GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN NĂM B
WHĐ (03.02.2024) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
Số 1502-1505: Đức Kitô - Đấng Chữa Lành Số 875, 1122: Tính cấp bách của việc rao giảng Bài Ðọc II: 1Cr 9, 16-19. 22-23 |
Số 547-550: Việc
chữa lành như dấu hiệu của thời Đấng Messia
547. Kèm theo những lời Người nói, Chúa Giêsu đã làm “những phép mầu,
điềm thiêng và dấu lạ” (Cv 2,22) để cho thấy Nước Trời đang hiện diện nơi Người.
Chúng chứng tỏ Chúa Giêsu chính là Đấng Messia đã được tiên báo[1].
548. Các dấu lạ do Chúa Giêsu thực hiện minh chứng Chúa Cha đã sai
Người đến[2]. Chúng mời gọi ta hãy tin
vào Người[3]. Những ai đến với Người bằng
đức tin, đức tin cho họ được điều họ thỉnh cầu[4].
Lúc đó, các phép lạ củng cố lòng tin vào Người, Đấng thực hiện các công việc của
Cha Người: chúng chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa[5].
Nhưng chúng cũng có thể là cớ vấp ngã[6].
Quả vậy, chúng không nhằm thỏa mãn trí tò mò, và lòng ưa chuộng ma thuật. Bất
chấp những phép lạ hết sức tỏ tường của Người, Chúa Giêsu vẫn bị một số người
loại bỏ[7], thậm chí Người còn bị tố
cáo là hành động nhờ ma quỷ[8].
549. Khi giải thoát một số người khỏi những sự dữ đời này như đói
khát[9], bất công[10], bệnh tật và cái chết[11], Chúa Giêsu đã thực hiện
các dấu chỉ Người là Đấng Messia. Tuy nhiên, Người không đến để loại trừ mọi điều
xấu khỏi trần gian này[12], nhưng để giải thoát con
người khỏi ách nô lệ nặng nề nhất, là ách nô lệ của tội lỗi[13],
thứ ách nô lệ này ngăn cản họ trong ơn gọi của họ là làm con cái Thiên Chúa, và
gây ra mọi hình thức nô lệ giữa con người.
550. Khi Nước Thiên Chúa trị đến là lúc nước Satan bị sụp đổ[14]: “Nếu tôi dựa vào Thần Khí
của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông”
(Mt l2,28). Những việc trừ quỷ do Chúa Giêsu thực hiện, giải phóng người ta khỏi
quyền thống trị của ma quỷ[15]. Những việc ấy báo trước sự
chiến thắng cao cả của Chúa Giêsu trên “thủ lãnh thế gian này”[16]. Nhờ thập giá của Đức Kitô
mà Nước Thiên Chúa sẽ được thiết lập vĩnh viễn: “Thiên Chúa đã cai trị từ cây gỗ”[17].
Số 1502-1505: Đức Kitô - Đấng Chữa Lành
1502. Con người thời Cựu Ước sống trong bệnh tật trước tôn nhan
Thiên Chúa. Họ than thở với Thiên Chúa về bệnh tật của mình[18]
và xin Ngài, là Chúa sự sống và sự chết, chữa lành[19].
Bệnh tật trở thành con đường hối cải[20],
và ơn tha thứ của Thiên Chúa là khởi đầu việc chữa lành[21].
Dân Israel cảm nghiệm rằng, bệnh tật có liên hệ cách bí nhiệm với tội lỗi và sự
dữ, và sự trung thành với Thiên Chúa, theo Lề Luật của Ngài, sẽ trả lại sự sống:
“vì Ta là Chúa, Đấng chữa lành ngươi” (Xh 15,26). Có Tiên tri đã thoáng nhận ra
rằng đau khổ có thể có giá trị cứu chuộc đối với tội lỗi của những người khác[22]. Sau cùng, tiên tri Isaia
loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đem đến cho Sion một thời đại, lúc đó Ngài sẽ tha
thứ mọi tội lỗi và chữa lành mọi bệnh tật[23].
1503. Lòng thương cảm của Đức Kitô đối với các bệnh nhân và nhiều
việc chữa lành mọi thứ bệnh tật Người đã thực hiện[24]
là một dấu chỉ hiển nhiên cho thấy rằng Thiên Chúa đã viếng thăm Dân Ngài[25] và Nước Thiên Chúa đã gần kề.
Chúa Giêsu không những có quyền chữa lành mà còn có quyền tha tội[26]: Người đến để chữa lành con
người toàn diện, cả xác cả hồn; Người là thầy thuốc mà các bệnh nhân cần đến[27]. Lòng thương cảm của Người
đối với tất cả những người chịu đau khổ, đã đi đến chỗ Người tự nên một với họ:
“Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng” (Mt 25,36). Tình yêu đặc biệt của Người đối
với những người đau yếu, trải qua các thế kỷ, đã không ngừng khơi dậy sự quan
tâm đặc biệt của các Kitô hữu đối với tất cả những ai chịu đau khổ phần xác hay
phần hồn. Tình yêu này làm phát sinh những cố gắng không mệt mỏi để nâng đỡ những
người đau khổ đó.
1504. Chúa Giêsu thường đòi buộc các bệnh nhân phải tin[28]. Người dùng những dấu chỉ để
chữa lành: nước miếng và việc đặt tay[29],
bùn đất và việc rửa sạch[30]. Các bệnh nhân tìm cách chạm
đến Người[31] “vì có một năng lực tự nơi
Người phát ra, chữa lành hết mọi người” (Lc 6,19). Vì vậy, trong các bí tích, Đức
Kitô tiếp tục “chạm” đến chúng ta để chữa lành chúng ta.
1505. Xúc động trước quá nhiều đau khổ, Đức Kitô không những cho
phép các bệnh nhân chạm đến Người, mà còn lấy những đau khổ của chúng ta làm của
Người: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của
ta” (Mt 8,17)[32]. Tuy nhiên, Người đã không
chữa lành tất cả các bệnh nhân. Những việc chữa lành của Người là những dấu chỉ
rằng Nước Thiên Chúa đang đến. Chúng loan báo một sự chữa lành triệt để hơn: đó
là sự chiến thắng tội lỗi và sự chết, nhờ cuộc Vượt Qua của Người. Trên thập
giá, Đức Kitô đã mang vào thân thể Người tất cả gánh nặng của sự dữ[33] và Người đã xoá “tội trần
gian” (Ga 1,29), mà bệnh tật của trần gian chỉ là một hậu quả. Bằng cuộc khổ nạn
và cái chết trên thập giá của Người, Đức Kitô đem lại cho đau khổ một ý nghĩa mới:
từ nay đau khổ có thể làm cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Người và kết
hợp chúng ta vào cuộc khổ nạn sinh ơn cứu chuộc của Người.
Số 875, 1122: Tính cấp bách của việc rao giảng
875. “Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu
không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm
10,14-15). Không có ai, không có cá nhân nào hay cộng đoàn nào, có thể tự loan
báo Tin Mừng cho chính mình. “Có đức tin là nhờ nghe giảng” (Rm 10,17). Không
ai có thể tự ban cho mình lệnh truyền và sứ vụ loan báo Tin Mừng. Người được
Chúa sai đi nói và hành động không phải do quyền bính riêng, nhưng do sức mạnh
quyền bính của Đức Kitô; người đó nói với cộng đoàn không phải với tư cách là một
thành viên của cộng đoàn, nhưng nhân danh Đức Kitô. Không ai có thể tự ban cho
mình ân sủng, ân sủng phải được ban tặng. Điều này giả thiết phải có những thừa
tác viên của ân sủng, được Đức Kitô ban cho quyền bính và tư cách. Từ nơi Đức
Kitô, các Giám mục và linh mục lãnh nhận sứ vụ và khả năng (“quyền thánh chức”)
để hành động trong cương vị Đức Kitô là Đầu
(in persona Christi Capitis), còn các
phó tế lãnh nhận sức mạnh phục vụ dân Thiên Chúa, qua “việc phục vụ” Lời Chúa,
phụng vụ và việc bác ái, trong sự hiệp thông với Giám mục và hàng linh mục của
ngài. Thừa tác vụ này, trong đó những người được Đức Kitô sai đi nhờ hồng ân
Thiên Chúa, thực hiện và ban tặng những gì họ không thể tự thực hiện và ban tặng
cho chính mình, được truyền thống Hội Thánh gọi là “bí tích”. Thừa tác vụ của Hội
Thánh được trao ban qua một bí tích riêng.
762. Đức Kitô đã sai các Tông Đồ của Người đi để “nhân danh Người
mà rao giảng cho muôn dân… kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47).
“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân
danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Mt 28,19). Sứ vụ làm Phép Rửa, tức là sứ vụ
bí tích, được bao hàm trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, bởi vì bí tích được chuẩn
bị bằng Lời Chúa và bằng đức tin, là
sự ưng thuận vâng theo Lời đo:
“Dân Thiên
Chúa được quy tụ trước tiên bằng Lời của Thiên Chúa hằng sống…. Chính thừa tác
vụ bí tích đòi phải có việc rao giảng Lời Chúa, bởi vì các bí tích là bí tích của
đức tin, một đức tin được sinh ra và được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa”[34].
Bài Ðọc I: G 7, 1-4. 6-7
“Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối”.
Trích sách Gióp.
Bấy giờ Gióp nói rằng: “Khổ dịch
là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người
làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong
lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người
ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: “Chừng nào tôi mới
thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối”. Ngày của
tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng
nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh
phúc”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 146, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Hãy chúc tụng Chúa, Ðấng cứu chữa những kẻ giập nát
tâm can.
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa, vì
Người hảo tâm; hãy ca mừng Thiên Chúa chúng ta, vì Người êm ái, thực Người rất
đáng ngợi khen. Chúa xây dựng lại Giêrusalem, tập họp con cái Israel phân tán.
Ðáp: Hãy chúc tụng Chúa, Ðấng cứu chữa những kẻ giập nát
tâm can.
2) Chính Người chữa những kẻ giập
nát tâm can, và băng bó vết thương của lòng họ. Người ấn định con số các ngôi
sao, và gọi đích danh từng ngôi một.
Ðáp: Hãy chúc tụng Chúa, Ðấng cứu chữa những kẻ giập nát
tâm can.
3) Chúa chúng ta cao cả và mãnh
liệt quyền năng, sự khôn ngoan của Người thực là vô lượng. Chúa nâng cao những
kẻ khiêm cung, Người đè bẹp đứa ác nhân xuống tận đất.
Ðáp: Hãy chúc tụng Chúa, Ðấng cứu chữa những kẻ giập nát
tâm can.
Bài Ðọc II: 1Cr 9, 16-19. 22-23
“Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm”.
Trích thư thứ nhất của Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng
Tin Mừng, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối
với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giả như nếu tôi tự
ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng nếu tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm
trọn nghĩa vụ đã giao phó cho tôi. Vậy thì phần thưởng của tôi ở đâu? Khi rao
giảng Tin Mừng, tôi đem Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng
dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm
nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu
đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với
tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi
làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10,27
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
“Chiên của Ta nghe biết tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 1, 29-39
“Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Maccô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường,
Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của
Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của
bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi
tiếp đãi các ngài.
Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn,
người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và
cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh
khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.
Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy,
ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn
chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: “Mọi người
đều đi tìm Thầy”. Nhưng Người đáp: “Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành
lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa”. Và Người đi rao giảng trong các hội đường,
trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
Ðó là lời Chúa.