GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY NĂM
B
WHĐ (28.02.2024) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện
hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng,
Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh
Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và
Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được
công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
Số 459, 577-582: Chúa Giêsu và Lề luật
459. Ngôi Lời đã làm người để trở thành gương mẫu thánh thiện cho
chúng ta. “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi…” (Mt 11,29).
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với
Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga l4,6). Và trên núi Hiển Dung, Chúa Cha đã truyền:
“Hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7)[1]. Người đúng là gương mẫu của
các mối phúc thật và là chuẩn mực của Luật mới: “Anh em hãy yêu thương nhau,
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga l5,l2). Tình yêu này đòi hỏi người ta thật sự
hiến thân để đi theo Người[2].
577. Khởi đầu Bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đưa ra một giáo huấn
long trọng trong đó Người trình bày Lề luật, đã được Thiên Chúa ban tại Sinai dịp
Giao Ước đầu tiên, dưới ánh sáng của ân sủng của Giao Ước Mới:
“Anh em đừng
tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môisen hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải
là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất
qua đi, thì một chấm một phết trong Lề luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi
sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy,
và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn
ai tuân hành, và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” (Mt
5,17-19).
578. Chúa Giêsu, Đấng Messia của Israel, do đó là người lớn nhất
trong Nước Trời, đã phải chu toàn Lề luật, khi tuân giữ toàn bộ Lề luật, theo
chính lời Người nói, cho đến cả những điều răn nhỏ nhất. Nói cho đúng, chính
Người là Đấng duy nhất đã có thể làm điều này một cách trọn hảo[3]. Những người Do Thái, theo
chính họ thú nhận, đã không bao giờ có thể chu toàn trọn bộ Lề luật mà không vi
phạm một điều răn nhỏ nhất nào[4]. Vì vậy trong lễ Xá Tội hằng
năm, con cái Israel cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho những lỗi phạm Lề luật của họ.
Thật vậy, Lề luật tạo thành một tổng thể và, như thanh Giacôbê nhắc nhở, “ai
tuân giữ tất cả Lề luật, mà chỉ sa ngã về một điểm thôi, thì cũng thành người
có tội về hết mọi điểm” (Gc 2,10)[5].
579. Những người Pharisêu rất trọng nguyên tắc tuân giữ toàn bộ Lề
luật, không những chỉ theo văn tự, mà cả theo tinh thần nữa. Khi nêu nguyên tắc
đó cho Israel, họ đã dẫn đưa nhiều người Do Thái thời Chúa Giêsu tới việc hết sức
nhiệt thành giữ đạo[6]. Điều này, nếu không bị phá
huỷ do việc xét đoán mọi sự cách “giả hình”[7],
thì nhất định đã chuẩn bị cho dân hướng tới sự can thiệp chưa từng thấy của
Thiên Chúa, là việc thi hành trọn vẹn Lề luật sẽ được hoàn thành bởi Đấng Công
Chính duy nhất thay cho mọi tội nhân[8].
580. Việc chu toàn Lề luật cách trọn hảo chỉ có thể được thực hiện
bởi Đấng ban hành Lề luật của Thiên Chúa, là Ngôi Con, được sinh ra dưới Lề luật[9]. Nơi Chúa Giêsu, Lề luật
không còn được ghi trên bia đá nữa, nhưng “vào lòng dạ” và “vào tâm khảm”
(Gr 31,33) của Người Tôi Trung, là người, vì đã “trung thành làm sáng tỏ
công lý” (Is 42,3), nên được đặt làm “Giao Ước với dân” (Is 42,6). Chúa
Giêsu chu toàn Lề luật cho đến độ đảm nhận trên mình “lời nguyền rủa của Lề luật”[10] mà những ai “không bền chí
thi hành tất cả những gì được chép trong sách Luật” đã chuốc lấy[11], bởi vì Đức Kitô đã chịu chết
“mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời Giao Ước Cũ” (Dt 9,15).
581. Trước mắt người Do Thái và các nhà lãnh đạo tinh thần của họ,
Chúa Giêsu xuất hiện như một “kinh sư”[12].
Người thường tranh luận về cách giải thích Lề luật của các kinh sư[13]. Nhưng đồng thời, Chúa
Giêsu tất yếu phải đối đầu với những tiến sĩ Luật bởi vì khi trình bày cách giải
thích của mình, Người không tự giới hạn trong những cách giải thích của họ; “vì
Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ”
(Mt 7,28-29). Nơi Người, cùng một Lời của Thiên Chúa đã từng vang lên trên núi
Sinai để ban hành Lề luật được ghi khắc cho ông Môisen, nay lại vang dội trên
núi Bát Phúc[14]. Đấng là Ngôi Lời không bãi
bỏ, nhưng kiện toàn Lề luật, bằng cách đưa ra lời giải thích tối hậu với một uy
quyền thần linh: “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng…. Còn Thầy, Thầy bảo
cho anh em biết” (Mt 5,33-34). Chính Người, với cùng một thẩm quyền thần linh ấy,
phủ nhận một số “truyền thống của người phàm”[15]
(Mc 7,8) của nhóm Pharisêu, vì những truyền thống đó hủy bỏ Lời Thiên Chúa[16].
582. Đi xa hơn nữa, Chúa Giêsu còn kiện
toàn Lề luật về sự thanh sạch của các thức ăn, một điều hết sức quan trọng
trong cuộc sống hằng ngày của người Do Thái, khi Người cho thấy ý nghĩa “quản
giáo” của luật ấy[17] bằng lời giải thích thần linh: “Bất cứ cái
gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế….
Như vậy là Người tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch…. Cái gì từ trong con người
xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người,
phát xuất những ý định xấu” (Mc 7,18-21). Khi lấy thẩm quyền thần linh mà đưa
ra lời giải thích tối hậu về Lề luật, Chúa Giêsu ở trong tình thế đối nghịch với
một số kinh sư không chấp nhận lời giải thích của Người, mặc dù lời giải thích
này được củng cố bằng những dấu lạ thần linh kèm theo[18]. Điều này đặc biệt đúng, trong vấn đề ngày
sabat. Chúa Giêsu thường dựa trên chính lập luận của các kinh sư[19], để nhắc nhở rằng luật nghỉ ngơi ngày sabat
không bị vi phạm khi phục vụ Thiên Chúa[20] hay phục vụ người lân cận[21], như trường hợp các lần Người chữa lành.
Số 593, 583-586: Đền thờ
báo trước Đức Kitô; Người là Đền thờ
593. Chúa Giêsu tôn trọng Đền
thờ: Người lên Đền thờ vào những dịp
lễ hành hương của người Do Thái và Người yêu mến với một tình yêu tha thiết nơi
Thiên Chúa ở giữa loài người. Đền thờ báo trước mầu nhiệm của Người. Người loan
báo sự sụp đổ của Đền thờ, như một biểu hiện việc chính Người sẽ bị giết và việc
lịch sử cứu độ bước vào một thời đại mới trong đó Thân Thể Người sẽ là Đền thờ
vĩnh viễn.
583. Chúa Giêsu, cũng như các Tiên tri trước Người, tỏ lòng tôn
kính rất sâu xa đối với Đền thờ Giêrusalem. Ở đó, Người đã được thánh Giuse và
Đức Maria tiến dâng, bốn mươi ngày sau khi Người ra đời[22].
Lúc mười hai tuổi, Người quyết định ở lại trong Đen thờ để nhắc cha mẹ Người nhớ
rằng Người phải lo việc của Cha Người[23].
Trong quãng đời ẩn dật của Người, Người đều lên Đền thờ mỗi năm ít nhất để mừng
lễ Vượt Qua[24]; thừa tác vụ công khai của
Người được đánh dấu như theo nhịp điệu những lần Người hành hương lên
Giêrusalem vào những dịp lễ lớn của người Do Thái[25].
584. Chúa Giêsu lên Đền thờ với tính cách là đến một nơi để gặp gỡ
Thiên Chúa. Đối với Người, Đền thờ là nhà của Cha Người, nhà cầu nguyện, và Người
phẫn nộ bởi vì tiền đường Đền thờ đã trở thành nơi buôn bán[26].
Sở dĩ Người xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền thờ, đó là vì long yêu mến
nhiệt thành đối với Cha Người: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán. Các
môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Thánh Kinh: ‘Vì nhiệt tâm lo việc
nhà Chúa, mà con phải thiệt thân’ (Tv 69,10)” (Ga 2,16-17). Sau khi Người phục
sinh, các Tông Đồ vẫn giữ một lòng tôn kính đạo hạnh đối với Đền thờ[27].
585. Tuy nhiên, ngay trước cuộc khổ nạn của Người, Chúa Giêsu đã
tiên báo sự sụp đổ của công trình kiến trúc nguy nga ấy, tại đó sẽ không còn tảng
đá nào nằm trên tảng đá nào[28]. Người loan báo sự việc ấy
như là một dấu chỉ của thời đại sau cùng, thời đại được khai mở bằng cuộc Vượt
Qua của Người[29]. Nhưng lời tiên báo đó đã bị
những kẻ làm chứng gian bóp méo khi được thuật lại trong cuộc thẩm vấn Người
trước mặt vị thượng tế[30]. Người ta còn dùng lời ấy để
nhục mạ Người khi Người bị đóng đinh trên thập giá[31].
586. Chúa Giêsu không hề có thái độ thù nghịch Đền thờ[32], chính tại đó Người đã giảng
dạy một phần giáo huấn quan trọng của Người[33],
Người đã muốn nộp thuế Đền thờ cho mình và cho ông Phêrô[34]
mà Người vừa mới đặt làm nền tảng cho Hội Thánh tương lai của Người[35]. Hơn nữa, Người tự đồng hóa
mình với Đền thờ khi tự giới thiệu mình là nơi ở vĩnh viễn của Thiên Chúa giữa
loài người[36]. Chính vì vậy mà việc thân
thể Người bị sát hại[37] loan báo việc Đền thờ bị
phá hủy, điều đó cho thấy lịch sử cứu độ đã bước vào một thời đại mới: “Đã đến
giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại
Giêrusalem” (Ga 4,21)[38].
Số 1967-1968: Luật mới hoàn
thành Luật cũ
1967. Luật Tin Mừng hoàn thành[39],
tinh luyện, vượt qua và kiện toàn Luật cũ. Trong các mối phúc, Luật mới hoàn thành các lời hứa thần linh khi
nâng cao chúng lên và quy hướng chúng về “Nước Trời”. Luật Tin Mừng dành cho những
ai sẵn sàng đón nhận niềm hy vọng mới này với lòng tin: những người nghèo, người
khiêm tốn, người đau khổ, người có trái tim trong sạch, người bị bách hại vì Đức
Kitô, như vậy Luật Tin Mừng phác hoạ những con đường chưa từng thấy của Nước Trời.
1968. Luật Tin Mừng hoàn
thành các mệnh lệnh của Lề Luật. Bài giảng của Chúa không hủy bỏ hay làm giảm
giá trị các quy định luân lý của Luật cũ, nhưng rút ra những sức mạnh còn ẩn
kín của chúng, và làm cho từ nơi chúng phát sinh ra những đòi hỏi mới: Luật Tin
Mừng mạc khải toàn bộ chân lý thần linh và nhân linh của Luật cũ. Luật mới
không thêm những mệnh lệnh mới từ bên ngoài, nhưng đi đến chỗ biến đổi gốc rễ của
các hành vi, là trái tim, nơi con người chọn lựa giữa thanh sạch và ô uế[40], nơi hình thành đức tin, đức
cậy, đức mến, và cùng với chúng, các nhân đức khác. Như vậy, Tin Mừng đưa Lề Luật
tới sự viên mãn của nó nhờ bắt chước sự trọn hảo của Cha trên trời[41], nhờ việc tha thứ cho kẻ
thù và cầu nguyện cho những người bách hại, giống như lòng quảng đại của Thiên
Chúa[42].
Số 272, 550, 853: Quyền
năng của Đức Kitô được mạc khải trên Thập Giá
272. Đức tin vào Thiên Chúa là Cha toàn năng có thể bị thử thách do
kinh nghiệm về sự dữ và đau khổ. Đôi khi Thiên Chúa có thể bị coi như vắng mặt
và bất lực không ngăn chặn được sự dữ. Thật ra, Thiên Chúa là Cha đã mạc khải sự
toàn năng của Ngài một cách hết sức huyền
nhiệm trong việc Con của Ngài tự nguyện hạ mình và sống lại, nhờ đó Ngài đã
chiến thắng sự dữ. Như vậy, Đức Kitô bị đóng đinh là sức mạnh của Thiên Chúa và
sự khôn ngoan của Thiên Chúa “vì sự điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn
ngoan của loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của
loài người” (1 Cr 1,25). Trong việc Đức Kitô sống lại và được tôn vinh, Chúa
Cha biểu dương “sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực” của Ngài và cho thấy “quyền lực
vô cùng lớn lao” của Ngài mà “Ngài đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu”
(Ep 1,19-22).
550. Khi Nước Thiên Chúa trị đến là lúc
nước Satan bị sụp đổ[43]: “Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa
mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt l2,28). Những
việc trừ quỷ do Chúa Giêsu thực hiện, giải phóng người ta khỏi quyền thống trị
của ma quỷ[44]. Những việc ấy báo trước sự chiến thắng cao
cả của Chúa Giêsu trên “thủ lãnh thế gian này”[45]. Nhờ thập giá của Đức Kitô mà Nước Thiên
Chúa sẽ được thiết lập vĩnh viễn: “Thiên Chúa đã cai trị từ cây gỗ”[46].
853. Nhưng trên đường lữ hành, Hội Thánh cũng cảm nghiệm “khoảng
cách giữa sứ điệp mà Hội Thánh phải rao giảng và sự yếu hèn nhân loại của những
người được ủy thác Tin Mừng”[47]. Chỉ bằng con đường “sám hối
và canh tân”[48] và “qua cửa hẹp của Thập
Giá”[49], Dân Thiên Chúa mới có thể
mở rộng Nước Đức Kitô[50]. “Cũng như Đức Kitô đã hoàn
thành công trình cứu chuộc trong nghèo khó và bị bách hại, Hội Thánh cũng được
kêu gọi tiến bước trên chính con đường đó, để truyền thông cho người ta những
hoa trái của ơn cứu độ”[51].
Bài Ðọc I: Xh 20, 1-17
“Luật do Môsê đã ban ra”.
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán bảo
những lời sau đây: Ta là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã dẫn dắt ngươi ra khỏi vùng
Ai Cập, khỏi nhà nô lệ. Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta, đừng
chạm trổ tượng gỗ, hay vẽ hình các vật trên trời, dưới đất, trong nước, dưới
lòng đất. Ðừng thờ lạy và phụng sự các hình tượng ấy, vì Ta là Chúa, Thiên Chúa
ngươi, Chúa hùng mạnh, Chúa ganh tị, trừng phạt con vì tội lỗi cha, cho đến ba
bốn đời, những kẻ ghét Ta; Ta tỏ lòng nhân lành đến ngàn đời đối với những ai
kính mến Ta và tuân giữ các giới răn Ta.
Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên
Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh
Người mà lường gạt.
Ngươi hãy nhớ thánh hóa ngày
Sabbat. Ngươi làm lụng và làm tất cả mọi việc trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy
là ngày Sabbat, thì thuộc về Chúa, Thiên Chúa ngươi; trong ngày đó, ngươi, con
trai, con gái, tôi tớ nam nữ, súc vật, ngoại kiều trọ trong nhà ngươi, tất cả
không được làm việc gì. Vì trong sáu ngày, Chúa đã tạo dựng trời, đất, biển, và
tất cả mọi vật trong đó, rồi Người nghỉ trong ngày thứ bảy: cho nên Chúa chúc
phúc và thánh hóa ngày Sabbat.
Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để
ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết
người, chớ phạm tội ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối hại anh em
mình, chớ tham lam nhà của kẻ khác, chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò
lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài này: Xh 20, 1-3. 7-8. 12-17
“Luật do Môsê đã ban ra”.
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán bảo
những lời sau đây: Ta là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã dẫn dắt ngươi ra khỏi vùng
Ai Cập, khỏi nhà nô lệ. Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta. Ngươi
đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng
phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt. Ngươi hãy nhớ thánh hóa ngày Sabbat.
Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để
ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết
người; chớ phạm tội ngoại tình; chớ trộm cắp; chớ làm chứng dối hại anh em
mình; chớ tham lam nhà của kẻ khác; chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò
lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp ca: Tv 18,8. 9. 10. 11
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời.
Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện,
bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời.
2) Giới răn Chúa chính trực, làm
hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết,
còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy.
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời.
4) Những điều đó đáng chuộng hơn
vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả mật tàng ong.
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời.
Bài Ðọc II: 1Cr 1, 22-25
“Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp
phạm cho nhiều người, nhưng là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đối với những người
được gọi”.
Trích thư thứ nhất của Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, các người Do
Thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng
tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm
cho người Do Thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo, nhưng đối với
những người được gọi, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, thì Ngài là Ðức Kitô, quyền
năng của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Chúa Cha, vì sự điên rồ của Thiên Chúa
thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa thì
vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4,4b
Người ta sống không nguyên bởi
bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Phúc Âm: Ga 2, 13-25
“Các ngươi cứ phá huỷ đền thờ này, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Lễ Vượt Qua của dân Do Thái gần đến,
Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò,
chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm
roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền
của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng:
“Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”.
Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt
tôi”.
Bấy giờ người Do Thái bảo Người rằng:
“Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy”. Chúa Giêsu
trả lời: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”.
Người Do Thái đáp lại: “Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông,
Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?” Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân
thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời
đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
Trong thời gian Người ở lại
Giêrusalem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì mục kích những phép lạ
Người làm. Nhưng chính Chúa Giêsu không tin tưởng họ, vì Người biết tất cả mọi
người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong
lòng người ta.
Ðó là lời Chúa.