CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN NĂM A
LỄ CHÚA KITÔ VUA
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)
WHĐ (24.11.2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện
hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng,
Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh
Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và
Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được
công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
Số 440, 446-451, 668-672, 783, 786, 908, 2105,
2628: Chúa Kitô là Chúa và là Vua
440. Khi thánh Phêrô tuyên xưng Người là Đấng Messia, Chúa Giêsu chấp
nhận lời tuyên xưng đức tin đó, nhưng Người loan báo ngay cuộc khổ nạn đã gần đến
của “Con Người”[1]. Người tỏ cho thấy ý nghĩa
đích thực của vương quyền Messia của Người, vừa trong căn tính siêu việt của
Con Người, “Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13)[2],
vừa trong sứ vụ cứu chuộc của Người với tư cách là Người Tôi trung đau khổ:
“Con Người đến, không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến
dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28)[3].
Do đó ý nghĩa đích thực của vương quyền Người chỉ được biểu lộ cách tột đỉnh
trên Thập Giá.[4] Chỉ sau khi Người sống lại,
thánh Phêrô mới có thể công bố vương quyền Messia của Người trước mặt dân Thiên
Chúa: “Vậy toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Chúa Giêsu mà anh em đã
treo trên Thập Giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv
2,36).
446. Trong bản dịch các sách Cựu ước ra tiếng Hy lạp, YHWH, danh
không thể xưng mà Thiên Chúa dùng để tự mạc khải cho ông Môisen[5], được dịch là Kyrios (“Chúa”). Từ đó, tước hiệu “Chúa”
trở thành danh xưng thông dụng nhất để nói lên chính thần tính của Thiên Chúa
Israel. Tân Ước dùng tước hiệu “Chúa”, theo nghĩa mạnh như trên, cho Chúa Cha,
và đồng thời, và đây là điều mới mẻ, cũng dùng cho Chúa Giêsu, qua đó nhìn nhận
Người chính là Thiên Chúa[6].
447. Chính Chúa Giêsu nhận tước hiệu ấy cho mình một cách mặc nhiên
khi tranh luận với các người Pharisêu về ý nghĩa thánh vịnh 110[7], nhưng khi nói chuyện với
các Tông Đồ thì Người nhận một cách minh nhiên[8].
Trong suốt cuộc đời công khai của Người, những cử chỉ thống trị của Chúa Giêsu
trên thiên nhiên, trên bệnh tật, trên ma quỷ, trên sự chết và tội lỗi, chứng tỏ
Người có quyền tối thượng của Thiên Chúa.
448. Trong các sách Tin Mừng, khi thưa chuyện với Chúa Giêsu, người
ta rất thường gọi Người là “Chúa”. Tước hiệu này cho thấy lòng tôn kính và tin
tưởng của những người đến với Chúa Giêsu và mong đợi Người cứu giúp và chữa
lành[9]. Dưới tác động của Chúa
Thánh Thần, khi thưa như vậy, người ta nhìn nhận mầu nhiệm thần linh của Chúa
Giêsu[10]. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu Phục
sinh, việc gọi tước hiệu ấy trở thành việc thờ lạy: “Lạy Chúa của con! lạy
Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28). Lúc đó, việc gọi Người như vậy còn mang ý
nghĩa kính yêu và thân ái, là điểm riêng của truyền thống Kitô giáo: “Chúa đó!”
(Ga 21,7).
449. Khi dành cho Chúa Giêsu tước hiệu thần linh là “Chúa”, những lời
tuyên xưng đức tin tiên khởi của Hội Thánh xác quyết ngay từ đầu[11] rằng quyền năng, danh dự và
vinh quang thuộc về Chúa Cha cũng thuộc về Chúa Giêsu[12],
bởi vì Người “vốn dĩ là Thiên Chúa” (Pl 2,6), và bởi vì Chúa Cha đã làm tỏ hiện
quyền chủ tể này của Chúa Giêsu khi cho Người sống lại từ cõi chết và tôn dương
Người trong vinh quang của Ngài[13].
450. Ngay từ đầu lịch sử Kitô giáo, việc xác quyết quyền chủ tể của
Chúa Giêsu trên trần gian và trên lịch sử[14]
cũng có nghĩa là nhìn nhận rằng, con người không được để cho tự do cá nhân của
mình suy phục một cách tuyệt đối bất cứ quyền bính trần thế nào, nhưng chỉ suy
phục một mình Thiên Chúa là Cha và Chúa Giêsu Kitô: Hoàng đế Cêsar không phải
là “Chúa”[15]. Hội Thánh “tin rằng mình gặp
được chìa khóa, trung tâm và cứu cánh của toàn thể lịch sử nhân loại nơi Chúa
và Thầy của mình”[16].
451. Kinh nguyện Kitô giáo được ghi dấu bằng tước hiệu “Chúa”, dù
là lời mời gọi cầu nguyện “Chúa ở cùng anh chị em”, dù là câu kết thúc lời nguyện:
“Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”, hay cả trong tiếng kêu đầy tin tưởng và
hy vọng “Maran atha” (“Chúa đến!”) hoặc “Marana tha” (“Lạy Chúa, xin ngự đến!”)
(l Cr l6,22). “Amen. Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20).
668. “Đức Kitô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống
cũng như kẻ chết” (Rm 14,9). Việc Đức Kitô lên trời cho thấy nhân tính của Người
cũng được tham dự vào quyền năng và uy quyền của chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu
Kitô là Chúa: Người nắm mọi quyền bính trên trời dưới đất. Người “vượt trên mọi
quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được” vì Chúa Cha “đã đặt tất
cả dưới chân Người” (Ep 1,20-22). Đức Kitô là Chúa của tất cả vũ trụ[17] và của lịch sử. Nơi Người,
lịch sử của con người, kể cả toàn bộ công trình tạo dựng, tìm gặp được “nơi quy
tụ” của mình[18], tột đỉnh siêu việt của
mình.
669. Là Chúa, Đức Kitô cũng là Đầu Hội Thánh, Thân Thể của Người[19]. Được đưa lên trời và được
tôn vinh sau khi chu toàn sứ vụ, Đức Kitô vẫn hiện diện nơi trần thế trong Hội
Thánh của Người. Công trình cứu chuộc là nguồn mạch của quyền bính mà Đức Kitô
thực thi trong Hội Thánh bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần[20].
“Nước của Đức Kitô đã hiện diện một cách mầu nhiệm”[21]
trong Hội Thánh, là “hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Trời nơi trần thế”[22].
670. Khởi từ cuộc Thăng Thiên, kế hoạch của Thiên Chúa bước vào
giai đoạn hoàn thành. Chúng ta đang sống trong “giờ cuối cùng” (1 Ga 2,18)[23]. “Quả vậy, những thời đại
cuối cùng đã đến với chúng ta và sự canh tân trần gian đã được thiết lập một
cách không thể đảo ngược, và trong thời đại này sự canh tân đó đã được tiền dự
một cách hiện thực nào đó: thật vậy, Hội Thánh nơi trần gian được ghi dấu bằng
sự thánh thiện thật, tuy còn bất toàn”[24].
Nước Đức Kitô đã biểu lộ sự hiện diện của mình nhờ những dấu chỉ kỳ diệu[25] đi kèm theo việc loan báo
Nước đó nhờ Hội Thánh[26].
... cho tới khi mọi sự quy phục Người
671. Tuy nhiên, Nước Đức Kitô, đang hiện diện trong Hội Thánh của
Người, chưa phải là tuyệt đối với “quyền năng và vinh quang” (Lc 21,27)[27] do việc Vua ngự đến trần
gian. Nước này còn bị các thế lực sự dữ tấn công[28],
mặc dù chúng đã bị đánh bại tận gốc rễ do cuộc Vượt Qua của Đức Kitô. Cho tới
khi mọi sự quy phục Người[29], “cho tới khi có trời mới đất
mới, nơi công lý ngự trị, Hội Thánh lữ hành, trong các bí tích và các định chế
của mình, vốn là những điều thuộc thời đại nay, vẫn mang hình dáng của thời đại
chóng qua này và chính Hội Thánh đang sống giữa các thụ tạo còn đang rên siết
và quằn quại như sắp sinh nở và mong đợi cuộc tỏ hiện của các con cái Thiên
Chúa”[30]. Vì vậy, các Kitô hữu cầu
nguyện, nhất là trong bí tích Thánh Thể[31],
để Đức Kitô mau lại đến[32], bằng cách thưa với Người:
“Lạy Chúa, xin ngự đến !” (Kh 22,20)[33].
672. Đức Kitô, trước cuộc Thăng Thiên của Người, đã khẳng định rằng
chưa đến giờ Người thiết lập Nước của Đấng Messia một cách vinh hiển mà Israel
mong đợi[34], Nước đó phải mang lại cho
mọi người, theo lời các tiên tri[35], một trật tự vĩnh viễn của
công lý, của tình yêu, và của hoà bình. Thời gian hiện tại, theo Chúa, là thời
gian của Thần Khí và của việc làm chứng[36],
nhưng cũng là thời gian được ghi dấu bằng nỗi khó khăn hiện tại[37] và bằng sự thử thách của sự
dữ[38], thời gian này không buông
tha Hội Thánh[39], và khởi đầu cuộc chiến của
những ngày sau cùng[40]. Đây là thời gian của sự
mong đợi và tỉnh thức[41].
783. Chúa Cha đã dùng Thánh Thần xức dầu và thiết đặt Chúa Giêsu
Kitô làm “Tư tế, Tiên tri và Vương đế”. Toàn thể dân Thiên Chúa tham dự vào ba
chức năng này của Đức Kitô và lãnh trách nhiệm về sứ vụ và về sự phục vụ, xuất
phát từ ba chức năng đó[42].
786. Cuối cùng, dân Thiên Chúa được tham dự vào chức năng vương đế của Đức Kitô. Đức Kitô thực thi quyền vương đế của Người khi Người
lôi kéo mọi người đến với mình qua cái Chết và sự Sống lại của Người[43]. Đức Kitô, là Vua và là
Chúa của vũ trụ, đã trở nên tôi tớ mọi người, vì “Người đến không phải để được
người ta phục vu, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc
muôn người” (Mt 20,28). Đối với Kitô hữu, “cai trị là phục vụ” Đức Kitô[44]; Hội Thánh đặc biệt “nhận
ra trong những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh của Đấng Sáng Lập nghèo khó
và đau khổ của mình”[45]. Dân Thiên Chúa thực hiện
“phẩm giá vương đế” của mình khi sống theo ơn gọi phục vụ cùng với Đức Kitô.
“Quả thật, tất cả
những người được tái sinh trong Đức Kitô, dau thánh giá làm cho họ trở thành
Vua, việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần thánh hiến họ làm tư tế, để, ngoại trừ sự
phục vụ đặc biệt của thừa tác vụ của chúng tôi, tất cả các Kitô hữu có tinh thần
và có lý trí đều nhận ra mình thuộc dòng dõi vương đế và có chức vụ tư tế. Thật
vậy, có gì mang tính vương đế đối với một tâm hồn cho bằng hướng dẫn thân xác
mình quy phục Thiên Chúa? Và có gì mang tính tư tế cho bằng dâng lên Chúa một
lương tâm trong sạch và dâng những lễ vật tinh tuyền của lòng đạo hạnh trên bàn
thờ của trái tim?”[46]
908. Đức Kitô, nhờ việc Người vâng phục cho đến chết[47], đã truyền thông cho các
môn đệ của Người hồng ân là sự tự do vương đế để “bằng sự từ bỏ mình và bằng đời
sống thánh thiện, họ có thể chiến thắng vương quốc của tội lỗi nơi chính bản
thân họ”[48].
“Bất cứ ai chế
ngự được thân xác mình và làm chủ bản thân một cách năng động thích hợp, không
để linh hồn mình bị khích động bởi các đam mê, thì, vì kiềm chế tốt bản thân bằng
một loại quyền năng vương đế, người đó được gọi là vua, người đó biết cai trị bản
thân và là thẩm phán của mình, không bị lôi cuốn vào tội lỗi mà thành nô lệ”[49].
2105. Bổn phận phải dành cho Thiên Chúa sự tôn thờ đích thực liên
quan đến con người xét theo cá nhân cũng như xã hội. Đây là “đạo lý truyền thống
công giáo về bổn phận luân lý của con người và của xã hội đối với tôn giáo thật
và Hội Thánh duy nhất của Đức Kitô”[50].
Khi không ngừng loan báo Tin Mừng cho con người, Hội Thánh cố gắng làm sao để
con người “có thể làm cho tinh thần Kitô giáo thấm nhuần vào các tâm trí, phong
tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đoàn nơi họ sống”[51].
Bổn phận xã hội của các Kitô hữu là tôn trọng và khơi dậy nơi mỗi người tình
yêu đối với chân lý và điều thiện hảo. Bổn phận này buộc họ phải truyền bá nền
phượng tự của tôn giáo duy nhất và chân thật, đang tồn tại trong Hội Thánh công
giáo và tông truyền[52]. Kitô hữu được mời gọi trở
thành ánh sáng thế gian[53]. Nhờ đó, Hội Thánh bày tỏ
vương quyền của Đức Kitô trên vạn vật, đặc biệt là trên các xã hội loài người[54].
2628. Thờ lạy là thái độ
đầu tiên của con người nhìn nhận mình là thụ tạo trước Đấng Tạo Hoá của mình.
Thờ lạy là tán dương sự cao cả của Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta[55] và sự toàn năng của Đấng cứu
độ, Đấng giải thoát chúng ta khỏi sự dữ. Thờ lạy là phủ phục tinh thần trước “Đức
Vua vinh quang”[56], và là lặng thinh kính cẩn
trước Thiên Chúa, Đấng “luôn luôn cao cả hơn”[57].
Việc thờ lạy Thiên Chúa muôn trùng chí thánh và đáng mến vô cùng làm cho lòng
ta khiêm tốn và đem lại sự bảo đảm cho những lời cầu khẩn của chúng ta.
Số 678-679, 1001, 1038-1041: Chúa Kitô là thẩm phán
678. Chúa Giêsu, sau các Tiên tri[58]
và ông Gioan Tẩy Giả[59], trong lời rao giảng của
mình, đã loan báo cuộc Phán Xét vào ngày tận thế. Lúc đó những cách sống của mỗi
người[60] và sự kín nhiệm trong các
tâm hồn[61] được đưa ra ánh sáng. Lúc
đó tội cứng lòng tin, tức là tội coi thường ân sủng do Thiên Chúa ban, sẽ bị kết
án[62]. Cách đối xử với đồng loại
sẽ biểu lộ là người ta đã đón nhận hay đã từ chối ân sủng và tình yêu Thiên
Chúa[63]. Chúa Giêsu sẽ phán trong
ngày tận thế: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ
nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
679. Đức Kitô là Chúa của sự sống vĩnh cửu. Thẩm quyền đầy đủ để
xét xử một cách vĩnh viễn về các công việc và các tâm hồn của mọi người là thuộc
về Người, với tư cách là Đấng Cứu Chuộc trần gian. Người “đã đạt được” quyền
này nhờ thập giá của Người. Chúa Cha cũng “đã ban cho Người Con mọi quyền xét xử”
(Ga 5,22)[64]. Nhưng Chúa Con không đến để
xét xử, mà để cứu độ[65], và để ban sự sống Người có
nơi chính mình[66]. Qua việc từ chối ân sủng
khi còn sống ở đời này, mỗi người tự xét xử chính mình[67],
lãnh nhận tuỳ theo các công việc của mình[68],
và cũng có thể tự kết án mình muôn đời khi từ chối Thần Khí tình yêu[69].
1001. Khi nào phục sinh? Một
cách vĩnh viễn, “trong ngày sau hết” (Ga 6,39-40.44.54; 11,24); “ngày tận thế”[70]. Quả vậy, sự phục sinh của
những người chết được gắn liền với cuộc Quang lâm của Đức Kitô:
“Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng
Tổng lãnh Thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ
trời ngự xuống, và những người chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên” (l
Tx 4,16).
1038. Việc phục sinh của tất cả mọi người đã chết, “người lành và kẻ
dữ” (Cv 24,15), đi trước cuộc Phán Xét cuối cùng. Đó sẽ là “giờ mọi kẻ ở trong
mồ sẽ nghe tiếng … Con Người và sẽ ra khỏi đó: ai đã làm điều lành, thì sẽ sống
lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga
5,28-29). Lúc đó Đức Kitô sẽ đến “trong vinh quang của Người, có tất cả các
thiên sứ theo hầu…. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người; và Người
sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê, Người sẽ cho chiên
đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái…. Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn
kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời” (Mt
25,31.32.46).
1039. Đối diện với Đức Kitô, Đấng là Chân lý, chân lý về mối tương
quan của từng người với Thiên Chúa sẽ được biểu lộ một cách vĩnh viễn[71]. Việc Phán Xét cuối cùng sẽ
mạc khải, đến tận những hậu quả cuối cùng của nó, điều thiện hảo mà mỗi người
đã làm, hoặc đã bỏ không làm, trong suốt đời sống trần thế của họ:
“Bất cứ điều gì
những kẻ dữ làm, đều bị ghi lại, mà họ không biết, khi ‘Thiên Chúa ta ngự đến,
Ngài không nín lặng’ (Tv 50,3)…. Rồi Ngài quay sang những kẻ ở bên trái và nói:
Ta đã đặt những người nghèo khó bé mọn của Ta trên trần thế cho các ngươi. Ta
như là Đầu, Ta đang ngự bên hữu Chúa Cha trên trời, nhưng các chi thể của Ta
nơi trần thế phải đau khổ, túng thiếu. Nếu các ngươi cho các chi thể của Ta bất
cứ cái gì, thì cái đó đã lên tới Đầu. Các ngươi phải biết rằng, Ta đã đặt những
người nghèo khó bé mọn của Ta cho các ngươi khi còn ở trần thế, Ta đặt ho làm
những người phục vụ các ngươi để đem các việc làm của các ngươi vào kho tàng của
Ta. Và các ngươi đã chẳng đặt gì vào tay họ, vì vậy các ngươi chẳng gặp được gì
ở nơi Ta”[72].
1040. Cuộc Phán Xét cuối cùng sẽ diễn ra khi Đức Kitô trở lại một
cách vinh quang. Chỉ có Chúa Cha mới biết ngày giờ; chỉ một mình Ngài quyết định
việc Ngự đến của Đức Kitô. Lúc đó, qua Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Chúa
Cha sẽ công bố phán quyết chung thẩm của Ngài về toàn thể lịch sử. Chúng ta sẽ
nhận biết ý nghĩa tối hậu của toàn bộ công trình tạo dựng và của toàn bộ Nhiệm
cục cứu độ và chúng ta sẽ hiểu những đường lối kỳ diệu qua đó sự quan phòng của
Thiên Chúa đã dẫn đưa mọi sự đến mục đích tối hậu của chúng. Cuộc Phán Xét cuối
cùng sẽ mạc khải đức công chính của Thiên Chúa chiến thắng mọi sự bất chính mà
các thụ tạo của Ngài đã lỗi phạm, và tình yêu của Ngài mạnh hơn sự chết[73].
1041. Sứ điệp của việc Phán Xét cuối cùng là kêu gọi hối cải, trong
khi Thiên Chúa còn cho người ta “thời gian thuận tiện” và “ngày cứu độ” (2 Cr
6,2). Sứ điệp này gợi lên sự kính sợ thánh thiện đối với Thiên Chúa. Nó thúc đẩy
người ta đến sự công chính của Nước Trời. Sứ điệp này loan báo “ngày hồng phúc
vẫn hằng mong đợi” (Tt 2,13), tức là ngày trở lại của Chúa, Đấng sẽ đến “để được
tôn vinh giữa các thần thánh của Người và được ngưỡng mộ giữa mọi kẻ đã tin” (2
Tx 1,10).
Số 2816-2821: "Nước Cha trị đến"
2816. Trong Tân Ước, cùng một từ Basileia có thể dịch là “vương quyền” (danh từ trừu tượng), “nước”
(danh từ cụ thể) hay “vương triều” (danh từ chỉ việc cai trị). Nước Thiên Chúa
đang ở trước chúng ta. Nước đó đã gần đến trong Ngôi Lời nhập thể, đã được loan
báo trong toàn bộ Tin Mừng, và đã đến trong sự chết và sống lại của Đức Kitô.
Nước Thiên Chúa đến từ bữa Tiệc Ly và trong bí tích Thánh Thể, Nước đó đang ở
giữa chúng ta. Nước đó sẽ đến trong vinh quang, khi Đức Kitô trao nó lại cho
Cha Người:
“Có thể nói, Nước
Thiên Chúa là chính Đức Kitô, Đấng chúng ta hằng ngày khát khao Người đến, và
chúng ta mong mỏi việc Người ngự đến mau mau được tỏ hiện cho chúng ta. Đàng
khác, cũng như Người là sự phục sinh bởi vì chúng ta được sống lại trong Người,
thì cũng vậy, Người có thể được hiểu là Nước Thiên Chúa bởi vì chúng ta sẽ được
hiển trị trong Người”[74].
2817. Lời cầu xin này là lời “Marana
tha”, là tiếng kêu cầu của Thần Khí và Hiền Thê: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”:
“Giả như lời cầu
xin này không đòi buộc phải van xin Nước Chúa mau đến đi nữa, thì chúng ta cũng
bị thúc giục kêu gào điều đó vì muốn ôm lấy niềm hy vọng của chúng ta. Linh hồn
các vị tử đạo nằm dưới bàn thờ lớn tiếng kêu lên Chúa: ‘Lạy Chúa, cho đến bao
giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất
phải đền nợ máu chúng con?’ (Kh 6,10). Chắc chắn các ngài sẽ được xét xử công bằng
vào ngày tận thế. Lạy Chúa, nguyện Nước Chúa mau đến”[75].
2818. Trong Kinh Lạy Cha, vấn đề chủ yếu là việc Nước Thiên Chúa đến
cách chung cuộc lúc Đức Kitô trở lại[76].
Nhưng ước muốn này không làm cho Hội Thánh xao lãng sứ mạng của mình ở trần
gian, trái lại càng thúc giục Hội Thánh dấn thân hơn nữa. Vì từ ngày lễ Ngũ Tuần,
cuộc Ngự đến của Nước Thiên Chúa là công trình của Thần Khí Chúa, Đấng kiện
toàn công trình của Đức Kitô nơi trần gian và hoàn tất công việc thánh hóa[77].
2819. “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong
Chúa Thánh Thần” (Rm 14,17). Thời cuối cùng, mà chúng ta đang sống, là thời kỳ
tuôn đổ Chúa Thánh Thần. Kể từ đó, cuộc chiến đấu quyết định giữa “xác thịt” và
Thần Khí đã khởi đầu[78]:
“Chỉ tâm hồn
thanh sạch mới có thể tin tưởng nói lên: ‘Nguyện Nước Cha trị đến’. Quả thật,
ai nghe lời thánh Phaolô dạy: ‘Vậy tội lỗi đừng có thống trị thân xác phải chết
của anh em nữa’ (Rm 6,12), và biết giữ hành động, tư tưởng và lời nói của mình
trong sạch, người đó mới có thể thưa với Thiên Chúa: ‘Nguyện Nước Cha trị đến’”[79].
2820. Trong sự phân định theo Thần Khí, các Kitô hữu phải biết phân
biệt giữa sự thăng tiến của Nước Thiên Chúa với sự tiến bộ của văn hóa và xã hội
họ đang sống. Sự phân biệt này không phải là tách biệt. Ơn gọi của con người
vào sự sống muôn đời không bãi bỏ nhưng củng cố nhiệm vụ của họ là phải sử dụng
các năng lực và phương tiện do Đấng Tạo Hóa ban, để phục vụ công lý và hòa bình
trên trần gian[80].
2821. Lời cầu xin này được nâng đỡ và đoái nhận trong lời cầu nguyện
của Chúa Giêsu[81], vốn hiện diện và hữu hiệu
trong bí tích Thánh Thể; lời cầu nguyện này mang lại hoa trái trong đời sống mới
theo các mối phúc[82].
Bài Ðọc I: Ed 34, 11-12. 15-17
"Phần các ngươi là những đoàn chiên của Ta, Ta xét xử giữa chiên với
chiên".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Ðây Chúa là Thiên Chúa phán:
"Này chính Ta săn sóc đoàn chiên của Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng. Như một
mục tử kiểm điểm đoàn chiên trong ngày chúng bị tản mát, thì Ta cũng kiểm điểm
đoàn chiên Ta như vậy. Ta sẽ giải thoát chúng khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân
tán, và trong ngày mây mù đen tối.
"Chính Ta sẽ chăn dắt các
chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ
tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương
tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau, con nào mập béo, Ta sẽ chăm sóc, và sẽ
chăn dắt nó trong sự công chính.
"Còn các ngươi, hỡi chiên của
Ta, Chúa là Thiên Chúa phán thế này: Này Ta sẽ phân xử giữa con này với con
khác, giữa cừu đực với dê đực".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-2a. 2b-3. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi
chẳng thiếu thốn chi. Trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ.
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
2) Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi,
Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. Người dẫn tôi qua những
con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người.
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
3) Chúa dọn ra cho tôi mâm cỗ,
ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu tôi thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu
tôi đầy tràn chan chứa.
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa
theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới
thời gian rất ư lâu dài.
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 20-26. 28
"Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, để Thiên Chúa
nên mọi sự trong mọi sự".
Trích thư thứ nhất của Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Ðức Kitô đã từ
cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một
người, thì sự kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải
chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Ðức Kitô như vậy.
Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Ðức Kitô, đoạn đến những
kẻ thuộc về Ðức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi đến tận cùng khi Người
đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, và đã tiêu diệt mọi đầu mục, quyền
năng và thế lực.
Nhưng Người còn phải cai trị cho
đến khi Người đặt mọi quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt
là sự chết. Khi mọi sự đã suy phục Người, bấy giờ chính Con cũng sẽ suy phục Ðấng
đã bắt mọi sự suy phục mình, để Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi sự.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mc 11, 10
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðấng
nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Ðavít tổ phụ chúng ta đã đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 25, 31-46
"Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ
ra".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần
hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại
trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê.
Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái.
"Bấy giờ Vua sẽ phán với những
người bên hữu rằng: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy
phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ.
Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ,
các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các
ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta".
"Khi ấy người lành đáp lại rằng:
"Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống;
có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc;
có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng
Chúa đâu?" Vua đáp lại: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các
ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã
làm cho chính Ta".
"Rồi Người cũng sẽ nói với
những kẻ bên trái rằng: "Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào
lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi
không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng
tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các
ngươi đâu có viếng thăm Ta!"
"Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng:
"Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần,
yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?" Khi ấy Người đáp lại:
"Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một
trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính
Ta". Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người
lành thì được vào cõi sống ngàn thu".
Ðó là lời Chúa.
[16] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 10: AAS 58 (1966) 1033;
x. Ibid., 45: AAS 58 (1966) 1066.
[54] X. ĐGH Lêô XIII, Thông điệp Immortale Dei : Leonis XIII Acta, 5, 118-150; ĐGH Piô XI, Thông điệp
Quas primas: AAS 17 (1925) 593-610.
[77] X. Kinh Nguyện
Thánh Thể IV, 118: Sách Lễ Rôma, editio
typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 468.
[80] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 22: AAS 58 (1966)
1042-1044; Ibid., 32: AAS 58 (1966)
1051; Ibid., 39: AAS 58 (1966) 1057; Ibid., 45: AAS 58 (1966) 1065-1066; ĐGH
Phaolô VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi,
31: AAS 68 (1976) 26-27.
[82] X. Mt 5,13-16; 6,24; 7,12-13.