GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY NĂM B
WHĐ (13.03.2024) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện
hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng,
Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh
Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và
Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được
công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
Số 606-607: Cả cuộc đời của Đức Kitô là của lễ dâng hiến Chúa
Cha
606. Con Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống, không phải để làm theo ý
Người, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Người”[1],
“khi vào trần gian, Người nói: ‘Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực
thi ý Ngài’… theo ý đó, chúng ta được thánh hóa, nhờ Chúa Giêsu Kitô đã hiến
dâng thân mình làm lễ tế, một lần cho mãi mãi” (Dt 10,5-10). Ngay từ phút đầu
tiên Người nhập thể, Chúa Con đã gắn bó với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa
trong sứ vụ cứu chuộc của mình: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng
đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Ngài” (Ga 4,34). Hy lễ của Chúa Giêsu
“đền bù tội lỗi cả thế gian” (1 Ga 2,2) là sự diễn tả tình yêu hiệp thông của
Người với Chúa Cha: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống
mình” (Ga 10,17). Thế gian phải “biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng
như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14,31).
607. Sự khao khát gắn bó với kế hoạch yêu thương cứu chuộc của Chúa
Cha truyền cảm hứng cho cả cuộc đời Chúa Giêsu[2],
bởi vì cuộc khổ nạn cứu chuộc của Người là lý do việc Người nhập thể: “Lạy Cha,
xin cứu con khỏi giờ này! Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27).
“Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18,11). Và
trên thập giá, trước khi mọi sự “đã hoàn tất” (Ga 19,30), Người nói: “Tôi
khát!” (Ga 19,28).
Số 542, 607: Đức Kitô khao
khát hiến mạng sống mình để cứu chuộc chúng ta
542. Đức Kitô là trung tâm của cộng đồng nhân loại này trong “gia
đình của Thiên Chúa”. Người triệu tập họ quanh Người bằng lời nói, bằng những dấu
chỉ biểu lộ Nước Thiên Chúa, bằng việc sai phái các môn đệ của Người. Ngươi sẽ
làm cho Nước Người đến, chủ yếu nhờ mầu nhiệm cao cả là cuộc Vượt Qua của Người,
tức là cái Chết trên thập giá và sự Sống lại của Người. “Phần tôi, một khi được
giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi ngươi lên với tôi” (Ga 12,32). Mọi
người đều được mời gọi tham dự vào sự kết hợp này với Đức Kitô[3].
607. Sự khao khát gắn bó với kế hoạch yêu thương cứu chuộc của Chúa
Cha truyền cảm hứng cho cả cuộc đời Chúa Giêsu[4],
bởi vì cuộc khổ nạn cứu chuộc của Người là lý do việc Người nhập thể: “Lạy Cha,
xin cứu con khỏi giờ này! Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27).
“Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18,11). Và trên
thập giá, trước khi mọi sự “đã hoàn tất” (Ga 19,30), Người nói: “Tôi khát!” (Ga
19,28).
Số 690, 729: Chúa Thánh Thần
tôn vinh Chúa Con, Chúa Con tôn vinh Chúa Cha
690. Chúa Giêsu là Đức Kitô, “Đấng được xức dầu”, bởi vì Thần Khí
là sự Xức dầu của Người, và mọi sự xảy ra khởi từ cuộc Nhập Thể, đều bắt nguồn
từ sự sung mãn này[5]. Sau cùng, khi Đức Kitô được
tôn vinh[6], đến lượt Người, Người có thể
sai Thần Khí từ nơi Chúa Cha đến với những ai tin vào Người: Người truyền thông
cho họ vinh quang của mình[7], nghĩa là truyền thông Chúa
Thánh Thần, Đấng tôn vinh Người[8]. Từ lúc đó, sứ vụ phối hợp
này được mở rộng đến những người được Chúa Cha nhận làm nghĩa tử trong thân thể
của Con Ngài: sứ vụ của Thần Khí nghĩa tử sẽ là kết hợp họ với Đức Kitô và làm
cho họ sống trong Người.
“Việc Xức dầu
nói lên ý nghĩa là không có khoảng cách nào giữa Chúa Con và Chúa Thánh Thần;
cũng như lý trí và giác quan không nhận thấy một trung gian nào giữa da thịt và
dầu xức, thì sự kết hợp giữa Chúa Con và Chúa Thánh Thần cũng không thể phân
chia như vậy, đến độ ai muốn tiếp xúc với Đức Kitô bằng đức tin, cần phải tiếp
xúc với dầu trước đã: quả vậy, không có chi thể nào, mà không có Chúa Thánh Thần.
Vì vậy, việc tuyên xưng quyền làm Chúa của Chua Con được thực hiện trong Chúa
Thánh Thần do những kẻ đón nhận Chúa Con, những người này được Chúa Thánh Thần
từ muôn phương đến gặp khi họ đến với Chúa Con bằng đức tin”[9].
729. Chỉ khi đến Giờ Chúa Giêsu phải được tôn vinh, Người mới hứa rằng
Chúa Thánh Thần sẽ ngự đến, vì cái Chết và sự Sống lại của Người sẽ là sự hoàn
thành Lời đã hứa với các Tổ phụ[10]: Thần chân lý, Đấng Bào Chữa
khác, sẽ được Chúa Cha ban nhờ lời cầu xin của Chúa Giêsu; chính Ngài sẽ được
Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Giêsu; Chúa Giêsu sẽ sai Chúa Thánh Thần từ
Chúa Cha mà đến, bởi vì Ngài xuất phát từ Chúa Cha. Chúa Thánh Thần sẽ đến, và
chúng ta sẽ nhận biết Ngài, Ngài sẽ ở cùng chúng ta mãi mãi, Ngài sẽ cư ngụ với
chúng ta; Ngài sẽ dạy dỗ chúng ta mọi sự và nhắc cho chúng ta nhớ tất cả những
gì Chúa Giêsu đã nói, và Ngài sẽ làm chứng cho Đức Kitô; Ngài sẽ dẫn chúng ta đến
chân lý trọn vẹn và sẽ tôn vinh Đức Kitô. Còn đối với thế gian, Ngài sẽ chứng
minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính, và về việc xét xử.
Số 662, 2853: Đức Kitô được
giương cao trong vinh quang là chiến thắng của chúng ta
662. “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ
kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Việc bị giương cao trên thập giá có ý chỉ
và loan báo việc được đưa lên trời của mầu nhiệm Thăng Thiên. Thập giá là khởi
đầu của Thăng Thiên. Chúa Giêsu Kitô, vị Thượng Tế duy nhất của Giao Ước mới và
vĩnh cửu, “đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra… nhưng Người đã
vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho
chúng ta” (Dt 9,24). Trên trời, Đức Kitô thực thi chức tư tế của Người một cách
thường hằng, “Người hằng sống để chuyển cầu cho họ” “nhờ Người mà tiến lại gần
Thiên Chúa” (Dt 7,25). Với tư cách là “Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới
tương lai” (Dt 9,11), Người là trung tâm và là chủ sự của phụng vụ tôn vinh
Chúa Cha trên trời[11].
2853. Cuộc chiến thắng trên “thủ lãnh thế gian này”[12] đã hoàn tất, một lần cho
mãi mãi, vào Giờ Chúa Giêsu tự nguyện nộp mình chịu chết để ban cho chúng ta sự
sống của Người. Đó là lúc phán xét thế gian này và thủ lãnh thế gian này “bị tống
ra ngoài”[13]. Hắn “đuổi bắt người Phụ Nữ”
(Kh 12,13)[14], nhưng không bắt được Bà;
Bà là Evà mới, “đầy ân sủng” của Chúa Thánh Thần, được gìn giữ khỏi tội lỗi và
sự hư nát của cái chết (Sự Vô nhiễm nguyên tội và Lên trời của Mẹ rất thánh của
Thiên Chúa, Đức Maria trọn đời đồng trinh). “Con Mãng Xà nổi giận với người Phụ
Nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà” (Kh 12,17). Vì
thế, Thần Khí và Hội Thánh cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh
22,17.20), bởi vì khi Người ngự đến, Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi Ác thần.
Số 56-64, 220, 715, 762, 1965: Lịch sử các giao ước
Giao ước với ông Nôê
56. Khi sự hợp nhất của nhân loại bị tội lỗi phá vỡ, Thiên Chúa lập
tức có ý định cứu độ nhân loại khi can thiệp qua từng nhóm người. Giao ước với
ông Nôê sau cơn lụt đại hồng thủy[15] nói lên nguyên tắc của Nhiệm
cục thần linh đối với “các dân tộc”, nghĩa là đối với những người quy tụ lại
“theo tiếng nói, dòng họ và dân tộc của mình” (St 10,5)[16].
57. Trật tự đa dân tộc này, vừa có tính vũ trụ, vừa có tính xã hội
và tôn giáo[17], nhằm hạn chế tính kiêu
căng của một nhân loại đã sa ngã, muốn đồng lòng trong sự ngoan cố của mình[18], muốn tự mình gầy dựng sự hợp
nhất theo kiểu xây tháp Babel[19]. Nhưng vì tội lỗi[20], nên thuyết đa thần cũng
như việc tôn thờ các ngẫu tượng là dân tộc và lãnh tụ của mình, đã không ngừng
đe doạ biến Nhiệm cục tạm thời này thành sự gian tà ngoại đạo.
58. Giao ước với ông Nôê có hiệu lực trong suốt thời gian của các
dân tộc[21], cho tới khi Tin Mừng được
loan báo một cách phổ quát. Thánh Kinh tôn kính một số vĩ nhân của “các dân tộc”, như “Abel, người
công chính”, vua tư tế Melchisêđê[22], ông này là hình bóng của Đức
Kitô[23], hoặc các người công chính
“Nôê, Đaniel và Job” (Ed 14,14).
Như vậy Thánh Kinh nói lên mức độ
thánh thiện cao vời mà những người sống theo Giao ước Nôê có thể đạt tới, đang
khi mong đợi Đức Kitô “quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Thiên Chúa chọn ông Abraham
59. Để quy tụ loài người đang tản mác về một mối, Thiên Chúa chọn
ông Abram và phán với ông: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi” (St
12,1); với ý định làm cho ông thành Abraham, nghĩa là “cha của vô số dân tộc”
(St 17,5): “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,3)[24].
60. Dân tộc phát sinh từ ông Abraham sẽ được thừa hưởng lời Thiên
Chúa hứa với các tổ phụ, tức là dân được Ngài tuyển chọn[25],
họ được gọi để chuẩn bị cho việc quy tụ trong tương lai mọi con cái Thiên Chúa
trong sự duy nhất của Hội Thánh[26]; dân tộc này sẽ là gốc rễ
mà các dân ngoại khi tin vào Thiên Chúa sẽ được tháp ghép vào[27].
61. Các tổ phụ, các tiên tri và những vĩ nhân khác của Cựu ước đã
và sẽ luôn được tôn kính như những vị Thánh trong tất cả các truyền thống phụng
vụ của Hội Thánh.
Thiên Chúa huấn luyện dân Israel của Ngài
62. Sau thời các Tổ phụ, Thiên Chúa lập Israel làm dân của Ngài khi
cứu họ khỏi ách nô lệ Ai cập. Ngài lập Giao ước Sinai với dân và ban Lề Luật của
Ngài cho họ qua ông Môisen, để họ nhận biết và phụng sự Ngài với tư cách là
Thiên Chúa duy nhất hằng sống và chân thật, là Cha quan phòng và là thẩm phán
chí công, và để họ mong đợi Đấng Cứu Độ mà Ngài đã hứa ban[28].
63. Israel là dân tư tế của Thiên Chúa[29],
được “mang danh Đức Chúa” (Đnl 28,10). Đó là dân của “những người đầu tiên được
nghe lời Chúa phán dạy”[30], dân của “những người làm
anh” trong đức tin của tổ phụ Abraham[31].
64. Qua các tiên tri, Thiên Chúa đào tạo dân Ngài trong niềm hy vọng
ơn cứu độ, trong sự mong đợi Giao ước mới và vĩnh cửu dành cho tất cả mọi người[32], Giao ước đó sẽ được ghi khắc
trong các trái tim[33]. Các Tiên tri loan báo ơn cứu
chuộc triệt để cho dân của Thiên Chúa, ơn thanh tẩy khỏi mọi bất trung của họ[34], và ơn cứu độ ấy sẽ bao gồm
tất cả các dân tộc[35]. Đặc biệt những người nghèo
khó và khiêm nhu của Chúa[36] sẽ ấp ủ niềm hy
vọng này. Những phụ nữ thánh thiện như các bà Sara, Rêbecca, Rachel, Miryam,
Đêbora, Anna, Juđitha và Esther, đã gìn giữ cho niềm hy vọng cứu độ ấy của
Israel luôn sống động. Hình ảnh tinh tuyền nhất của niềm hy vọng này là Đức
Maria[37].
220. Tình yêu của Thiên Chúa “tồn tại muôn đời” (Is 54,8): “Núi có
dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không
thay đổi” (Is 54,l0). “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành
cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31,3).
715. Các bản văn tiên tri trực tiếp liên quan đến việc sai Chúa
Thánh Thần đến, là những lời sấm trong đó Thiên Chúa lấy ngôn ngữ Lời hứa mà
nói vào trái tim của dân Ngài, bằng cung giọng yêu thương và trung tín[38], sáng ngày lễ Ngũ Tuần,
thánh Phêrô sẽ tuyên bố việc hoàn thành những điều đó[39].
Theo những lời hứa đó, trong “thời sau hết”, Thần Khí Thiên Chúa sẽ đổi mới
trái tim người ta bằng cách ghi khắc Lề luật mới trong họ; Ngài sẽ quy tụ và
giao hoà những dân tộc đã bị phân tán và chia rẽ; Ngài sẽ biến đổi công trình tạo
dựng thứ nhất và Thiên Chúa sẽ ở đó với người ta trong hoà bình.
762. Việc chuẩn bị xa cho cuộc tập họp dân Thiên Chúa bắt đầu bằng
ơn gọi của ông Abraham, Thiên Chúa hứa cho ông trở thành cha tương lai của một
dân tộc vĩ đại[40]. Việc chuẩn bị gần bắt đầu
bằng việc tuyển chọn Israel làm dân Thiên Chúa[41].
Nhờ việc được tuyển chọn, Israel phải là dấu chỉ cuộc tập họp trong tương lai gồm
tất cả các dân tộc[42]. Nhưng các Tiên tri tố cáo
Israel đã phản bội Giao ước và đã hành xử như một gái điếm[43].
Các ngài loan báo một Giao Ước mới và vĩnh cửu[44].
“Giao ước mới này, chính Đức Kitô đã thiết lập”[45].
1965. Luật mới hay Luật Tin Mừng là sự trọn hảo nơi trần thế của Luật
thần linh, tự nhiên và được mạc khải. Đây là công trình của Đức Kitô, được
trình bày cách đặc biệt trong Bài giảng trên núi. Đây cũng là công trình của
Chúa Thánh Thần, và nhờ Ngài, nó trở thành luật nội tâm của đức mến: “Ta hoàn
thành một Giao Ước Mới với nhà Israel và nhà Giuđa.... Ta sẽ ghi vào lòng trí
chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng
còn chúng sẽ là Dân của Ta” (Dt 8,8.10)[46].
Bài Ðọc I: Gr 31, 31-34
“Ta sẽ ký kết giao ước mới và Ta sẽ không còn nhớ tội lỗi nữa”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Chúa phán: “Ðây tới ngày Ta ký kết
giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa, giao ước này không giống như giao ước
Ta đã ký kết với tổ phụ của chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dắt ra khỏi đất
Ai Cập; giao ước ấy chính chúng đã phản bội, mặc dầu Ta thống trị chúng”. Chúa
phán: “Ðây là giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ đặt
lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là
Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta”. Chúa phán: “Người này sẽ không còn
phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em rằng: “Ngươi hãy nhìn biết
Chúa”, vì mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của
chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp ca: Tv 50, 3-4. 12-13. 14-15
Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch.
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương
con theo lòng nhân hậu Chúa, xóa tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con
tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.
Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch.
2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con
quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng
loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch.
3) Xin ban lại cho con niềm vui
ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường
nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài.
Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch.
Bài Ðọc II: Dt 5, 7-9
“Người đã học vâng phục và đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời”.
Trích thư gởi tín hữu Do Thái.
Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô
đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Người
khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa,
Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã
trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 12,26
Chúa phán: “Ai phụng sự Ta, hãy
theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó”.
Phúc Âm: Ga 12, 20-33
“Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, trong số những người lên
dự lễ, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và
nói với ông rằng: “Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu”. Philipphê đi nói với
Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáp: “Ðã đến giờ
Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì
rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối
đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống
mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy
theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ
tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu
Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin
hãy làm vinh danh Cha”. Lúc đó có tiếng từ trời phán: “Ta đã làm vinh danh Ta
và Ta còn làm vinh danh Ta nữa”. Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng
sấm. Kẻ khác lại rằng: “Một thiên thần nói với Ngài”. Chúa Giêsu đáp: “Tiếng đó
phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị
xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên
cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Người nói thế để chỉ Người phải
chết cách nào.
Ðó là lời Chúa.
[9] Thánh Grêgôriô Nyssênô, Adversus Macedonianos de Spiritu Sancto, 16: Gregorii Nysseni opera, ed. W. Jaeger-H. Langerbeck, v. 3/1 (Leiden
1958) 102-103 (PG 45, 1321).
[30] Thứ Sáu Tuần
Thánh, Cầu nguyện cho mọi người VI: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis
Polyglottis Vaticanis 1970) 254.
[31] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Hội đường Do thái ở Rôma, (ngày 13/4/1986) 4:
Insegnamenti di Giovanni Paolo II, IX 1, 1027.
[46] X. Gr 31,31-34.