GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)
LỄ CHÚA GIÁNG SINH
WHĐ (21.12.2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện
hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng,
Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh
Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và
Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được
công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
Số 456-460, 466: Tại sao Ngôi Lời làm người?
456. Cùng với Tín biểu Nicêa-Constantinôpôli, chúng ta tuyên xưng:
“Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế. Bởi
phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm
người”[1].
457. Ngôi Lời đã làm người để cứu độ chúng ta, bằng cách giao hòa
chúng ta với Thiên Chúa: Thiên Chúa “đã yêu thương chúng ta và sai Con của Ngài
đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10). “Chúa Cha đã sai Con của Ngài
đến làm Đấng cứu độ thế gian” (1 Ga 4,14). “Chúa Giêsu đã xuất hiện để xoá
bỏ tội lỗi” (1 Ga 3,5):
“Bản tính chúng
ta vì bệnh tật nên cần được chữa lành, vì sa ngã nên cần được nâng dậy, vì đã
chết nên cần được phục sinh. Chúng ta đã đánh mất việc thông phần vào sự thiện,
nên cần được dẫn trở về sự thiện. Chúng ta bị vây hãm trong bóng tối, nên cần đến
ánh sáng. Chúng ta bị tù đầy nên mong người cứu chuộc; bị thua trận, nen cần
người trợ giúp, bị áp bức dưới ách nô lệ nên chờ người giải phóng. Đó lại là những
lý do nhỏ bé và không xứng đáng để làm cho Thiên Chúa động lòng hay sao? Những
lý do ấy không đủ để Thiên Chúa xuống viếng thăm bản tính nhân loại, trong lúc
nhân loại đang ở trong tình trạng khốn cùng và bất hạnh hay sao?”[2]
458. Ngôi Lời đã làm người để chúng ta nhận biết tình yêu của Thiên
Chúa: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên
Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Ngài mà chúng ta được sống”
(l Ga 4,9). “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con
của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,l6).
459. Ngôi Lời đã làm người để trở thành gương mẫu thánh thiện cho
chúng ta. “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi…” (Mt 11,29).
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với
Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga l4,6). Và trên núi Hiển Dung, Chúa Cha đã truyền:
“Hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7)[3]. Người đúng là gương mẫu của
các mối phúc thật và là chuẩn mực của Luật mới: “Anh em hãy yêu thương nhau,
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga l5,l2). Tình yêu này đòi hỏi người ta thật sự
hiến thân để đi theo Người[4].
460. Ngôi Lời đã làm người để làm cho chúng ta được “thông phần bản
tính Thiên Chúa” (2 Pr l,4). “Chính vì điều này mà Ngôi Lời của Thiên Chúa làm
người, Đấng là Con Thiên Chúa trở nên Con Người, đó là để cho loài người, khi kết
hợp với Ngôi Lời của Thiên Chúa và nhận quyền làm nghĩa tử, thì được trở nên
con cái Thiên Chúa”[5]. “Chính Người đã làm người,
để chúng ta được trở thành những vị thần”[6].
“Con Một Thiên Chúa, bởi muốn cho chúng ta được tham dự vào thần tính của Người,
nên đã mang lấy bản tính của chúng ta, để Đấng đã làm người, làm cho người ta
trở thành những vị thần”[7].
466. Lạc thuyết cua Nestôriô cho rằng trong Đức Kitô ngôi vị nhân
loại được liên kết với Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa. Chống lại lạc thuyết
này, Thánh Cyrillô Alêxanđria và Công đồng chung thứ III họp tại Êphêsô năm 431
tuyên xưng rằng: “Ngôi Lời đã làm người, khi một thân thể do một linh hồn có lý
trí làm cho sống động được kết hợp với Ngài theo Ngôi Vị”[8].
Nhân tính của Đức Kitô không có một chủ thể nào khác ngoài Ngôi Vị thần linh của
Con Thiên Chúa, Đấng đã nhận lấy nhân tính ấy làm của mình từ lúc tượng thai.
Chính vì vậy, Công đồng chung Êphêsô vào năm 431 công bố rằng Đức Maria, nhờ sự
tượng thai nhân loại của Con Thiên Chúa trong lòng bà, bà đã rất thật sự trở
thành Mẹ Thiên Chúa: “[Đức Maria là] Mẹ Thiên Chúa…, không phải vì bản tính của
Ngôi Lời và thần tính của Ngài đã bắt đầu được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ rất
thánh, nhưng vì từ Đức Trinh Nữ đã sinh ra thân xác thánh thiêng đó, do một
linh hồn có lý trí làm cho sống động, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã kết hợp với
thân xác đó theo Ngôi Vị, nên có thể nói Ngôi Lời đã được sinh ra theo xác
phàm”[9].
Số 461-463, 470-478: Nhập Thể
461. Lấy lại cách nói của thánh Gioan (“Ngôi Lời đã trở thành nhục
thể”: Ga 1,14), Hội Thánh dùng từ “Nhập Thể” để gọi sự kiện Con Thiên Chúa nhận
lấy bản tính nhân loại, để thực hiện việc cứu độ chúng ta trong bản tính ấy.
Trong một thánh thi do thánh Phaolô ghi lại, Hội Thánh hát mừng mầu nhiệm Nhập
Thể như sau:
“Anh em hãy có
những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu: Chúa Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa,
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng
đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống
như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu
chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,5-8)[10].
462. Thư gửi tín hữu Do Thái cũng nói về mầu nhiệm ấy như sau:
“Vì vậy, khi vào
trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho
con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con
mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,5-7,
trích Tv 40,7-9, bản LXX).
463. Tin vào việc Nhập Thể thật của Con Thiên Chúa là dấu hiệu đặc
trưng của đức tin Kitô giáo. “Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra Thần Khí của
Thiên Chúa: Thần Khí nào tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã đến, và trở nên
người phàm, thì Thần Khí ấy bởi Thiên Chúa” (l Ga 4,2). Đó cũng là niềm xác tín
hân hoan của Hội Thánh ngay từ buổi đầu, khi hát mừng “mầu nhiệm cao cả của đạo
thánh”: “Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm” (1 Tm 3,16).
Con Thiên Chúa làm người như
thế nào?
470. Trong sự kết hợp kỳ diệu của mầu nhiệm Nhập Thể, “bản tính
nhân loại được đảm nhận, chứ không bị hoà tan”[11],
nên qua các thế kỷ, Hội Thánh hằng tuyên xưng Chúa Kitô có một linh hồn nhân loại
thật với các hoạt động của trí tuệ và ý chí, và một thân xác nhân loại thật.
Nhưng đồng thời Hội Thánh đã phải luôn nhắc lại rằng bản tính nhân loại của Đức
Kitô thuộc hẳn về Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa, Đấng đã đảm nhận nó. Tất
cả những gì Đức Kitô là và tất cả những gì Người làm trong bản tính nhân loại,
đều xuất phát từ “một Đấng trong Ba Ngôi Thiên Chúa”. Vì vậy, Con Thiên Chúa
truyền thông cho nhân tính của Người cách thức hiện hữu riêng của Ngôi Vị mình
trong Ba Ngôi. Như vậy, trong linh hồn cũng như trong thân xác của Người, Đức
Kitô diễn tả theo cách thế nhân loại cung cách hành xử của Thiên Chúa Ba Ngôi[12]:
“Con Thiên Chúa
đã làm việc với đôi tay nhân loại, suy nghĩ bằng trí óc nhân loại, hành động
theo ý chí nhân loại, yêu mến bằng quả tim nhân loại. Sinh làm con Đức Trinh Nữ
Maria, Người đã thật sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta trong mọi
sư, ngoại trừ tội lỗi”[13].
Linh hồn và tri thức nhân loại của Đức Kitô
471. Apôlinariô Laođicensê cho rằng trong Đức Kitô, Ngôi Lời đã
thay thế linh hồn hay tinh thần. Để chống lại điều sai lạc này, Hội Thánh tuyên
xưng: Ngôi Con hằng hữu cũng đã đảm nhận một linh hồn nhân loại có lý trí[14].
472. Linh hồn nhân loại này, mà Con Thiên Chúa đã đảm nhận, đã được
phú bẩm một tri thức nhân loại thật sự. Tri thức này, theo đúng nghĩa, tự nó
không thể có tính chất vô hạn: nó được hình thành trong các điều kiện lịch sử của
cuộc sống trong không gian và thời gian. Do đó, Con Thiên Chúa khi làm người,
đã có thể chấp nhận “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa”
(Lc 2,52) và thậm chí Người còn phải tìm hiểu về những điều mà trong điều kiện
nhân loại, phải được học hỏi qua kinh nghiệm[15].
Điều này phù hợp với việc Người tự nguyện hạ mình “mặc lấy thân nô lệ”[16].
473. Nhưng, đồng thời, tri thức nhân loại thật sự này của Con Thiên
Chúa cũng diễn tả sự sống thần linh của Ngôi Vị của Người[17].
“Con Thiên Chúa biết hết mọi sự; và con người mà Người tiếp nhận cũng biết như
thế, không phải do bản tính, nhưng do kết
hợp với Ngôi Lời. Nhân tính, được kết hợp với Ngôi Lời, biết hết mọi sự và
biểu hiện những đặc tính thần linh xứng với uy quyền nơi mình”[18]. Trước hết, đó là trường hợp
Con Thiên Chúa làm người có một sự hiểu biết thâm sâu và trực tiếp về Cha của
Người[19]. Trong tri thức nhân loại của
mình, Chúa Con cũng cho thấy Người có khả năng thần linh nhìn thấu những tư tưởng
thầm kín trong lòng dạ người ta[20].
474. Tri thức nhân loại của Đức Kitô, vì được kết hợp với Đức Khôn
Ngoan thần linh trong Ngôi Lời nhập thể, hiểu biết đầy đủ các kế hoạch vĩnh cửu
mà Người đến để mạc khải[21]. Điều Người nói là Người
không biết trong lãnh vực này[22], thì ở chỗ khác Người tuyên
bố là Người không có sứ vụ mạc khải điều ấy[23].
Ý muốn nhân loại của Đức Kitô
475. Một cách tương tự, trong Công đồng chung thứ VI, Hội Thánh đã
tuyên xưng rằng Đức Kitô có hai ý muốn và hai hoạt động theo hai bản tính Thiên
Chúa và nhân loại, không đối kháng nhưng hợp tác với nhau, cho nên Ngôi Lời làm
người, trong sự phục tùng theo nhân tính đối với Chúa Cha, đã muốn điều mà Người
đã quyết định, theo thần tính, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, về ơn cứu
độ chúng ta[24]. Hội Thánh nhận biết rằng
“ý muốn nhân loại của Người luôn theo ý muốn thần linh, không miễn cưỡng, không
đối kháng, và hơn nữa, ý muốn nhân loại của Người đã phục tùng ý muốn thần linh
và toàn năng của Người”[25].
Thân xác thật của Đức Kitô
476. Bởi vì Ngôi Lời đã làm người khi đảm nhận một nhân tính thật,
nên thân xác của Đức Kitô có những nét xác định rõ ràng[26].
Do đó, dung nhan nhân loại của Chúa Giêsu có thể được “hoạ lại”[27] Trong Công đồng chung thứ
VII[28], Hội Thánh công nhận việc
Người được trình bày qua các ảnh tượng thánh là hợp pháp.
477. Đồng thời, Hội Thánh cũng luôn luôn công nhận: trong thân xác
của Chúa Giêsu, “Thiên Chúa vốn là Đấng vô hình, đã xuất hiện hữu hình cho
chúng ta”[29]. Thật vậy, các đặc điểm cá
nhân của thân xác Đức Kitô diễn tả Ngôi Vị thần linh của Con Thiên Chúa. Con
Thiên Chúa đã nhận làm của mình những nét nhân dạng của thân xác Người, cho nên
khi được hoạ lại nơi một ảnh tượng thánh nào đó, những nét này có thể được tôn
kính, bởi vì khi tín hữu tôn kính ảnh tượng thánh, là họ “tôn thờ chính Đấng mà
ảnh tượng thánh ấy diễn tả”[30].
Trái tim của Ngôi Lời nhập thể
478. Trong cuộc đời của Người, trong lúc Người hấp hối và trong lúc
Người chịu khổ nạn, Chúa Giêsu biết và yêu thương mọi người và từng người chúng
ta, và Người đã tự hiến mạng vì mỗi người chúng ta. Con Thiên Chúa “đã yêu mến
tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20). Người đã yêu mến tất cả chúng ta bằng một
trái tim nhân loại. Do đó Trái Tim cực thánh của Chúa Giêsu, bị đâm thâu vì tội
lỗi chúng ta và để cứu độ chúng ta[31],
“được coi là dấu chỉ và biểu tượng đặc biệt của tình yêu, qua đó Đấng Cứu Chuộc
thần linh hằng liên lỉ yêu mến Chúa Cha vĩnh cửu và yêu mến tất cả mọi người”[32].
Số 437, 525-526: Mầu nhiệm Giáng Sinh
437. Thiên thần đã loan báo cho các mục đồng việc Giáng Sinh của
Chúa Giêsu, với tính cách là việc ra đời của Đấng Messia đã được hứa ban cho
Israel: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đavid,
Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11). Ngay từ đầu, Chúa Giêsu là “Đấng
Chúa Cha đã hiến thánh và sai đến thế gian” (Ga l0,36), với tư cách là “Đấng
Thánh” (Lc 1,35) được cưu mang trong lòng dạ trinh khiết của Đức Maria[33]. Thánh Giuse được Thiên
Chúa kêu gọi đón bà Maria vợ ông về, “vì người con bà cưu mang là do quyền năng
Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20), để Chúa Giêsu, “cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1,16),
được sinh ra do vợ ông Giuse trong dòng tộc thiên sai (in generatione
messianica) của vua Đavid.[34]
525. Chúa Giêsu đã ra đời trong cảnh bần hàn của chuồng bò lừa,
trong một gia đình nghèo[35]; các mục đồng chất phác là
những chứng nhân đầu tiên của biến cố. Chính trong cảnh nghèo hèn này mà vinh
quang thiên quốc được tỏ lộ[36]. Hội Thánh không ngừng hoan
hỉ hát mừng vinh quang đêm ấy:
“Hôm nay Đức
Trinh Nữ sinh hạ Đấng Hằng Hữu, và thế gian dâng tặng hang đá cho Đấng Chí Tôn.
Các Thiên thần cùng với các mục đồng tôn vinh Người, các đạo sĩ tiến bước theo
ánh sao: bởi vì một Hài Nhi bé nhỏ, là Thiên Chúa vĩnh cửu, đã được sinh ra cho
chúng ta!”[37]
526. “Trở nên trẻ nhỏ” trong tương quan với Thiên Chúa là điều kiện
để vào Nước Trời[38]; để được vậy, cần phải tự hạ[39], phải trở nên bé mọn; hơn nữa,
còn phải “được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” (Ga 3,7), được sinh ra từ Thiên
Chúa[40] để trở nên con cái Thiên
Chúa[41]. Mầu nhiệm Giáng Sinh được
thực hiện nơi chúng ta khi Đức Kitô “được thành hình” nơi chúng ta[42]. Việc Giáng Sinh của Chúa
Giêsu là mầu nhiệm của “việc trao đổi kỳ diệu” này:
“Cuộc trao đổi
sao mà kỳ diệu! Đấng Tạo Hoá của nhân loại, nhận lấy một thân xác có linh hồn,
khấng hạ sinh bởi một Trinh Nữ; khi làm người mà chẳng cần mầm giống nam nhân,
Người đã rộng ban cho chúng ta thần tính của Người”[43].
Số 439, 496, 559, 2616: Chúa Giêsu là Con vua Đavid
439. Nhiều người Do Thái, và cả một số người ngoại cùng chia sẻ niềm
hy vọng của Israel, đã nhận ra nơi Chúa Giêsu những nét cơ bản của “Con vua
Đavid”, Đấng Messia mà Thiên Chúa đã hứa ban cho Israel[44].
Chúa Giêsu đã chấp nhận danh hiệu Messia, Người có quyền làm như vậy[45], nhưng Người chấp nhận một cách
dè dặt, bởi vì danh hiệu này bị một số người đương thời với Người hiểu theo một
quan niệm quá phàm trần[46], đặc biệt mang tính chất
chính trị.[47]
496. Ngay trong các công thức đức tin đầu tiên[48],
Hội Thánh đã tuyên xưng rằng Chúa Giêsu được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ
Maria là chỉ do quyền năng của Chúa Thánh Thần mà thôi, và Hội Thánh cũng khẳng
định khía cạnh thể lý của biến cố này: Chúa Giêsu được thụ thai “bởi Chúa Thánh
Thần, không có mầm giống nam nhân”[49].
Các Giáo Phụ nhận ra việc thụ thai đồng trinh là dấu chỉ của việc Con Thiên
Chúa thật sự đã đến trong bản tính nhân loại như chúng ta.
Thánh Ignatiô
Antiôchia (đầu thế kỷ II) dạy: “Tôi đã nhận thấy anh em… xác tín rằng Chúa
chúng ta, thật sự xuất thân từ dòng dõi vua Đavid theo xác phàm[50], là Con Thiên Chúa theo ý định
và quyền năng Thiên Chúa[51], Người đã thật sự được sinh
ra bởi một trinh nữ;… Người đã thật sự chịu đóng đinh trong thân xác vì chúng
ta, thời quan Phongxiô Philatô…. Người đã thật sự chịu khổ hình cũng như đã thật
sự sống lại”[52].
559. Giêrusalem sẽ đón nhận Đấng Messia của mình như thế nào? Chúa
Giêsu, Đấng luôn trốn tránh mọi ý đồ của dân chúng muốn tôn Người làm vua[53], đã chọn thời điểm và chuẩn
bị kỹ lưỡng để tiến vào Giêrusalem, thành của “Đavid, tổ tiên Người” (Lc l,32)
với tư cách là Đấng Messia[54]. Người được dân chúng hoan
hô như con vua Đavid, như Đấng mang lại ơn cứu độ (Hosanna có nghĩa là “xin cứu”, “xin ban ơn cứu độ!”). Nhưng “Đức
Vua vinh hiển” (Tv 24,7-l0) lại “ngồi trên lưng lừa con” (Dcr 9,9) tiến vào
thành: Người không chinh phục Thiếu nữ Sion, hình ảnh của Hội Thánh Người, bằng
mưu mẹo hay bằng bạo lực, nhưng bằng sự khiêm tốn, là bằng chứng của sự that[55]. Vì vậy, ngày hôm đó, thần
dân của Nước Người là các trẻ em[56] và “những người nghèo của
Thiên Chúa”, họ tung hô Người giống như các Thiên thần đã loan báo Người cho
các mục đồng[57]. Lời tung hô của họ: “Chúc
tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa” (Tv 118,26) được Hội Thánh dùng lại trong
kinh “Thánh! Thánh! Thánh!” để mở đầu phụng vụ Thánh Thể tưởng niệm cuộc Vượt Qua
của Chúa.
2616. Lúc Người còn đang thi hành tác vụ, lời cầu nguyện với Chúa Giêsu đã được chính Người nhận
lời, qua các dấu lạ, những dấu lạ này tiền dự vào sức mạnh của sự chết và sự sống
lại của Người. Chúa Giêsu nhận lời cầu nguyện của đức tin, được diễn tả bằng lời
nói (của người bệnh phong[58], của ông Giairô[59], của người phụ nữ Canaan[60], của người trộm lành[61]), hay trong thinh lặng (của
những kẻ khiêng người bất toại[62], của người đàn bà bị bệnh
loạn huyết đụng chạm vào áo Người[63], nước mắt và dầu thơm của
người phụ nữ tội lỗi[64]). Lời nài xin tha thiết của
những người mù: “Lạy Con Vua Đavid, xin thương xót chúng tôi” (Mt 9,27) hay “Lạy
Ông Giêsu, Con Vua Đavid, xin rủ lòng thương tôi” (Mc 10,48) được sử dụng lại
trong truyền thống Khẩn nguyện Chúa Giêsu
(Oratio ad Iesum): “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, là Chúa, xin
thương xót con là kẻ tội lỗi”. Chúa Giêsu luôn đáp lại lời cầu xin Người với đức
tin, bằng cách chữa lành bệnh tật hoặc thứ tha tội lỗi: “Cứ về bình an, lòng
tin của anh đã cứu chữa anh”.
Thánh Augustinô
đã khéo léo tóm tắt ba chiều kích của lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Người cầu
nguyện cho chúng ta, vì Người là vị Tư Tế của chúng ta; Người cầu nguyện trong
chúng ta vì Người là Đầu của chúng ta; Người được chúng ta cầu nguyện, vì Người
là Thiên Chúa của chúng ta. Vậy chúng ta phải nhận biết tiếng nói của chúng ta
trong Người, lẫn tiếng nói của Người trong chúng ta”[65].
Số 65, 102: Thiên Chúa đã phán dạy mọi sự trong
Ngôi Lời của Ngài
65. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông
ta qua các tiên tri ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng
ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, là Lời duy nhất,
hoàn hảo và cao cả nhất của Chúa Cha. Nơi Người, Thiên Chúa đã nói tất cả, và sẽ
không có lời nào khác ngoài Lời đó. Sau bao vị khác, thánh Gioan Thánh giá đã
diễn tả điều này một cách rõ ràng, khi chú giải câu Dt 1,1-2:
“Từ khi Thiên Chúa ban cho chúng ta Con Ngài, Đấng là Lời duy nhất và dứt khoát của Ngài, Thiên Chúa đã nói với chúng ta một lần duy nhất trong Lời này và Ngài không còn gì để nói thêm nữa. Những gì trước kia Ngài chỉ nói từng phần qua các tiên tri, thì nay Ngài đã nói hết trong Đấng mà Ngài đã trao ban trọn vẹn cho chúng ta, tức là Con của Ngài. Do đó, bây giờ mà có ai còn muốn hỏi Thiên Chúa điều gì hoặc nài xin Ngài một thị kiến hay mạc khải nào nữa, thì người ấy chẳng những làm một chuyện điên rồ, mà xem ra còn xúc phạm đến Thiên Chúa, bởi không chăm chú nhìn vào Đức Kitô mà lại tìm kiếm một cái gì khác hoặc một điều mới lạ ngoài Đức Kitô”[66].
102. Qua tất cả các lời ở trong Thánh Kinh, Thiên Chúa chỉ nói một
Lời, là (Ngôi) Lời duy nhất của Ngài. Trong Ngôi Lời, Thiên Chúa bày tỏ tất cả
về chính mình Ngài[67]:
“Anh em hãy nhớ
rằng một Lời duy nhất của Thiên Chúa được trải ra trong toàn bộ Thánh Kinh, một
Lời duy nhất vang trên môi miệng của các Thánh. Lời này lúc khởi đầu là Thiên
Chúa hướng về Thiên Chúa, lúc ấy Lời không có các âm vận, bởi vì Ngài không lệ
thuộc thời gian”[68].
Số 333: Ngôi Lời nhập thể được tôn thờ bởi các
Thiên thần
333. Từ cuộc Nhập Thể cho tới cuộc Thăng Thiên, cuộc đời của Ngôi Lời
nhập thể được hầu cận bằng sự tôn thờ và phục vụ của các Thiên thần. “Khi đưa
Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa nói: ‘Mọi Thiên thần của Thiên
Chúa, phải thờ lạy Người’” (Dt 1,6). Ca khúc ngợi khen của các Thiên thần khi Đức
Kitô giáng sinh không ngừng vang vọng trong lời ca tụng của Hội Thánh: “Vinh
danh Thiên Chúa…” (Lc 2,14). Các Thiên thần bảo vệ Chúa Giêsu khi Người còn thơ
ấu[69], phục vụ Người
trong hoang địa[70], an ủi Người trong cơn hấp
hối[71], khi Người đã có thể được
các vị cứu khỏi tay kẻ thù[72], như dân Israel xưa[73]. Các Thiên thần cũng rao giảng
Tin Mừng ”[74] khi loan báo Tin Mừng về việc
Nhập Thể[75] và về việc Phục
Sinh của Đức Kitô[76]. Các ngài loan báo việc Đức
Kitô lại đến[77], và khi Người đến, các ngài
sẽ có mặt để phục vụ việc xét xử của Người[78].
Số 1159-1162, 2131, 2502: Việc Nhập Thể và các ảnh
tượng của Đức Kitô
1159. Ảnh tượng thánh, ảnh tượng phụng vụ, chủ yếu trình bày Đức Kitô. Ảnh tượng không thể trình bày
Thiên Chúa vô hình và khôn tả; việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã mở đầu một
“nhiệm cục” mới của các ảnh tượng:
“Xưa kia Thiên
Chúa, Đấng không có thân xác và diện mạo, không bao giờ được trình bày bằng ảnh
tượng. Nhưng nay, sau khi Người đã tự trở nên hữu hình trong xác phàm và sống
giữa loài người, tôi có thể họa một hình ảnh về điều tôi thấy nơi Thiên Chúa….
Vậy sau khi dung nhan được mạc khải, chúng ta chiêm ngắm vinh quang của Chúa”[79].
1160. Nghệ thuật ảnh tượng Kitô giáo dùng hình ảnh để truyền đạt sứ
điệp Tin Mừng, sứ điệp mà Sách Thánh lưu truyền bằng lời. Hình ảnh và lời nói
làm sáng tỏ lẫn nhau:
“Chúng tôi tuyên
bố cách vắn tắt rằng, chúng tôi gìn giữ nguyên vẹn mọi truyền thống hoặc thành
văn, hoặc bất thành văn của Hội Thánh, đã được ký thác cho chúng tôi. Một trong
những truyền thống này là việc sử dụng ảnh tượng, vốn phù hợp với việc rao giảng
lịch sử Tin Mừng. Việc sử dụng ảnh tượng góp phần nói lên sự chắc chắn xác thực,
chứ không phải chỉ là dáng vẻ, của việc Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, và góp phần
mang lại lợi ích cho chúng tôi. Những gì soi sáng cho nhau, thì chắc chắn có những
ý nghĩa hỗ tương”[80].
1161. Tất cả các dấu chỉ của việc cử hành phụng vụ đều quy hướng về
Đức Kitô: kể cả các ảnh tượng của Mẹ Thiên Chúa và của các thánh. Thật vậy, các
ảnh tượng này nói về Đức Kitô, Đấng được tôn vinh nơi các ngài. Các ảnh tượng
này cho thấy “ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh” (Dt 12,1), các
ngài đang tiếp tục tham dự vào công trình cứu độ trần gian và chúng ta được
liên kết với các ngài, nhất là khi cử hành các bí tích. Qua ảnh tượng của các
ngài, điều được mạc khải cho đức tin của chúng ta là, con người, được tạo dựng
“theo hình ảnh Thiên Chúa”, cuối cùng được biến hình nên “giống như Thiên Chúa”[81], và cả các Thiên thần, là
những vị đã được quy tụ lại trong Đức Kitô:
“Theo giáo huấn
của các Thánh Giáo phụ được Thiên Chúa linh hứng, và theo truyền thống của Hội
Thánh Công giáo (mà chúng ta biết rằng đó là truyền thống của Chúa Thánh Thần,
Đấng chắc chắn đang ngự trong Hội Thánh), chung tôi ấn định với tất cả sự chắc
chắn và chính đáng rằng, cũng như hình tượng cây Thánh Giá quý trọng và ban sự
sống, các ảnh tượng đáng kính và thánh thiện, hoặc được vẽ và lắp ghép, hoặc bằng
những chất liệu thích hợp khác, phải được đặt trong các thánh đường của Thiên
Chúa, trên các bình thánh và y phục thánh, trên các bức tường và các bức hoạ,
trong nhà và trên các đường phố: đó là ảnh tượng của Chúa Giêsu Kitô, là Thiên
Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta, cũng như ảnh tượng của Đức Bà tinh tuyền, là Mẹ
thánh của Thiên Chúa, ảnh tượng của các Thiên thần đáng kính, của tất cả các
Thánh và những người công chính”[82].
1162. “Vẻ đẹp và màu sắc của các ảnh tượng kích thích việc cầu nguyện
của tôi. Đó là một bữa tiệc làm no thoả mắt tôi, cũng như quang cảnh đồng quê
kích thích trái tim tôi ca tụng Thiên Chúa”[83].
Việc chiêm ngắm các ảnh tượng thánh, cùng với việc suy niệm Lời Chúa và việc ca
hát các thánh thi phụng vụ, sẽ tạo nên một sự hoà hợp các dấu chỉ trong cuộc cử
hành, làm cho mầu nhiệm được cử hành in sâu vào tâm khảm các tín hữu, rồi được
biểu lộ ra trong đời sống mới của họ.
2131. Công đồng chung thứ bảy, ở Nicêa (năm 787), dựa vào mầu nhiệm
Ngôi Lời nhập thể, đã biện minh cho việc sùng kính ảnh tượng thánh, như ảnh tượng
Đức Kitô, và cả ảnh tượng Mẹ Thiên Chúa, các Thiên thần và tất cả các Thánh, chống
lại những người bài ảnh tượng. Nhờ cuộc Nhập thể của mình, Con Thiên Chúa đã
khai mở một “nhiệm cục” về các ảnh tượng.
2502. Nghệ thuật thánh sẽ
thật và đẹp, khi nhờ hình thức thích hợp, nó đáp ứng với ơn gọi riêng của nó:
trong đức tin và trong sự tôn thờ, nghệ thuật thánh gợi lên và tôn vinh mầu nhiệm
siêu việt của Thiên Chúa, vẻ đẹp siêu phàm vô hình của chân lý và của tình yêu,
đã xuất hiện nơi Đức Kitô, Đấng “là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực
của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1,3), “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính
hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9), Người là vẻ đẹp thiêng liêng đang toả chiếu
nơi Đức Trinh Nữ rất thánh Mẹ Thiên Chúa, nơi các Thiên thần và các Thánh. Nghệ
thuật thánh đích thực đưa con người đến việc tôn thờ, việc cầu nguyện và việc
yêu mến Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá và Cứu Độ, Đấng Thánh Thiện và Thánh Hóa.
Bài đọc Thánh lễ vọng
Bài đọc I: Is 62, 1-5
“Ngươi đẹp lòng Chúa”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng,
và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi Đấng công chính xuất hiện
như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời.
Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Đấng
công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt
cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và
vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi. ngươi sẽ không còn gọi là kẻ
bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi
là “kẻ Ta ưa thích”, và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp
lòng Thiên Chúa và đất ngươi sẽ có dân cư.
(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh
nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên
Chúa ngươi cũng sẽ vui mừng vì ngươi.
Đó là lời Chúa.
Đáp ca: Tv 88, 4-5. 16-17. 27
và 29
Đáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi
tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
1) Ta đã ký minh ước cùng người
Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Đavít là tôi tớ của Ta rằng: “Cho tới muôn đời Ta
bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ”.
2) Phúc thay dân tộc biết hân
hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì
danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta:
“Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Đá Tảng cứu độ của con”. Đời đời Ta sẽ dành
cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì.
Bài đọc II: Cv 13, 16-17.
22-25
“Thánh Phaolô làm chứng về
Chúa Kitô, con vua Đavít”.
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Phaolô đến Antiôkia thuộc
Pisiđia, vào hội đường, đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi
nói: “Hỡi người Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây. Thiên Chúa
Israel đã chọn Tổ phụ chúng ta, Người đã thăng tiến dân Người khi họ còn cư ngụ
trong nước Ai-cập, và Người ra tay mạnh mẽ đưa cha ông chúng ta ra khỏi nước ấy.
Sau khi loại bỏ Saolê, Chúa đã đặt
Đavít lên làm vua dân Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã phán: ‘Ta đã
gặp được Đavít, con của Giêsê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành mọi ý muốn của
Ta’.
“Bởi dòng dõi Đavít, theo lời hứa,
Thiên Chúa ban cho Israel Đức Giêsu làm Đấng Cứu Độ, Đấng mà Gioan đã báo trước,
khi ông đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất
hành trình, ông tuyên bố: ‘Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng
đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người'”.
Đó là lời Chúa.
Alleluia:
All. All. – Ngày mai tội lỗi trần
gian sẽ được xoá bỏ, và Đấng Cứu Thế sẽ ngự trị trên chúng ta. – All.
Phúc âm: Mt 1, 1-25
“Dòng dõi Chúa Giêsu Kitô, con
vua Đavít”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô,
con vua Đavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp
sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara; Phares sinh Esrom;
Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh
Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh
Giêsê; Giêsê sinh vua Đavít. Đavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh
Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh
Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh
Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh
Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon. Sau thời lưu đày ở Babylon,
Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud
sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh
Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh
Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô. Vậy, từ Abraham đến
Đavít có tất cả mười bốn đời, từ Đavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời,
và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh
sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với
nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công
chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang
khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: “Hỡi
Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang
thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là
Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”. Tất cả sự kiện này đã được thực
hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: “Này đây một trinh
nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel,
nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời
thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho
đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
Đó là lời Chúa.
Bài đọc Thánh lễ ban đêm
Bài đọc I: Is 9, 1-6
“Chúa ban Con của Người cho
chúng ta”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Dân tộc bước đi trong u tối, đã
nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền
thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm
vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa,
như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về
phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái
vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến
thắng Mađian. [Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc
áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa.]
Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho
chúng ta, và một người con đã được ban tặng chúng ta. Người đã gánh nhận vương
quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là “Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy
Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình”. Người sẽ mở rộng vương quyền,
và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Đavít, và trong
vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay
tự bây giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi
điều đó.
Đó là lời Chúa.
Đáp ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3.
11-12. 13
Đáp: Hôm nay Đấng Cứu Thế đã
giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô, Chúa chúng ta (Lc 2, 11).
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca
mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy
chúc tụng danh Người.
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn
Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở
nơi vạn quốc.
3) Trời xanh hãy vui mừng và địa
cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Đồng nội và muôn
loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở.
4) Trước nhan Thiên Chúa: vì Người
ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công
minh và chư dân cách chân thành.
Bài đọc II: Tt 2, 11-14
“Ân sủng của Chúa đã đến với mọi
người”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ
gửi cho Titô.
Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu
Độ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục
vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi
niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Đức Giêsu Kitô là
Thiên Chúa cao cả và là Đấng Cứu Độ chúng ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để
cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc
xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện.
Đó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 2, 10-11
All. All. – Ta báo cho anh em một
tin mừng: Hôm nay Đấng Cứu Thế, là Chúa Kitô, đã giáng sinh cho chúng ta. –
All.
Phúc âm: Lc 2, 1-14
“Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng
sinh cho chúng ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế
Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Đây là cuộc kiểm
tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên
đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa,
trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất
dòng Đavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà
đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai
đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà
không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục
tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần
Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ,
khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng
sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng
cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi
trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các
ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”.
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc
đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và
bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Đó là lời Chúa.
Bài đọc Thánh lễ rạng đông
Bài đọc I: Is 62, 11-12
“Này đây Đấng Cứu Độ ngươi đến”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Đây Chúa làm cho nghe thấy tận
cùng cõi trái đất rằng: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Này đây Đấng Cứu Độ ngươi đến.
Người đem theo phần thưởng với Người và sự nghiệp trước mặt Người. Những người
được Chúa cứu chuộc, người ta sẽ gọi họ là dân thánh. Còn ngươi, ngươi sẽ được
gọi là thành quý chuộng, thành không bị bỏ rơi.
Đó là lời Chúa.
Đáp ca: Tv 96, 1 và 6. 11-12
Đáp: Hôm nay sự sáng chiếu giãi
trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta.
1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy nhảy
mừng, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui! Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa,
và chư dân được thấy vinh hiển của Người.
2) Sáng sủa bừng lên cho người hiền
đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa,
và hãy ca tụng thánh danh Người!
Bài đọc II: Tt 3, 4-7
“Chúa đã cứu độ chúng ta theo
lượng từ bi Người”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ
gửi cho Titô.
Khi Đấng Cứu Thế, Chúa chúng ta,
đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người, thì không phải do những việc công chính
chúng ta thực hiện, nhưng do lòng từ bi của Người, mà Người đã cứu độ chúng ta,
bằng phép rửa tái sinh và sự canh tân của Thánh Thần, Đấng mà Người đã đổ xuống
tràn đầy trên chúng ta qua Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, để một khi được
công chính hoá bởi ân sủng của Ngài, trong hy vọng, chúng ta được thừa kế sự sống
đời đời, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Đó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 2, 14
All. All. – Vinh danh Thiên Chúa
trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm. – All.
Phúc âm: Lc 2, 15-20
“Các mục tử đã gặp thấy Maria,
Giuse và Hài Nhi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi các thiên thần biến đi, thì
các mục tử nói với nhau rằng: “Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra
mà Chúa đã cho chúng ta được biết”. Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria,
Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời
đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục
tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những
sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi
Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Đó là lời Chúa.
Bài đọc Thánh lễ ban ngày
Bài đọc I: Is 52, 7-10
“Khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ
nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Đẹp thay chân người rao tin trên
núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ, nói với
Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ thống trị!
Tiếng của người canh gác của
ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau ca ngợi rằng: Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi
Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca
ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêrusalem. Chúa đã chuẩn bị ra
tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn
xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Đó là lời Chúa.
Đáp ca: Tv 97, 1. 2-3ab.
3cd-4. 5-6
Đáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã
nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (c. 3c).
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới,
vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc
chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của
Người; trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân
hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã
nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng
Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca!
4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm,
với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và
rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua.
Bài đọc II: Dt 1, 1-6
“Chúa đã phán dạy chúng ta qua
người Con”.
Bài trích thư gửi tín hữu
Do-thái.
Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều
hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những
ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm vị
thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ. Nguyên vốn
là phản ảnh sự vinh quang và là hình tượng bản thể Ngài, Người Con đó nâng giữ
vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta, và ngự bên hữu
Đấng Oai Nghiêm trên cõi trời cao thẳm. Tên Người cao trọng hơn các thiên thần
bao nhiêu, thì Người cũng vượt trên các thiên thần bấy nhiêu.
Phải, vì có bao giờ Thiên Chúa đã
phán bảo với một vị nào trong các thiên thần rằng: “Con là thái tử của Cha, hôm
nay Cha đã hạ sinh Con”? Rồi Chúa lại phán: “Ta sẽ là Cha Người, và Người sẽ là
Con Ta”. Và khi ban Con Một mình cho thế gian, Chúa lại phán rằng: “Tất cả các
thiên thần Chúa hãy thờ lạy Người!”
Đó là lời Chúa.
Alleluia:
All. All. – Ngày thánh đã dọi ánh
sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan
hoà đã toả xuống trên địa cầu. – All.
Phúc âm: Ga 1,1-5. 9-14
“Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể,
và Người đã cư ngụ giữa chúng ta”.
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và
Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với
Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và
không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác
thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng
chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng. Vẫn có sự sáng thực,
sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế
gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người.
Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận
Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền
trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này
không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông,
nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra. Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã
cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh
quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân
lý.
Đó là lời Chúa.
[7] Thánh Tôma Aquinô, Officium de festo corporis Christi, Ad Matutinas, In primo Nocturno, Lectio 1: Opera omnia, v.29 (Parisiis 1876) 336.
[10] X. Thánh ca
Kinh Chiều I Chúa Nhật: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.1, p. 545.
629. 718 et 808; v.2, p. 844. 937. 1037 et 1129; v.3, p. 548. 669. 793 et 916;
v.4, p. 496. 617. 741 et 864 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973-1974).
[24] X. CĐ Constantinôpôli III (năm 681), Sess. 18a, Definitio de duabus in Christo voluntatibus
et operationibus: DS 556-559.
[25] CĐ Constantinôpôli III, Sess. 18a, Definitio de duabus in Christo voluntatibus
et operationibus: DS 556.
[29] Kinh Tiền Tụng
Lễ Giáng Sinh, II: Sách Lễ Rôma,
editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 396.
[32] ĐGH Piô XII, Thông điệp Haurietis aquas: DS 3924; x. Ibid.,
Thông điệp Mystici corporis: DS
3812.
[43] X. Lễ trọng
kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, Điệp Ca Kinh Chiều I và II: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica,
v.1 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 385 và 397.
[65] Thánh Augustinô, Enarratio
in Psalmum 85, 1: CCL 39, 1176 (PL 36, 1081); x. Văn kiện trình bày và quy định Các Giờ Kinh phụng vụ, 7: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.
1 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 24.
[66] Thánh Gioan Thánh giá, Subida del monte Carmelo, 2, 22, 3-5: Biblioteca Mistica
Carmelitana, v. 11 (Burgos 1929) 184.
[79] Thánh Gioan Đamascênô, De sacris imaginibus oratio, 1, 16: PTS 17, 89 et 92 (PG 94, 1245
et 1248).
[83] Thánh Gioan Đamascênô, De sacris imaginibus oratio, 1, 47: PTS 17, 151 (PG 94, 1268).