đó,
để kết luận cho những suy tư trên đây, chúng tôi xin đưa ra những lời động viên
cho một số tập thể đặc biệt như các vị lãnh đạo Giáo Hội, các người đang làm
công tác mục vụ, các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ và cách riêng, giới trẻ.
Với các vị lãnh đạo Giáo Hội
Những ai đang ở trong cương
vị lãnh đạo trong mọi ngành, mọi cấp của Giáo Hội cần hiểu biết các phương tiện
truyền thông, ứng dụng những hiểu biết ấy vào việc thiết lập kế hoạch mục vụ về
truyền thông xã hội[43], cùng với những chính sách
và những chương trình cụ thể trong lĩnh vực này, đồng thời biết sử dụng thích hợp
các phương tiện ấy. Nếu cần, bản thân các vị ấy cũng nên học hỏi về các phương
tiện truyền thông. Thật vậy, “Giáo Hội sẽ được phục vụ tốt hơn, nếu càng ngày
càng có nhiều người nắm giữ chức vụ và thi hành phận sự nhân danh Giáo Hội được
huấn luyện về việc truyền thông”[44]. Điều này áp dụng cho các
phương tiện truyền thông xưa cũng như cho Internet. Các vị lãnh đạo Giáo Hội bị
buộc phải sử dụng “cho hết tiềm lực của thời đại điện toán để phục vụ ơn gọi vừa mang tính nhân bản vừa
siêu việt của con người, nhờ đó tôn vinh Thiên Chúa Cha là nguồn của mọi điều tốt
đẹp”[45]. Các vị nên dùng công nghệ
đáng chú ý này vào các lĩnh vực khác nhau đê thi hành sứ mạng của Giáo Hội, đồng
thời khai thác các cơ hội cho phép mình cộng tác đại kết và cộng tác liên tôn
trong việc sử dụng Internet.
Một khía cạnh đặc biệt của Internet, như chúng ta đã thấy,
có liên quan tới tình trang các địa chỉ mạng không chính thức mang nhãn hiệu
’Công giáo‘ xuất hiện quá nhiều tới mức đôi khi làm chúng ta phải bối rối. Nếu
có một hệ thống kiểm tra tự nguyện ở cấp địa phương và quốc gia, dưới sự giám
sát của các đại diện Huấn quyền Hội Thánh, có lẽ sẽ giúp chúng ta thẩm định các
địa chỉ này về mặt nội dung giáo thuyết và giáo lý. Đây không phải là áp đặt một
hình thức kiểm duyệt nhưng chỉ là giúp những người sử dụng Internet có được những
chỉ dẫn đáng tin cậy để biết đâu là lập trường đích thực của Giáo Hội.
Với các người đang làm công tác mục vụ
Các linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân làm mục vụ nên được
học hỏi về các phương tiện truyền thông để hiểu biết hơn về ảnh hưởng của việc
truyền thông xã hội trên cá nhân cũng như trên xã hội, đồng thời giúp họ có được
một phong thái truyền thông, có thể đáp ứng được cảm quan và bạn tâm của quần
chúng đang sống trong văn hoá truyền thông. Ngày nay, khi nói như thế là bao gồm
cả việc học cách sử dụng Internet trong công tác của mình. Tất cả những ai đang
làm công tác mục vụ đều sẽ thu lượm được lợi ích từ những địa chỉ mạng giúp
mình cập nhật thần học và có những đề xuất mục vụ.
Đối với những vị trực tiếp
tham gia vào các phương tiện truyền thông của Giáo Hội, có lẽ không cần nói họ
phải được huấn luyện chuyên nghiệp về việc này. Tuy nhiên, họ cũng cần được đào
tạo về mặt giáo thuyết và tâm linh nữa, vì “muốn làm chứng cho Đức Kitô, cần phải
gặp gỡ đích thân Ngài và cần phải tăng cường mối quan hệ cá nhân giữa mình với
Chúa nhờ cầu nguyện, tham dự Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hoà Giải, đọc và suy
gẫm Lời Chúa, học hỏi giáo lý Giáo Hội, và phục vụ người khác”[46].
Với các nhà giáo dục và giáo lý viên
Huấn thị “Hiệp thông và Tiến
bộ” đã nói tới “nghĩa vụ cấp bách” của các trường Công giáo là huấn lệnh các
nhà truyền thông và các người tiếp nhận việc truyền thông xã hội theo đúng các
nguyên tắc Kitô giáo[47]. Lời nhắn nhủ này vẫn còn
được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Trong thời đại Internet này, một phương tiện
truyền thông có tầm hoạt động và ảnh hưởng rộng lớn, nhu cầu ấy càng trở nên cấp
thiết hơn bao giờ.
Các trường đại học, cao đẳng,
trung học, cũng như các chương trình giáo dục của Công giáo ở mọi cấp cần phải
cung cấp các khóa đào tạo cho các nhóm khác nhau – “từ chủng sinh, linh mục, tu
sĩ nam nữ, cho tới các giáo dân ở cấp lãnh đạo… như giáo viên, phụ huynh và
sinh viên học sinh”[48] – cũng như các khoá
đào tạo cao hơn trong công nghệ truyền thông, chính sách truyền thông cho các
cá nhân đang chuẩn bị làm việc truyền thông cách chuyên nghiệp hay chuẩn bị giữ
các vai trò đưa ra quyết định, kể cả những người làm việc trong địa hạt truyền
thông cho Giáo Hội. Ngoài ra, chúng tôi xin giao các vấn đề và thắc mắc đã nói
trên đây cho các học giả và các nhà nghiên cứu của các bộ môn có liên hệ tại
các cơ sở đào tạo cấp cao của Giáo Hội.
Với các bậc cha mẹ
Vì ích lợi của con cái,
cũng như vì ích lợi của bản thân mình, các bậc phụ huynh cần phải “học tập các
kỹ năng để làm những khán giả, thính giả và độc giả biết phân định, trở
thành mẫu mực biết sử dụng cách khôn ngoan các phương tiện truyền thông tại nhà
mình”[49]. Đối với Internet, trẻ em
và thanh thiếu niên hiện nay thường thành thạo hơn cha mẹ chúng, nhưng cha mẹ vẫn
có bổn phận quan trọng là hướng dẫn và giám sát con cái trong việc sử dụng
Internet[50]. Nếu muốn như vậy, họ phải
học tập về Internet nhiều hơn những gì cho tới nay họ đã học, việc này lúc nào
cũng tốt.
Cha mẹ giám sát cũng có nghĩa là phải bảo đảm rằng công nghệ
thanh lọc chương trình được đưa vào trong các máy vi tính mà con cái sử dụng,
khi điều ấy có thể làm được về mặt tài chính cũng như về mặt kỹ thuật, hầu bảo
vệ chúng càng nhiều càng tốt khỏi hình ảnh khiêu dâm, khỏi những hình thức khai
thác tính dục và những mối đe dọa khác. Không nên cho phép sử dụng Internet mà
không giám sát. Cha mẹ và con cái nên trao đổi với nhau về những gì xem được và
những gì trải nghiệm được trong không gian ảo; đồng thời việc chia sẻ với các
gia đình khác theo đuổi cùng những giá trị và cũng những bận tâm với mình cũng
sẽ rất ích lợi. Nghĩa vụ căn bản của các cha mẹ ở đây là giúp con cái trở thành
những người biết sử dụng Internet một cách có phân biệt và có trách nhiệm chứ
không trở thành những người nghiện Internet, không quan tâm tiếp xúc với những
người cùng trang lứa và với cả thiên nhiên.
Với trẻ em và thanh thiếu niên
Internet là cửa mở cho ta
thấy một thế giới đầy hào hứng và quyến rũ, có ảnh hưởng giáo dục rất lớn.
Nhưng không phải mọi sự ở bên kia cánh cửa đều an toàn, lành mạnh và chân thật.
“Trẻ em và thanh thiếu niên cần được đào tạo về các phương tiện truyền thông,
chống lại con đường dễ dãi là thụ hưởng mà không biết phê bình, chiều theo áp lực
của bạn bè và những hình thức khai thác mang tính thương mại”[51]. Người trẻ có được đào tạo
như thế để sử dụng Internet cách đúng đắn là do chính bản thân mình, do cha mẹ,
gia đình và bạn bè, do các chủ chăn và thầy cô, sau cùng là do Chúa.
Internet trao vào tay người trẻ ở một độ tuổi quá sớm cái khả
năng vô hạn để làm điều tốt hay làm điều xấu, cho bản thân mình và cho người
khác. Nó có thể giúp làm cho đời sống của chúng được phong phú thêm, vượt xa những
gì mà các thế hệ trước dám mơ tưởng và làm cho chúng có khả năng giúp đời sống
của người khác thêm phong phú. Nhưng nó cũng có thể dìm người trẻ vào trong chủ
nghĩa tiêu thụ, trong cơn mê với những hình ảnh khiêu dâm và bạo lực, hay tình
trạng cô lập bệnh hoạn.
Người trẻ, như thường nói, là tương lai của xã hội và Giáo Hội.
Việc sử dụng tốt Internet có thể giúp người trẻ chuẩn bị để lãnh các trách nhiệm
trong xã hội lẫn Giáo Hội. Nhưng điều này không tự động xảy ra. Internet không
chỉ là một phương tiện giải trí và làm thoả mãn người tiêu thụ. Nó còn là một dụng
cụ giúp ta hoàn thành các việc hữu ích. Người trẻ phải học nhìn ra điều ấy và sử
dụng đúng như thế. Trong không gian ảo của Internet, nếu không nhiều hơn thì ít
là bằng ở bất cứ nơi nào khác, người trẻ có thể được mời gọi để chống lại làn
sóng của chủ nghĩa phi văn hoá, thậm chí có thể phải chịu đựng cả sự bách hại,
vì điều thật, điều tốt.
Với người thiện chí
12. Sau
cùng, chúng tôi xin đề xuất một số đức tính mà mọi người cần vun trồng nếu muốn
sử dụng tốt Internet; muốn thực tập các đức tính này chúng ta cần thiết dựa vào
và được hướng dẫn bởi thái độ biết đánh giá nội dung của Internet một cách hiện
thực.
Không ngoan là đức tính cần thiết để thấy rõ những gì hàm chứa
- tức là tiềm năng làm ra điều tốt và điều xấu - trong phương tiện truyền thông
mới mẻ này và biết đáp ứng cách sáng tạo những thách đố và những cơ hội của
phương tiện truyền thông.
Công bằng là đức tính cần
thiết đặc biệt khi làm việc để khép lại sự phân chia theo kỹ thuật số - để lấp
khoảng cách giữa người giàu và người nghèo thông tin trong thế giới hôm nay[52]. Muốn thế, cần phải cam kết
phục vụ ích lợi chung của thế giới, hay có thể nói, cam kết “toàn cầu hoá
sự liên đới”[53].
Mạnh mẽ, can đảm cũng là điều cần thiết. Nghĩa là phải biết
đứng lên bảo vệ sự thật trước chủ nghĩa tương đối hoá trong tôn giáo và luân
lý, đứng lên bảo vệ tinh thần vị tha và quảng đại trước chủ nghĩa tiêu thụ cá
nhân, đứng lên bảo vệ sự thanh cao trước nhục dục và tội lỗi.
Và cũng cần có đức tiết độ - tức là biết kỷ luật chính mình
khi tiếp cận với công cụ kỹ thuật tuyệt vời ấy, để sử dụng cách khôn ngoan và
chỉ sử dụng làm việc tốt.
Khi suy nghĩ về Internet,
cũng như về các phương tiện truyền thông xã hội khác, chúng tôi nhớ rằng Đức
Kitô chính là “nhà truyền thông hoàn hảo”[54] –
là chuẩn mực và mẫu mực cho Giáo Hội tiếp cận việc truyền thông, cũng như là nội
dung để Giáo Hội truyền thông cho thế giới. “Ước chi các người Công giáo đang
tham gia vào thế giới truyền thông xã hội biết rao giảng sự thật của Đức Kitô một
cách bạo dạn hơn bao giờ hết, rao giảng từ mọi nóc nhà, để mọi người có thể
nghe được tình thương, là trọng tâm của thông điệp mà Thiên Chúa muốn thông
truyền cho mọi người nơi Đức Kitô, hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn thế”[55].
Vatican, ngày
22-2-2002, Lễ kính Ngai toà Thánh Phêrô Tông đồ
(đã ký)
JOHN P. FOLEY
Chủ tịch
(Đã ký)
PIERFRANCO PASTORE
Thư ký
(Lm. Phêrô Đặng Xuân Thành, Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Ô. Trần Bá Nguyệt, Ô. Nguyễn Văn Khi, Ô. Hà Kim Phước, Ô. Nguyễn Hoàng Quy và Cô Minh Thuỵ dịch từ vatican.va)
Trích Bản tin Hiệp
Thông / HĐGMVN, Số 29-30
(Tháng 5 & 7 năm 2005)
[3] Chẳng hạn Sắc lệnh Trong số những điều kỳ diệu; các thông
điệp của Đức Phaolô VI và Đức Phaolô II nhân những Ngày Quốc tế Truyền thông;
các huấn thị của Hội đồng Toà Thánh về Truyền thông như Hiệp thông và tiến bộ, Một câu trả lời mục
trước tình trạng hình ảnh khiêu dâm và bạo lực trên các phương tiện truyền
thông, Thời đại mới, Đạo đức trong quảng cáo, Đạo đức trong truyền thông.
[4]
[21] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp nhân ngày Quốc tế Truyền thông lần
thứ 35, số 3, ngày 27-5-2001.
[38]
[41] x. Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn với các Giám mục Hoa Kỳ, số 5,
tại Los Angeles, ngày 16-9-1987.
[53] Đức Gioan Phaolô II, diễn văn với Tổng
Thư ký Liên Hiệp Quốc và Uỷ ban Phối kết của Liên Hiệp Quốc, số 2, ngày
7-4-2000.
[55] Thông điệp nhân Ngày Quốc tế Truyền thông lần thứ 35, số 4.