GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN NĂM A
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)

WHĐ (20.10.2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.


Số 1897-1917: Tham gia vào lãnh vực xã hội

Số 2238-2244: Các bổn phận của công dân. 5

Bài Ðọc I: Is 45, 1. 4-6. 7

Bài Ðọc II: 1 Tx 1, 1-5b. 8

Phúc Âm: Mt 22, 15-21


Số 1897-1917: Tham gia vào lãnh vực xã hội

1897. “Xã hội loài người sẽ không thể được tổ chức tốt, cũng không thể thịnh vượng, nếu không có những người, được trao quyền bính hợp pháp, để gìn giữ các cơ chế, và làm mọi điều cần thiết để tích cực bảo trợ cho lợi ích của mọi phần tử”[1]. Được gọi là “quyền bính”, là tư cách nhờ đó những cá vị hay những cơ chế đưa ra những luật lệ và lệnh truyền cho người ta, và mong đợi người ta tuân phục.

1898. Mọi cộng đồng nhân loại đều cần có một quyền bính để quản trị nó[2]. Quyền bính này đặt nền tảng trên bản tính nhân loại. Quyền bính là cần thiết cho sự thống nhất của cộng đồng dân sự. Nhiệm vụ của nó cốt tại việc bảo đảm tối đa cho công ích của xã hội.

1899. Quyền bính, theo trật tự luân lý đòi hỏi, phát xuất từ Thiên Chúa: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại Ngài, sẽ chuốc lấy án phạt ” (Rm 13,1-2)[3].

1900. Bổn phận vâng phục đòi buộc mọi người phải tôn trọng quyền bính cho xứng hợp; và đối với những người đang thực thi nhiệm vụ, phải tôn trọng và tùy công trạng của ho mà tỏ lòng biết ơn và quý mến.

Trong tác phẩm của thánh Giáo Hoàng Clêmentê thành Rôma, có một lời kinh cổ xưa nhất cầu cho chính quyền[4]:

“Lạy Chúa, xin ban cho họ sức khỏe, bình an, hòa thuận và bền vững, để họ thực thi đúng đắn quyền hành Chúa đã trao cho họ. Lạy Chúa là Chủ tể, là Vua trời vĩnh cửu, chính Chúa ban cho con cái loài người vinh quang, danh dự và quyền bính trên mọi vật trần thế. Lạy Chúa, xin hướng dẫn kế hoạch của họ theo điều gì là tốt, là đẹp trước mặt Chúa, để khi thi hành một cách đạo đức nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho, trong an bình và quảng đại, họ nhận được ơn Chúa phù hộ”[5].

1901. Một khi quyền bính thuộc về trật tự do Thiên Chúa ấn định, thì “việc xác định thể chế và việc chỉ định những người điều hành, phải được dành cho ý muốn tự do của các công dân”[6].

Sự khác nhau của các thể chế chính trị có thể được chấp nhận về mặt luân lý, miễn là các thể chế này phục vụ lợi ích chính đáng của cộng đồng đã thừa nhận chúng. Các thể chế có bản chất trái ngược với luật tự nhiên, với trật tự công cộng và với các quyền căn bản của con người, thì không thể đem lại công ích cho những quốc gia đang bị áp đặt phải theo những thể chế đó.

1902. Quyền bính không rút ra tính hợp pháp luân lý tự chính mình. Họ không được xử sự cách chuyên chế, nhưng phải hành động vì công ích với tư cách là “một sức mạnh luân lý đặt nền tảng trên sự tự do và ý thức trách nhiệm”[7]:

“Luật pháp nhân loại chỉ có tính cách là luật khi phù hợp với lẽ phải: và theo đó, rõ ràng là nó xuất phát từ Lề luật vĩnh cửu; khi xa lìa lẽ phải, nó được gọi là một luật bất công: nó không còn có tính cách là luật, nhưng đúng hơn, nó mang tính cách bạo lực”[8].

1903. Quyền bính chỉ được thực thi một cách hợp pháp khi nó mưu cầu công ích của tập thể liên hệ, và dùng những phương tiện được phép về mặt luân lý để đạt được công ích đó. Nếu các nhà lãnh đạo đưa ra những luật bất công hay sử dụng những biện pháp trái luân lý, thì những mệnh lệnh đó không thể bắt buộc lương tâm. “Trong trường hợp này, quyền bính không còn hiệu lực, và trở thành một lạm dụng đáng xấu hổ”[9].

1904. “Vì vậy, tốt hơn là, mọi quyền hành phải được quân bình với những quyền hành khác và những thẩm quyền khác, để gìn giữ những giới hạn của nó. Đó là nguyên tắc ‘Nhà Nước pháp chế’, trong đó luật pháp là tối thượng, chứ không phải ý muốn độc đoán của một số người”[10].

CÔNG ÍCH (BONUM COMMUNE)

1905. Theo bản tính xã hội của con người, lợi ích cá nhân tất nhiên được liên kết với công ích. Công ích chỉ có thể được định nghĩa trong tương quan với nhân vị:

“Các bạn đừng sống cô lập hay khép kín nơi mình, như thể các bạn đã được công chính hóa rồi, nhưng hãy hợp lại nên một để cùng tìm kiếm điều hữu ích cho mọi người”[11].

1906. Phải hiểu công ích là “toàn thể những điều kiện của đời sống xã hội giúp cả những tập thể, cả những phần tử riêng rẽ, đạt tới sự hoàn hảo riêng của mình một cách đầy đủ và dễ dàng hơn”[12]. Công ích liên quan đến đời sống của mọi người. Nó đòi hỏi mỗi người phải khôn ngoan, nhất là những ai đang cầm quyền. Công ích gồm ba yếu tố căn bản:

1907. Trước hết, công ích giả thiết phải tôn trọng cá vị theo đúng nghĩa. Vì công ích, các nhà cầm quyền phải tôn trọng các quyền căn bản và bất khả nhượng của nhân vị. Xã hội phải để cho mỗi thành viên thực hiện ơn gọi của mình. Đặc biệt, công ích nằm trong những điều kiện để thực thi các sự tự do tự nhiên, các sự tự do đó là cần thiết để ơn gọi nhân linh được phát triển: như quyền “hành động theo quy tắc ngay thẳng của lương tâm mình, quyền bảo vệ đời tư và quyền tự do chính đáng, cả trong vấn đề tôn giáo”[13].

1908. Thứ hai, công ích đòi hỏi sự thịnh vượng xã hội sự phát triển của chính tập thể. Sự phát triển là tóm kết của tất cả mọi trách nhiệm xã hội. Vì công ích, quyền bính có nhiệm vụ phân xử giữa các quyền lợi riêng tư khác nhau. Nhưng quyền bính phải giúp mỗi người có được những gì cần thiết để có được một cuộc sống thật sự nhân bản: lương thực, áo quần, sức khỏe, việc làm, giáo dục và văn hóa, được thông tin đầy đủ, quyền xây dựng gia đình[14], v.v....

1909. Cuối cùng, công ích bao hàm hòa bình, nghĩa là, sự bền vững và sự an ninh của một trật tự chính đáng. Vì vậy, công ích giả thiết rằng quyền bính, bằng những phương tiện trung thực, phải bảo đảm an ninh cho xã hội và cho các thành viên của xã hội. Công ích thiết lập quyền tự vệ chính đáng của cá vị và tập thể.

1910. Nếu mỗi cộng đồng nhân loại đều có một công ích cho phép mình nhận biết mình theo đúng nghĩa, thì người ta thấy sự hoàn thành đầy đủ nhất của một công ích như vậy trong cộng đồng chính trị. Nhà Nước có nhiệm vụ bảo vệ và thăng tiến công ích của xã hội dân sự, của các công dân và các tổ chức trung gian.

1911. Những lệ thuộc giữa con người với nhau trở nên chặt chẽ hơn. Những lệ thuộc đó dần dần được mở rộng khắp thế giới. Sự hợp nhất của gia đình nhân loại, khi quy tụ những thành viên có cùng một phẩm giá theo bản tính, đòi hỏi có một công ích phổ quát. Công ích này đòi sự tổ chức của cộng đồng các quốc gia, “có khả năng đáp ứng những nhu cầu khác nhau của con người trong các lãnh vực của đời sống xã hội như thực phẩm, sức khỏe, giáo dục..., cũng như trong một số hoàn cảnh đặc biệt có thể xảy ra nơi này nơi khác, … như lam nhẹ bớt những khốn khổ của những người tị nạn rải rác khắp thế giới, hoặc giúp đỡ cho những người di cư và gia đình họ”[15].

1912. Công ích luôn hướng tới việc thăng tiến con người: “Trật tự của các sự việc phải lệ thuộc trật tự của các cá vị chứ không ngược lại”[16]. Trật tự này được đặt nền trong chân lý, được xây dựng trên công bằng, được có sự sống bởi tình yêu.

TRÁCH NHIỆM VÀ SỰ THAM GIA (RESPONSABILITAS ET PARTICIPATIO)

1913. Tham gia là sự dấn thân tự nguyện và quảng đại của cá vị vào những giao dịch xã hội. Cần thiết là, tất cả mọi người phải tham gia vào việc mưu cầu công ích, mỗi người theo địa vị và vai trò mình đảm nhận. Bổn phận này gắn liền với phẩm giá của nhân vị.

1914. Trước hết, sự tham gia được thể hiện bằng việc đảm nhận nhiệm vụ trong các phần việc thuộc trách nhiệm cá vị: khi quan tâm chăm sóc gia đình mình, khi làm việc của mình một cách có lương tâm, là con người tham gia vào công ích của những người khác và của xã hội[17].

1915. Các công dân phải tích cực tham gia càng nhiều càng tốt vào đời sống cộng đồng. Cách tham gia có thể khác nhau từ nước này đến nước khác, hoặc từ nền văn hoá này đến nền văn hoá khác. “Phải khen ngợi đường lối hành động của những quốc gia đang để cho các công dân được tham gia tối đa vào việc nước trong sự tự do đích thực”[18].

1916. Cũng như mọi bổn phận đạo đức, sự tham gia của mọi người trong việc hoạt động cho công ích, bao hàm sự hối cải không ngừng được canh tân của các thành viên của xã hội. Phải kết án nghiêm khắc sự gian lận và những mánh lới khác mà một số người dùng để trốn tránh các đòi buộc của luật pháp và các quy định của bổn phận xã hội, vì chúng không thể đi đôi với những đòi hỏi của đức công bằng. Phải quan tâm phát triển những cơ chế giúp cải thiện các điều kiện của đời sống con người[19].

1917. Những người đang thực thi nhiệm vụ của quyền bính có bổn phận khẳng định những giá trị đem lại sự tín nhiệm nơi các thành viên của tập thể, và khuyến khích họ tham gia phục vụ đồng loại của mình. Sự tham gia bắt đầu từ việc giáo dục và văn hóa. “Chúng ta có lý do chính đáng để nghĩ rằng: tương lai nhân loại nằm trong tay những người có khả năng trao cho các thế hệ đến sau những lý do để sống và để hy vọng”[20].


Số 2238-2244: Các bổn phận của công dân

2238. Những người phục tùng quyền bính phải coi cấp trên của mình như những người đại diện Thiên Chúa, Đấng đã đặt họ làm thừa tác viên phân phát các hồng ân của Ngài[21]: “Vì Chúa, anh em hãy tuân phục mọi thể chế do loài người đặt ra…. Hãy hành động như những người tự do, không phải như những người lấy sự tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa” (1 Pr 2,13.16). Sự cộng tác trung thành của những người phục tùng quyền bính bao hàm quyền, đôi khi là bổn phận, phải lên tiếng phê phán cách công bằng những gì họ coi là có hại cho phẩm giá của các nhân vị và cho công ích.

2239. Bổn phận của các công dân là cộng tác với chính quyền dân sự để mưu ích cho xã hội trong tinh thần tôn trọng chân lý, công bằng, tình liên đới và sự tự do. Lòng yêu mến và sự phục vụ Tổ quốc phát xuất từ bổn phận của sự biết ơn và theo trật tự của đức mến. Việc tùng phục quyền bính hợp pháp và sự phục vụ công ích đòi hỏi các công dân thực thi nhiệm vụ của mình trong đời sống của cộng đồng chính trị.

2240. Việc tùng phục quyền bính và tinh thần đồng trách nhiệm đối với công ích đòi hỏi các công dân, về mặt luân lý, phải đóng thuế, thực thi quyền bầu cử và bảo vệ quê hương:

“Anh em nợ ai cái gì, hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính” (Rm 13,7).

Các Kitô hữu “cư ngụ trên quê hương riêng của mình, nhưng như những ngoại kiều; họ có chung mọi sự với những người khác, như các công dân, và chịu đựng mọi sự như những lữ khách.... Họ tuân theo luật pháp thiết định nhưng cách sống của họ vượt trên luật pháp.... Thiên Chúa đã dành cho họ một địa vị cao quý đến độ họ không bỏ đi được”[22].

Thánh Tông Đồ cũng khuyến dụ chúng ta phải cầu nguyện và tạ ơn Chúa cho các vua và tất cả những người thực thi quyền bính, “để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh” (1 Tm 2,2).

2241. Những quốc gia giàu hơn buộc phải đón nhận, bao nhiêu có thể, những người nước ngoài đến tìm kiếm an ninh và sinh kế mà họ không có được nơi chính quê hương họ. Công quyền phải quan tâm tôn trọng quyền tự nhiên là luật đặt người khách dưới sự che chở của những ai đón nhận họ.

Vì công ích, chính quyền có thể quy định một số điều kiện pháp lý cho quyền nhập cư, nhất là đòi hỏi các người di cư phải tôn trọng các bổn phận đối với quốc gia đón nhận họ. Người nhập cư buộc phải tôn trọng, với lòng biết ơn, di sản vật chất và tinh thần của đất nước đón nhận họ, tuân thủ luật pháp và chia sẻ các nhiệm vụ trong nước đó.

2242. Người công dân bị buộc theo lương tâm, không được tuân theo những chỉ thị của chính quyền dân sự, khi những mệnh lệnh đó đi ngược lại các đòi hỏi trong lãnh vực luân lý, các quyền lợi căn bản của con người hoặc các giáo huấn của Tin Mừng. Sự khước từ vâng phục chính quyền dân sự, khi những đòi hỏi của chính quyền dân sự đi ngược lại những đòi hỏi của lương tâm ngay thẳng, được biện minh bằng việc phải phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. “Của Cêsar, trả về Cêsar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21). “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29):

“Khi công quyền vượt quá quyền hạn của mình mà đàn áp các công dân, thì chính các công dân đừng từ chối những gì công ích đòi hỏi cách khách quan. Họ được phép bảo vệ các quyền lợi của mình và của đồng bào mình, chống lại sự lạm dụng của quyền bính này, với sự tôn trọng các giới hạn, mà Luật tự nhiên và Luật Tin Mừng đã vạch ra”[23].

2243. Hành động dùng vũ khí chống lại sự áp bức của chính quyền là không hợp pháp, trừ khi đồng thời hội đủ các điều kiện sau đây:

1) Trong trường hợp chắc chắn các quyền lợi căn bản bị vi phạm một cách nghiêm trọng và kéo dài;

2) Sau khi đã dùng hết mọi phương cách khác;

3) Không gây ra những xáo trộn tệ hại hơn;

4) Có đủ cơ sở để hy vọng thành công tốt đẹp.

5) Không thể tiên liệu hợp lý được những giải pháp tốt hơn.

Cộng đồng chính trị và Hội Thánh

2244. Mọi thể chế đều, ít là cách mặc nhiên, được cảm hứng bởi một tầm nhìn (visio) nào đó về con người và về vận mệnh của con người, từ đó, thể chế rút ra điểm quy chiếu cho các phán đoán của mình, bậc thang các giá trị và quy tắc hành động của mình. Đa số các xã hội xây dựng thể chế của mình dựa trên một sự ưu việt nào đó của con người trên các sự vật. Chỉ có tôn giáo được Thiên Chúa mạc khải, mới nhận biết cách rõ ràng rằng nguồn gốc và vận mệnh của con người ở nơi Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá và Cứu Chuộc. Hội Thánh mời gọi các chính quyền quy chiếu các phán đoán và quyết định của mình theo sự linh hứng của chân lý về Thiên Chúa và về con người.

Các xã hội không biết đến hay khước từ sự linh hứng này, nhân danh sự độc lập của mình đối với Thiên Chúa, đều đi tới chỗ tìm nơi chính mình hay vay mượn ở một ý thức hệ nào đó những điểm quy chiếu và vận mệnh của mình và, vì không chấp nhận cho người ta bảo vệ một tiêu chuẩn khách quan về điều tốt điều xấu, các xã hội ấy tự cho mình một quyền lực độc tài, một cách công khai hoặc ngấm ngầm, đối với con người và vận mệnh con người, như lịch sử đã cho thấy[24].


Bài Ðọc I: Is 45, 1. 4-6

"Ta đã cầm tay hữu của Cyrô để bắt các dân suy phục trước mặt nó".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán cùng Cyrô, kẻ xức dầu của Chúa mà Ta đã cầm tay hữu nó, để bắt các dân suy phục trước mặt nó, bắt các vua quay lưng lại, mở các cửa trước mặt nó, và các cửa không được đóng lại:

Nhân vì Giacóp tôi tớ Ta, và Israel kẻ Ta kén chọn, Ta đã gọi đích danh ngươi: Ta đã kêu gọi ngươi khi ngươi không nhận biết Ta. Ta là Chúa, và chẳng còn chúa nào khác: ngoài Ta ra, không có Thiên Chúa nào nữa. Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi không nhận biết Ta, để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không có ai khác: Ta là Chúa, và chẳng có chúa nào khác.

Ðó là lời Chúa.


Ðáp Ca: Tv 95, 1 và 3. 4-5. 7-8. 9-10a và c

Ðáp: Hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang (c. 7b).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.

Ðáp: Hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang (c. 7b).

2) Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen, Người khả uý hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh.

Ðáp: Hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang (c. 7b).

3) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà Chúa.

Ðáp: Hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang (c. 7b).

4) Mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.

Ðáp: Hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang (c. 7b).


Bài Ðọc II: 1 Tx 1, 1-5b

"Tôi hằng nhớ đến đức tin, đức cậy và đức mến của anh em".

Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Phaolô, Silvanô và Timôthêu kính gửi giáo đoàn thành Thêxalônica trong Thiên Chúa Cha và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an.

Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em, trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng; tôi nhớ đến sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta. Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần và với lòng xác tín.

Ðó là lời Chúa.


Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.


Phúc Âm: Mt 22, 15-21

"Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho ông Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, các người biệt phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?" Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói: "Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế". Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: "Hình tượng và danh hiệu này là của ai?" Họ thưa rằng: "Của Cêsarê". Bấy giờ Người bảo họ rằng: "Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".

Ðó là lời Chúa.




[1] ĐGH Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in terris, 46: AAS 55 (1963) 269.

[2] X. ĐGH Lêô XIII, Thông điệp Diuturnum illud: Leonis XIII Acta 2, 271; Id., Thông điệp Immortale Dei: Leonis XIII Acta 5, 120.

[3] X. 1 Pr 2,13-17.

[4] X. 1 Tm 2,1-2.

[5] Thánh Clêmentê Rôma, Epistula ad Corinthios, 61, 1-2: SC 167, 198-200 (Funk 1, 178-180).

[6] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 74: AAS 58 (1966) 1096.

[7] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 74: AAS 58 (1966) 1096.

[8] Thánh Tôma Aqunô, Summa theologiae, I-II, q. 93, a. 3, ad. 2: Ed. Leon. 7, 164.

[9] ĐGH Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in terris, 51: AAS 55 (1963) 271.

[10] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus, 44: AAS 83 (1991) 848.

[11] Epistula Pseudo Barnabae, 4. 10: SC 172, 100-102 (Funk 1, 48).

[12] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 26: AAS 58 (1966) 1046; x. Ibid., 74: AAS 58 (1966) 1096.

[13] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 26: AAS 58 (1966) 1046.

[14] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 26: AAS 58 (1966) 1046.

[15] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 84: AAS 58 (1966) 1107.

[16] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 26: AAS 58 (1966) 1047.

[17] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus, 43: AAS 83 (1991) 847.

[18] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 31: AAS 58 (1966) 1050.

[19] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 30: AAS 58 (1966) 1049.

[20] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 31: AAS 58 (1966) 1050.

[21] X. Rm 13,1-2.

[22] Epistula ad Diognetum, 5, 5; 5, 10; 6, 10: SC 33 62-66 (Funk 1, 398-400).

[23] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 74: AAS 58 (1966) 1096.

[24] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus, 45-46: AAS 83 (1991) 849-851.