GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG
GIÁO
CHO BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY A
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)
WHĐ (11.03.2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các Chúa nhật theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
LỜI CHÚA
Bài
Ðọc I: Xh 17, 3-7
"Xin cho chúng tôi nước để
chúng tôi uống".
Bài
trích sách Xuất Hành.
Trong
những ngày ấy, dân chúng khát nước, nên phàn nàn với ông Môsê rằng: "Tại
sao ông dẫn dắt chúng tôi ra khỏi Ai Cập, để cho chúng tôi cùng con cái và đoàn
súc vật chúng tôi phải chết khát như vầy". Môsê kêu lên cùng Chúa rằng:
"Con sẽ phải làm gì cho dân này? Còn một chút nữa là họ ném đá con rồi".
Chúa liền phán bảo Môsê: "Ngươi hãy tiến lên, đi trước dân chúng và dẫn
các bậc kỳ lão Israel đi theo, tay ngươi cầm gậy mà ngươi đã dùng mà đánh trên
nước sông. Này đây, Ta sẽ đứng trước mặt ngươi, trên tảng đá Horeb, ngươi sẽ
đánh lên tảng đá, từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống". Môsê làm các
điều nói trên trước mặt các bậc kỳ lão Israel. Ông đặt tên nơi đó là "Thử
Thách", vì con cái Israel đã phàn nàn và thách thức Chúa mà rằng:
"Chúa có ở với chúng tôi hay không?"
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe
tiếng Người: "Các ngươi đừng cứng lòng!"
Xướng:
1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy
ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người!
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe
tiếng Người: "Các ngươi đừng cứng lòng!"
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Các ngươi đừng cứng
lòng!"
3) Ước
chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như
hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ
đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta".
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe
tiếng Người: "Các ngươi đừng cứng lòng!"
Bài
Ðọc II: Rm 5, 1-2. 5-8
"Lòng mến Chúa đổ xuống
lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta".
Bài
trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh
em thân mến, khi được đức tin công chính hoá, chúng ta được hoà thuận với Chúa
nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng cho chúng ta nhờ đức tin mà tiến đến ân
sủng, đứng vững ở đó, và được hiển vinh trong niềm hy vọng vinh quang của con
cái Chúa. Nhưng cậy trông không làm hổ thẹn, vì lòng mến Chúa đổ vào lòng chúng
ta nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta. Ngay từ khi chúng ta còn yếu
hèn, Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết
thay cho người công chính, hoạ chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng
Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc
chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.
Ðó
là lời Chúa.
Câu
Xướng Trước Phúc Âm: Ga 4, 42 và 15
Lạy
Chúa, Chúa thật là Ðấng cứu chuộc thế gian; xin ban cho con nước hằng sống, để
con không còn khát nữa.
Phúc Âm: Ga 4, 5-15. 19b-26.
39a. 40-42
“Mạch nước vọt đến sự sống đời đời”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi
là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng
của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào
khoảng giờ thứ sáu.
Một người đàn bà xứ Samaria đến
xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà cho tôi uống nước" (lúc ấy, các
môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria thưa lại: "Sao thế!
Ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?"
(vì người Do Thái không giao thiệp gì với người Samaria).
Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhận
biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: "Xin cho tôi uống
nước", thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống".
Người đàn bà nói: "Thưa Ngài,
Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng
Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này, và
chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của người?"
Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống
nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn
khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự
sống đời đời". Người đàn bà thưa: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để
tôi chẳng còn khát, và khỏi phải đến đây xách nước nữa".
Và người đàn bà nói với Chúa
Giêsu: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng tôi đã
thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem".
Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng
Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các
người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do
Thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực,
sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà
Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ
trong tinh thần và trong chân lý".
Người đàn bà thưa: "Tôi biết
Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho
chúng tôi mọi sự". Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy chính là Ta, là người
đang nói với bà đây".
Một số đông người Samaria ở thành
đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng. Khi gặp Người, họ xin Người ở lại
với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số
những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: "Giờ đây, không
phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời
Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế".
Ðó là lời Chúa.
GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
Số 1214-1216, 1226-1228: Rửa
tội, tái sinh bởi nước và Thánh Thần
1214 Bí
tích Rửa Tội được gọi theo nghi thức trung tâm mà nó được thực
hiện: Rửa (tiếng Hy Lạp là Baptizein) có nghĩa là “chìm xuống”,
“dìm xuống.” Việc “dìm xuống” nước tượng trưng cho việc mai táng người dự tòng
vào sự chết của Đức Kitô, và từ đó họ bước ra nhờ được sống lại với Người [X.
Rm 6,3-4; Cl 2,12], với tư cách là một “thụ tạo mới” (2 Cr 5,17; Gl 6,15).
1215 Bí
tích này cũng được gọi là “Phép Rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái
sinh và đổi mới” (Tt 3,5), bởi vì bí tích này biểu lộ và thực hiện việc
sinh ra bởi nước và Thánh Thần, mà nếu không có việc đó thì “không ai có thể
vào Nước Thiên Chúa” (Ga 3,5).
1216 “Phép
Rửa này còn được gọi là ơn soi sáng, vì những ai học biết điều này
(về giáo lý) thì được soi sáng trong tâm trí” [Thánh Giustinô, Apologia, 1, 61:
CA 1,168 (PG 6,421)]. Người được Rửa Tội, vì trong Phép Rửa họ được đón nhận
Ngôi Lời là “ánh sáng thật chiếu soi mọi người” (Ga 1,9), nên sau khi “được soi
sáng” [X. Dt 10,32], họ trở thành “con cái sự sáng” [X. 1 Tx 5,5] và
chính họ là “ánh sáng” (Ep 5,8):
Bí
tích Rửa Tội “là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của
Thiên Chúa… Chúng ta gọi bí tích đó là hồng ân, ân sủng, Rửa Tội, xức dầu, soi
sáng, y phục bất hoại, sự tắm rửa của ơn tái sinh, ấn tín và tất cả những gì
quý giá nhất. Nó được gọi là hồng ân, bởi vì được ban cho những người
trước đó chẳng có gì; là ân sủng, bởi vì được ban cả cho những người
tội lỗi; là sự dìm xuống, bởi vì tội lỗi bị chôn vùi trong nước;
là xức dầu, bởi vì bí tích này là thánh thiêng và vương giả (như những
người được xức dầu); là ơn soi sáng, bởi vì nó sáng ngời và chói lọi;
là y phục, bởi vì nó che phủ sự xấu xa của chúng ta; là tắm rửa,
bởi vì bí tích này rửa sạch; là ấn tín, bởi vì nó là sự bảo toàn và
là dấu chỉ của uy quyền.” [Thánh Grêgôriô thành Nazien, Oratio 40, 3-4: SC
358,202-204 (PG 36,361-364)]
1226 Từ
ngày lễ Ngũ Tuần, Hội Thánh đã cử hành và ban bí tích Rửa Tội. Thật vậy, thánh
Phêrô tuyên bố với đám đông đang bối rối vì bài giảng của ngài: “Anh em hãy sám
hối, và mỗi người hãy chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu Kitô, để được ơn tha tội;
và anh em sẽ nhận được hồng ân là Thánh Thần” (Cv 2,38). Các Tông Đồ và những cộng
sự viên của các ngài ban bí tích Rửa Tội cho những ai tin vào Chúa Giêsu: những
người Do Thái, những người kính sợ Thiên Chúa và những người ngoại giáo [X. Cv
2,41; 8,12-13; 10,48; 16,15]. Bí tích Rửa Tội luôn gắn liền với đức tin.
Thánh Phaolô tuyên bố với viên cai ngục canh giữ ông ở Philípphê: “Hãy tin vào
Chúa Giêsu, thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ.” Trình thuật kể tiếp: “Lập tức,
ông ấy được chịu Phép Rửa cùng với tất cả người nhà” (Cv 16,31-33).
1227 Theo
thánh Phaolô Tông Đồ, nhờ bí tích Rửa Tội, tín hữu được hiệp thông vào sự chết
của Đức Kitô; họ được mai táng và sống lại với Người:
“Khi
chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta
được dìm vào trong cái chết của Người. Vì được dìm vào trong cái chết của Người,
chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống
lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống
một đời sống mới” (Rm 6,3-4) [X. Cl 2,12]. Những người chịu Phép Rửa đã “mặc
lấy Đức Kitô” [X. Gl 3,27]. Nhờ Chúa Thánh Thần, bí tích Rửa Tội là Phép Rửa
để thanh tẩy, thánh hóa và công chính hóa [X. 1 Cr 6,11; 12,13].
1228 Như
vậy, bí tích Rửa Tội là Phép Rửa bằng nước nhờ đó “hạt giống bất hoại” của Lời
Chúa đem lại hiệu quả của nó là ban sự sống [X. 1 Pr 1,23; Ep 5,26]. Thánh
Augustinô nói về bí tích Rửa Tội: “Lời liên kết với một yếu tố vật chất và nó
trở thành một bí tích” [Thánh Augustinô, In Iohannis evangelium tractatus, 80,
3: CCL 36,529 (PL 35,1840)].
Số 727-729: Chúa Giêsu mặc
khải Chúa Thánh Thần
727 Toàn
bộ sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong thời gian viên mãn tập trung vào
sự kiện Chúa Con là Đấng Được Xức Dầu bằng Thần Khí của Chúa Cha khởi từ cuộc
Nhập Thể của Người: Chúa Giêsu là Đức Kitô, Đấng Mêsia.
Toàn
bộ chương hai của Tín biểu phải được đọc dưới ánh sáng này. Toàn bộ công trình
của Đức Kitô là sứ vụ phối hợp của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần. Ở đây,
chúng ta sẽ chỉ đề cập những gì liên quan đến lời Chúa Giêsu hứa ban Thánh Thần
và việc Người thực hiện lời hứa đó sau khi Người được tôn vinh.
728 Chúa
Giêsu không mặc khải trọn vẹn Chúa Thánh Thần, cho tới khi Người được tôn vinh
qua cái Chết và sự Sống lại của Người. Tuy nhiên, Người cũng dần dần gợi ý về
Chúa Thánh Thần khi Người giảng dạy dân chúng, khi Người mặc khải Thịt của Người
sẽ là của ăn cho thế gian được sống [X. Ga 6,27.51.62-63]. Người cũng gợi
ý cho ông Nicôđêmô [X. Ga 3,5-8], cho người phụ nữ Samaria [X. Ga
4,10.14.23-24] và những người tham dự Lễ Lều [X. Ga 7,37-39]. Người
nói cách tỏ tường cho các môn đệ của Người nhân khi dạy họ cầu nguyện [X. Lc
11,13] và khi báo trước việc họ phải là nhân chứng cho Người [X. Mt
10,19-20].
729 Chỉ
khi đến Giờ Chúa Giêsu phải được tôn vinh, Người mới hứa rằng Chúa Thánh Thần sẽ
ngự đến, vì cái Chết và sự Sống lại của Người sẽ là sự hoàn thành Lời đã hứa với
các Tổ phụ [X. Ga 14,16-17.26; 15,26; 16,7-15; 17,26]: Thần chân lý, Đấng
Bào Chữa khác, sẽ được Chúa Cha ban nhờ lời cầu xin của Chúa Giêsu; chính Ngài
sẽ được Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Giêsu; Chúa Giêsu sẽ sai Chúa Thánh Thần
từ Chúa Cha mà đến, bởi vì Ngài xuất phát từ Chúa Cha. Chúa Thánh Thần sẽ đến,
và chúng ta sẽ nhận biết Ngài, Ngài sẽ ở cùng chúng ta mãi mãi, Ngài sẽ cư ngụ
với chúng ta; Ngài sẽ dạy dỗ chúng ta mọi sự và nhắc cho chúng ta nhớ tất cả những
gì Chúa Giêsu đã nói, và Ngài sẽ làm chứng cho Đức Kitô; Ngài sẽ dẫn chúng ta đến
chân lý trọn vẹn và sẽ tôn vinh Đức Kitô. Còn đối với thế gian, Ngài sẽ chứng
minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính, và về việc xét xử.
Số 694, 733-736, 1215, 1999,
2652: Chúa Thánh Thần, nước hằng sống, một hồng ân của Thiên Chúa
694 Nước. Trong bí tích Rửa Tội, nước là một biểu tượng nói
lên tác động của Chúa Thánh Thần, vì vậy, sau lời khẩn cầu Chúa Thánh Thần, nước
trở thành dấu chỉ bí tích hữu hiệu của việc tái sinh: giống như trong lần sinh
ra thứ nhất chúng ta được cưu mang trong nước, thì cũng vậy, nước Rửa Tội thật
sự nói lên rằng việc chúng ta được sinh vào đời sống thần linh được ban trong
Chúa Thánh Thần. Nhưng, “chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần
Khí”, “và tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12,13):
Vì vậy, đích thân Thần Khí cũng là Nước hằng sống, chảy ra từ Đức Kitô chịu
đóng đinh thập giá [X. Ga 19,34; 1 Ga 5,8] như từ nguồn mạch của mình, và
vọt ra thành sự sống vĩnh cửu trong chúng ta [X. Ga 4,10-14; 7,38; Xh 17,1-6;
Is 55,1; Dcr 14,8; 1 Cr 10,4; Kh 21,6; 22,17].
733 “Thiên
Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8.16) và tình yêu là hồng ân đầu tiên, chứa đựng tất
cả mọi sự khác. Tình yêu này “Thiên Chúa đã đổ vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần
mà Ngài ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
734 Bởi
vì do tội mà chúng ta chết hoặc ít nhất là bị thương, nên hiệu quả đầu tiên của
hồng ân tình yêu là ơn tha thứ các tội của chúng ta. Chính “ơn thông hiệp của
Chúa Thánh Thần” (2 Cr 13,13) trong Hội Thánh phục hồi những người đã được Rửa
Tội trở lại tình trạng “giống như” Thiên Chúa mà họ đã đánh mất vì tội lỗi.
735 Lúc
đó Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta “bảo chứng” hoặc “những ân huệ khởi đầu” của
phần gia sản của chúng ta [X. Rm 8,23; 2 Cr 1,22]: đó là chính sự sống của
Ba Ngôi Chí Thánh, là yêu thương “như chính Ngài đã yêu thương chúng ta” [X. 1
Ga 4,11-12]. Tình yêu này (Đức mến của 1 Cr 13) là nguyên lý của đời sống
mới trong Đức Kitô, nay có thể thực hiện được bởi vì chúng ta đã lãnh nhận “sức
mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống” (Cv 1,8).
736 Nhờ
sức mạnh đó của Chúa Thánh Thần, các con cái Thiên Chúa có thể mang lại hoa
trái. Đấng đã tháp chúng ta vào Cây Nho thật, sẽ làm cho chúng ta mang lại hoa
trái của Thần Khí, là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm,
trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23). Thần Khí là sự sống của chúng ta;
chúng ta càng từ bỏ chính mình [X. Mt 16,24-26], Thần Khí càng làm cho chúng ta hoạt động [X. Gl 5,25].
“Nhờ
Chúa Thánh Thần, chúng ta được phục hồi để vào thiên đàng, được dẫn lên Nước Trời,
được ban ơn làm nghĩa tử: chúng ta được vững lòng để gọi Thiên Chúa là Cha của
mình, và thông phần vào ân sủng của Đức Kitô, được gọi là con cái ánh sáng và dự
phần vào vinh quang vĩnh cửu” [Thánh Basiliô Cả, Liber de Spiritu
Sancto, 15,36: SC 17bis, 370 (PG 32,132)].
1215 Bí
tích này cũng được gọi là “Phép Rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái
sinh và đổi mới” (Tt 3,5), bởi vì bí tích này biểu lộ và thực hiện việc
sinh ra bởi nước và Thánh Thần, mà nếu không có việc đó thì “không ai có thể
vào Nước Thiên Chúa” (Ga 3,5).
1999 Ân sủng
của Đức Kitô là một hồng ân nhưng không, Thiên Chúa ban cho chúng ta từ sự sống
của Ngài, nhờ Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào linh hồn chúng ta để chữa trị nó khỏi
tội lỗi và thánh hóa nó: Đó là ơn thánh hóa hay ơn thần
linh hóa, được lãnh nhận trong bí tích Rửa Tội. Ân sủng này là nguồn mạch của
công trình thánh hóa trong chúng ta [X. Ga 4,14; 7,38-39]:
“Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thụ tạo mới. Cái cũ
đã qua và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ
Đức Kitô mà cho chúng ta được giao hòa với Ngài” (2 Cr 5,17-18).
2652 Chúa
Thánh Thần là “nước trường sinh”, “tuôn ban sự sống muôn đời” [X. Ga 4,14] vào
tâm hồn người cầu nguyện. Chính Ngài dạy chúng ta biết đón nhận nước đó tận nguồn
mạch: nơi Đức Kitô. Trong đời sống Kitô hữu, có những mạch dẫn đến nguồn, nơi Đức
Kitô đang mong đợi chúng ta để cho chúng ta uống thỏa thuê Chúa Thánh Thần
Số 604, 733, 1820, 1825,
1992, 2658: Thiên Chúa khởi xướng; hy vọng từ Thần Khí
604 Khi
trao nộp Con của Ngài vì tội lỗi chúng ta, Thiên Chúa biểu lộ kế hoạch của Ngài
là một kế hoạch của tình yêu lân mẫn, đi trước mọi công trạng của chúng ta:
“Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng
chính Ngài đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Ngài đến làm của lễ đền tội
cho chúng ta” (1 Ga 4,10) [X. 1 Ga 4,19]. “Đức Kitô đã chết vì chúng ta,
ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu
thương chúng ta” (Rm 5,8).
733 “Thiên
Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8.16) và tình yêu là hồng ân đầu tiên, chứa đựng tất
cả mọi sự khác. Tình yêu này “Thiên Chúa đã đổ vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần
mà Ngài ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
1820 Từ
lúc khởi đầu việc giảng dạy của Chúa Giêsu, đức cậy Kitô Giáo được khai triển
trong lời loan báo các mối phúc. Các mối phúc nâng niềm hy vọng
của chúng ta hướng lên trời, như lên miền Đất hứa mới; vạch đường tới đó qua những
thử thách đang chờ đợi các môn đệ của Chúa Giêsu. Nhưng nhờ công nghiệp của
Chúa Giêsu Kitô và của cuộc khổ nạn của Người, Thiên Chúa gìn giữ chúng ta
trong niềm hy vọng “không phải thất vọng” (Rm 5,5). Chúng ta có niềm hy vọng
“như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn”, thả sâu vào “nơi Chúa Giêsu đã
vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta” (Dt 6,19-20). Đức cậy cũng là
vũ khí bảo vệ chúng ta trong cuộc chiến đấu để được cứu độ: “Hãy mặc áo giáp là
đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Tx 5,8). Đức cậy
mang lại cho chúng ta niềm vui ngay cả trong thử thách: “Hãy vui mừng vì có niềm
hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân” (Rm 12,12). Đức cậy được diễn tả và
nuôi dưỡng trong kinh nguyện, nhất là trong Lời Kinh của Chúa, là bản toát yếu
của tất cả những gì mà đức cậy khiến chúng ta ước ao.
1825 Đức
Kitô đã chịu chết vì yêu mến chúng ta, khi chúng ta còn là “thù nghịch” (Rm
5,10). Chúa đòi chúng ta rằng, cũng như Người, chúng ta phải yêu mến cả kẻ
thù của chúng ta [X. Mt 5,44], rằng chúng ta phải trở thành người
lân cận cho những kẻ ở xa nhất [X. Lc 10,27-37], rằng chúng ta phải yêu
thương trẻ em [X. Mc 9,37] và người nghèo như chính Người [X. Mt 25,40.45].
Thánh
Tông Đồ Phaolô đã mô tả một cách tuyệt vời về đức mến: “Đức mến thì nhẫn nhục,
hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất
chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy
sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng
tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7).
1992 Sự
công chính hóa là công trạng nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô cho
chúng ta, Người là Đấng đã tự hiến trên thập giá như của lễ sống động, thánh
thiện và đẹp lòng Thiên Chúa, và Máu Người trở nên dụng cụ đền tội vì tội lỗi của
mọi người. Sự công chính hóa được ban nhờ Phép Rửa, là bí tích của đức tin. Nó
làm cho chúng ta nên phù hợp với sự công chính của Thiên Chúa, Đấng nhờ quyền
năng của lòng thương xót của Ngài làm cho chúng ta nên công chính tự bên trong.
Sự công chính hóa có mục tiêu là vinh quang của Thiên Chúa và của Đức Kitô, và
hồng ân của đời sống vĩnh cửu. [X. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de
iustificatione, c. 7: DS 1529]
“Nhưng
ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật
Môsê. Điều này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. Quả thế, người ta được
Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những
ai tin đều được như thế, bất luận là ai. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị
tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do hồng ân
Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu.
Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng
tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Ngài là Đấngï Công Chính. Trước kia, trong thời
Thiên Chúa nhẫn nại, Ngài đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. Nhưng bây giờ,
Ngài muốn cho thấy rằng Ngài vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức
Giêsu được nên công chính” (Rm 3,21-26).
2658 “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Một khi được đào tạo nhờ đời sống phụng vụ, việc cầu nguyện sẽ kín múc được mọi sự trong tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu mến chúng ta trong Đức Kitô. Tình yêu này giúp chúng ta đáp lại Ngài bằng cách yêu thương như chính Ngài đã yêu thương chúng ta. Tình yêu là nguồn mạch duy nhất của cầu nguyện; ai kín múc nơi nguồn mạch này, người đó đạt tới chóp đỉnh của việc cầu nguyện:
“Lạy Thiên Chúa của con, con yêu mến Chúa, và niềm ao ước duy nhất của con là yêu mến Chúa cho đến hơi thở cuối cùng của đời con. Lạy Thiên Chúa vô cùng khả ái, con yêu mến Chúa. Con thà chết vì yêu mến Chúa, còn hơn là sống mà không yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con yêu mến Chúa, và ân sủng duy nhất mà con cầu xin là cho con được yêu mến Chúa muôn đời… Lạy Thiên Chúa của con, nếu miệng lưỡi con không thể lúc nào cũng lặp lại rằng con yêu mến Chúa, con muốn rằng tim con luôn lặp lại lời đó với Chúa theo từng nhịp thở của con”. [Thánh Gioan Maria Viannê, Oratio, apud B. Nodet, Le Curé d’Ars, Sa penséeson coeur (Le Puy 1966) 45]