GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN NĂM A
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)

WHĐ (22.07.2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.


Số 543-550: Nước Thiên Chúa

Số 309-314: Sự tốt lành của Thiên Chúa và cớ vấp phạm của sự dữ. 4

Số 825, 827: Cỏ lùng và hạt giống Tin Mừng trong mọi người và trong Hội Thánh. 6

Số 1425-1429: Cần hối cải liên tục. 6

Số 2630: Lời cầu xin được cất lên một cách sâu sắc nhờ bởi Chúa Thánh Thần lên tiếng sâu xa. 8

Bài Ðọc I: Kn 12, 13. 16-19. 8

Bài Ðọc II: Rm 8, 26-27. 9

Phúc Âm: Mt 13, 24-30 {hoặc 24-43}


Số 543-550: Nước Thiên Chúa

Chúa Giêsu loan báo Nước Thiên Chúa

543. Mọi người đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa. Nước này của Đấng Messia trước tiên được loan báo cho con cái Israel[1], nhưng hướng đến việc đón nhận mọi người thuộc mọi dân tộc[2]. Để vào Nước Thiên Chúa, cần phải đón nhận lời của Chúa Giêsu:

“Lời Chúa được ví như hạt giống gieo trong ruộng: ai nghe Lời Chúa với đức tin và gia nhập đàn chiên nhỏ của Đức Kitô, thì đã đón nhận chính Nước Người; rồi do sức của nó, hạt giống nẩy mầm và lớn lên cho tới mùa gặt”[3].

544. Nước Thiên Chúa thuộc về những người nghèo hèn và bé mọn, nghĩa là, những người đón nhận Nước ấy với tâm hồn khiêm tốn. Đức Kitô được sai đến để “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,l8)[4]. Người tuyên bố rằng họ có phúc, “vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3); Chúa Cha đã thương mạc khải cho những kẻ “bé mọn” này điều Người giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết[5]. Chúa Giêsu, từ máng cỏ cho tới thập giá, đã chia sẻ kiếp sống của những kẻ nghèo hèn; Người đã từng chịu đói[6], chịu khát[7], chịu thiếu thốn[8]. Hơn thế nữa, Người tự đồng hóa mình với mọi hạng người nghèo hèn và coi lòng yêu thương tích cực đối với họ là điều kiện để được vào Nước của Người[9].

545. Chúa Giêsu mời những kẻ tội lỗi vào bàn tiệc Nước Thiên Chúa: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17)[10]. Người mời gọi họ hối cải, vì không hối cải thì không thể vào Nước Người, nhưng Người cũng dùng lời nói và hành động cho họ thấy lòng thương xót vô biên của Cha Người đối với họ[11], và “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc l5,7). Bằng chứng cao cả nhất của tình yêu này, là việc Người dâng hiến mạng sống mình “cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).

546. Chúa Giêsu kêu gọi người ta vào Nước Trời, bằng cách dùng các dụ ngôn, là nét đặc trưng trong cách giảng dạy của Người[12]. Qua các dụ ngôn, Người mời vào dự tiệc Nước Trời[13], nhưng Người cũng đòi phải có một lựa chọn triệt để: để đạt được Nước Trời, cần phải cho đi mọi sự[14]; lời nói suông không đủ, cần phải có việc làm[15]. Các dụ ngôn như những tấm gương đối với con người: họ đón nhận Lời Chúa chỉ như mảnh đất khô khan hay mảnh đất mau mỡ?[16] Họ làm gì với những nén bạc đã nhận?[17] Chúa Giêsu và sự hiện diện của Nước Trời trong trần gian, một cách kín đáo, nằm ở trung tâm của các dụ ngôn. Cần phải tiến vào Nước Trời, nghĩa là, phải trở nên môn đệ Đức Kitô, mới “hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời” (Mt 13,11). Còn đối với những kẻ “ở ngoài” (Mc 4,11), mọi sự đều bí ẩn[18].

Các dấu chỉ Nước Thiên Chúa

547. Kèm theo những lời Người nói, Chúa Giêsu đã làm “những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ” (Cv 2,22) để cho thấy Nước Trời đang hiện diện nơi Người. Chúng chứng tỏ Chúa Giêsu chính là Đấng Messia đã được tiên báo[19].

548. Các dấu lạ do Chúa Giêsu thực hiện minh chứng Chúa Cha đã sai Người đến[20]. Chúng mời gọi ta hãy tin vào Người[21]. Những ai đến với Người bằng đức tin, đức tin cho họ được điều họ thỉnh cầu[22]. Lúc đó, các phép lạ củng cố lòng tin vào Người, Đấng thực hiện các công việc của Cha Người: chúng chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa[23]. Nhưng chúng cũng có thể là cớ vấp ngã[24]. Quả vậy, chúng không nhằm thỏa mãn trí tò mò, và lòng ưa chuộng ma thuật. Bất chấp những phép lạ hết sức tỏ tường của Người, Chúa Giêsu vẫn bị một số người loại bỏ[25], thậm chí Người còn bị tố cáo là hành động nhờ ma quỷ[26].

549. Khi giải thoát một số người khỏi những sự dữ đời này như đói khát[27], bất công[28], bệnh tật và cái chết[29], Chúa Giêsu đã thực hiện các dấu chỉ Người là Đấng Messia. Tuy nhiên, Người không đến để loại trừ mọi điều xấu khỏi trần gian này[30], nhưng để giải thoát con người khỏi ách nô lệ nặng nề nhất, là ách nô lệ của tội lỗi[31], thứ ách nô lệ này ngăn cản họ trong ơn gọi của họ là làm con cái Thiên Chúa, và gây ra mọi hình thức nô lệ giữa con người.

550. Khi Nước Thiên Chúa trị đến là lúc nước Satan bị sụp đổ[32]: “Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt l2,28). Những việc trừ quỷ do Chúa Giêsu thực hiện, giải phóng người ta khỏi quyền thống trị của ma quỷ[33]. Những việc ấy báo trước sự chiến thắng cao cả của Chúa Giêsu trên “thủ lãnh thế gian này”[34]. Nhờ thập giá của Đức Kitô mà Nước Thiên Chúa sẽ được thiết lập vĩnh viễn: “Thiên Chúa đã cai trị từ cây gỗ”[35].


Số 309-314: Sự tốt lành của Thiên Chúa và cớ vấp phạm của sự dữ

Thiên Chúa quan phòng và cớ vấp phạm của sự dữ

309. Nếu Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng nên trần gian có trật tự và tốt đẹp, chăm sóc tất cả các thụ tạo của Ngài, thì tại sao lại có sự dữ? Trước câu hỏi vừa khẩn thiết vừa không thể tránh được, vừa bi thảm vừa bí nhiệm này, không câu trả lời vội vàng nào là đầy đủ được. Chỉ có toàn bộ đức tin Kitô giáo mới là câu trả lời cho câu hỏi này: sự tốt đẹp của công trình tạo dựng, thảm kịch tội lỗi, tình yêu kiên nhẫn của Thiên Chúa, Đấng đã đi bước trước đến với con người qua các Giao Ước của Ngài, qua việc Con Ngài Nhập Thể đem lại ơn cứu chuộc, qua việc ban Chúa Thánh Thần, qua việc quy tụ Hội Thánh, qua sức mạnh của các bí tích, qua việc kêu gọi tới cuộc sống vĩnh phúc, mà ngay từ đầu các thụ tạo có tự do được mời gọi đón nhận, nhưng cũng ngay từ đầu, do một huyền nhiệm khủng khiếp, họ có thể từ chối! Không có khía cạnh nào của sứ điệp Kitô giáo mà lại không phải là một phần câu trả lời cho câu hỏi về sự dữ.

310. Nhưng tại sao Thiên Chúa lại không tạo dựng một trần gian thật hoàn hảo đến nỗi không thể có một sự dữ nào trong đó? Theo quyền năng vô biên của Ngài, Thiên Chúa luôn có thể tạo dựng được một thế giới tốt hơn[36]. Nhưng trong sự khôn ngoan và lòng nhân hậu vô biên của Ngài, Thiên Chúa đã tự ý muốn dựng nên một trần gian “trong tình trạng lên đường” hương về sự hoàn hảo cuối cùng của nó. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, quá trình này gồm có việc những vật này xuất hiện và những vật khác biến đi, có cái hoàn hảo hơn và có cái kém hơn, có xây đắp và cũng có tàn phá trong thiên nhiên. Như vậy, cùng với sự tốt lành thể lý, cũng có sự dữ thể lý, bao lâu công trình tạo dựng chưa đạt tới mức hoàn hảo của nó[37].

311. Các Thiên thần và các con người, là những thụ tạo thông minh và tự do, phải tiến về mục đích tối hậu của mình, nhờ sự lựa chọn tự do và yêu mến điều gì là ưu tiên. Vì vậy, họ có thể đi sai đường. Trong thực tế, họ đã phạm tội. Như vậy, sự dữ luân lý, vô cùng nghiêm trọng hơn so với sự dữ thể lý, đã xâm nhập vào trần gian. Thiên Chúa không bao giờ, bằng bất cứ cách nào, một cách trực tiếp hay gián tiếp, là nguyên nhân của sự dữ luân lý[38]. Tuy nhiên Ngài cho phép điều đó, vì tôn trọng sự tự do của thụ tạo của Ngài, và một cách bí nhiệm, Ngài biết từ sự dữ dẫn đưa tới điều thiện hảo:

“Quả thật, Thiên Chúa toàn năng tốt lành vô cùng, nên không bao giờ cho phép một sự dữ nào xảy ra trong các công trình của Ngài, nếu Ngài không toàn năng và tốt lành đến độ Ngài có thể hành động cách tốt đẹp từ sự dữ”[39].

312. Như vậy, với thời gian, chúng ta có thể nhận ra rằng: Thiên Chúa, trong sự quan phòng toàn năng của Ngài, có thể dẫn đưa tới điều thiện hảo từ những hậu quả của sự dữ, cho dù là sự dữ luân lý, do các thụ tạo của Ngài gây nên: “Không phải các anh đã gửi tôi đến đây, nhưng là Thiên Chúa…. Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt để… cứu sống một dân đông đảo” (St 45,8; 50,20)[40]. Từ sự dữ luân lý lớn lao nhất người ta từng phạm, là việc khước từ và giết chết Con Thiên Chúa, sự dữ đó là do tội lỗi của tất cả mọi người gây nên, Thiên Chúa đã dẫn đưa tới điều thiện hảo cao trọng nhất, nhờ ân sủng chan chứa gấp bội của Ngài[41]: Đức Kitô được tôn vinh và chúng ta được cứu chuộc. Tuy nhiên không vì vậy mà sự dữ trở thành điều thiện hảo.

313. “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài” (Rm 8,28). Chứng từ của các Thánh không ngừng củng cố chân lý này.

Thánh Catarina Siêna nói với “những người bất bình và nổi dậy chống lại những gì xảy đến cho họ”: “Mọi sự được ban tặng bởi tình yêu và được quan phòng cho phần rỗi của con người, chứ không vì bất cứ mục đích nào khác”[42].

Ngay trước khi chịu tử đạo, thánh Tôma More an ủi con gái mình: “Không gì có thể xảy ra mà không do Thiên Chúa muốn. Mà bất cứ điều gì Ngài muốn, thì dù đối với chúng ta có vẻ là sự dữ, nhưng thật ra đó là điều thiện hảo nhất”[43].

Và bà Giuliana Norwich viết: “Nhờ ơn Chúa, tôi đã được dạy phải vững vàng gắn bó với đức tin… và tin một cách mạnh mẽ rằng mọi sự sẽ tốt đẹp…. Chính bạn sẽ thấy là mọi sự sẽ tốt đẹp”[44].

314. Chúng ta tin vững vàng rằng Thiên Chúa là Chúa của trần gian và của lịch sử. Nhưng thường chúng ta không biết được các đường lối của sự quan phòng của Ngài. Chỉ khi nào tới chung cuộc, lúc mà sự hiểu biết phiến diện của chúng ta kết thúc, khi chúng ta thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12), chúng ta sẽ hiểu biết một cách trọn vẹn các đường lối này, mà qua đó, kể cả nhờ những thảm kịch của sự dữ và tội lỗi, Thiên Chúa dẫn đưa công trình tạo dựng của Ngài tới sự nghỉ ngơi của ngày Sabat[45] chung cuộc, vì ngày đó mà Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất.


Số 825, 827: Cỏ lùng và hạt giống Tin Mừng trong mọi người và trong Hội Thánh

825. “Hội Thánh nơi trần thế được ghi dấu đặc biệt bằng sự thánh thiện đích thực, tuy chưa trọn hảo”[46]. Các chi thể của Hội Thánh còn phải đạt tới sự thánh thiện trọn hảo: “Được ban cho những phương tiện cứu độ dồi dào và cao cả như thế, tất cả các Kitô hữu, dù trong hoàn cảnh và bậc sống nào, mỗi người trong con đường của mình, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự thánh thiện trọn hảo như Chúa Cha là Đấng trọn hảo”[47].

827. “Trong khi Đức Kitô thật sự là Đấng ‘thánh thiện, vô tội, tinh tuyền’, không hề biết đến tội, nhưng đến để đền các tội riêng của dân, thì, vì mang trong lòng mình những kẻ tội lỗi, vừa thánh thiện vừa phải luôn được thanh tẩy, Hội Thánh luôn tiếp tục việc sám hối và canh tân”[48]. Tất cả các chi thể của Hội Thánh, kể cả các thừa tác viên, đều phải nhận mình là kẻ tội lỗi[49]. Trong tất cả mọi người, cỏ lùng của tội lỗi còn lẫn lộn với lúa tốt của Tin Mừng cho đến tận thế[50]. Vì vậy, Hội Thánh quy tụ những người tội lỗi đã được lãnh nhận ơn cứu độ của Đức Kitô, nhưng còn đang trên đường thánh hóa:

Vì vậy, Hội Thánh “thánh thiện, dù mang trong lòng mình những người tội lỗi; bởi vì Hội Thánh không có sự sống nào khác ngoài sự sống của ân sủng; quả thật, nếu các chi thể của Hội Thánh được nuôi dưỡng bằng sự sống này, thì họ được thánh hoá, nếu họ tách mình khỏi sư sống này, thì họ rơi vào tội lỗi và các xấu xa của tâm hồn, những điều đó ngăn cản không cho sự thánh thiện rạng ngời của Hội Thánh được lan toả. Vì vậy, Hội Thánh chịu đau khổ và thống hối vì những tội lỗi đó, tuy có quyền giải thoát các con cái mình khỏi tội lỗi nhờ Máu Đức Kitô và hồng ân của Chúa Thánh Thần”[51].


Số 1425-1429: Cần hối cải liên tục

Tại sao cần Bí tích Giao hoà sau khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội?

1425. “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta” (1 Cr 6,11). Phải ý thức sự cao cả của hồng ân Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trong các bí tích khai tâm Kitô giáo, thì mới hiểu được rằng tội lỗi là một điều đối nghịch lại với một người đã mặc lấy Đức Kitô[52]. Nhưng thánh Gioan Tông Đồ đã nói: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1,8). Chính Chúa cũng đã dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin tha tội cho chúng con” (Lc 11,4), và Người kết hợp việc chúng ta tha thứ cho nhau những xúc phạm lẫn nhau với ơn Thiên Chúa tha thứ các tội lỗi chúng ta.

1426. Việc hối cải trở về với Đức Kitô, việc tái sinh trong bí tích Rửa Tội, hồng ân của Chúa Thánh Thần, Mình và Máu Đức Kitô được lãnh nhận làm lương thực, làm cho chúng ta trở nên “tinh tuyền thánh thiện trước thánh nhan Thiên Chúa” (Ep 1,4), cũng như chính Hội Thánh, là Hiền Thê của Đức Kitô, cũng “thánh thiện và tinh tuyền” trước mặt Người (Ep 5,27). Tuy nhiên, sự sống mới được lãnh nhận trong cuộc khai tâm Kitô giáo không tiêu huỷ sự mỏng giòn và yếu đuối của bản tính con người, cũng như sự hướng chiều theo tội lỗi, mà truyền thống gọi là dục vọng (concupiscentia), vốn tồn tại nơi những người đã chịu Phép Rửa, để với sự trợ lực của ân sủng của Đức Kitô, họ vượt qua được những thử thách trong cuộc chiến đấu của đời sống Kitô hữu[53]. Đây là cuộc chiến đấu của sự hối cải nhằm đạt tới sự thánh thiện và đời sống vĩnh cửu mà Chúa không ngừng mời gọi chúng ta[54].

Sự hối cải của những người đã chịu phép rửa

1427. Chúa Giêsu kêu gọi hối cải. Lời kêu gọi này là một phần cốt yếu của việc loan báo Nước Thiên Chúa: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Trong việc rao giảng của Hội Thánh, lời kêu gọi này trước hết nhằm đến những người chưa biết Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Như vậy, bí tích Rửa Tội là vị trí đầu tiên và căn bản của việc hối cải. Chính nhờ tin vào Tin Mừng và nhờ bí tích Rửa Tội[55] mà người ta từ bỏ sự dữ và đạt được ơn cứu độ, nghĩa là được ơn tha thứ mọi tội lỗi và được hưởng hồng ân sự sống mới.

1428. Lời kêu gọi hối cải của Đức Kitô vẫn tiếp tục vang vọng trong đời sống các Kitô hữu. Cuộc hối cải thứ hai này là một nhiệm vụ liên tục của toàn thể Hội Thánh vì “mang trong lòng mình những tội nhân, vừa thánh thiện vừa luôn cần được thanh luyện, Hội Thánh phải không ngừng thống hối và canh tân”[56]. Nỗ lực hối cải này không chỉ là công việc của con người. Việc thống hối là hành động của một “tâm hồn tan nát”[57] được ân sủng lôi kéo và thúc đẩy[58], để đáp lại tình yêu thương xót của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước[59].

1429. Có thể lấy cuộc hối cải của thánh Phêrô, sau khi chối Thầy mình ba lần, làm bằng chứng cho điều đó. Cái nhìn của lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu khiến ông khóc lóc thống hối[60] và, sau khi Chúa sống lại, ông đã ba lần khẳng định tình yêu của ông đối với Người[61]. Cuộc hối cải thứ hai cũng mang chiều kích cộng đoàn. Điều này được thấy rõ trong lời kêu gọi của Chúa với toàn thể Hội Thánh: “Hãy hối cải!” (Kh 2,5.16).

Thánh Ambrôsiô nói về hai cuộc hối cải: “Hội Thánh có nước và nước mắt, nước của bí tích Rửa Tội, và nước mắt của bí tích Thống Hối”[62].


Số 2630: Lời cầu xin được cất lên một cách sâu sắc nhờ bởi Chúa Thánh Thần lên tiếng sâu xa

2630. Tân Ước hầu như không có những lời cầu nguyện than van thường thấy trong Cựu Ước. Từ nay trở đi, trong Đức Kitô phục sinh, lời cầu nguyện của Hội Thánh mang niềm hy vọng, cho dù hiện nay chúng ta vẫn đang trông chờ và mỗi ngày vẫn còn cần hối cải. Lời kinh cầu xin của Kitô giáo còn xuất phát từ một chiều sâu khác, từ chiều sâu được thánh Phaolô gọi là lời rên siết: tức là lời rên siết của thụ tạo “quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22); cũng là tiếng rên siết của chúng ta “còn trông đợi Thiên Chúa… cứu chuộc thân xác chúng ta nữa. Quả thế, chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong” (Rm 8,23-24); sau cùng là những “tiếng rên siết khôn tả” của chính Chúa Thánh Thần, Đấng “giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải” (Rm 8,26).


Bài Ðọc I: Kn 12, 13. 16-19

"Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn trở lại".

Trích sách Khôn Ngoan.

Ngoài Chúa, không có chúa nào khác chăm sóc mọi sự, ngõ hầu minh chứng rằng Chúa không đoán xét bất công. Vì chưng, sức mạnh của Chúa là nguồn gốc sự công minh, và vì Người là Chúa mọi sự, nên tỏ ra khoan dung với mọi người. Chúa chỉ tỏ sức mạnh Chúa ra khi có kẻ không tin vào uy quyền của Chúa, và triệt hạ kẻ kiêu căng không nhìn biết Người.

Vì là chủ sức mạnh, nên Chúa xét xử hiền lành, Chúa thống trị chúng ta với đầy lòng khoan dung: vì khi Chúa muốn, mọi quyền hành tuân lệnh Người. Khi hành động như thế, Người dạy dỗ dân Người rằng: Người công chính phải ăn ở nhân đạo, và Người làm cho con cái Người đầy hy vọng rằng: Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn sám hối.

Ðó là lời Chúa.


Ðáp Ca: Tv 85, 5-6. 9-10. 15-16a

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa nhân hậu và khoan dung (c. 5a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài.

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa nhân hậu và khoan dung (c. 5a).

2) Các dân tộc mà Chúa tạo thành, họ sẽ tới, lạy Chúa, họ sẽ thờ lạy Ngài, và họ sẽ ca tụng danh Ngài. Vì Ngài cao cả và làm những điều kỳ diệu; duy một mình Ngài là Thiên Chúa.

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa nhân hậu và khoan dung (c. 5a).

3) Nhưng lạy Chúa, Ngài là Thiên Chúa từ bi, nhân hậu, chậm bất bình, rất mực khoan dung và thủ tín. Xin đoái nhìn đến con và xót thương con. 

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa nhân hậu và khoan dung (c. 5a).


Bài Ðọc II: Rm 8, 26-27

"Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho xứng hợp, nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Ðấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.


Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.


Phúc Âm: Mt 13, 24-30 {hoặc 24-43}

"Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Ðầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: "Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có?" Ông đáp: "Người thù của ta đã làm như thế". Ðầy tớ nói với chủ: "Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ". Chủ nhà đáp: "Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: "Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta".

Người lại nói với họ dụ ngôn khác mà rằng: "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt đó bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".

Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".

Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn, Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian". Sau khi giải tán dân chúng, Người trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: "Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe". Người đáp rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".

Ðó là lời Chúa.




[1] X. Mt 10,5-7.

[2] X. Mt 8,11; 28,19.

[3] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 7.

[4] X. Lc 7,22.

[5] X. Mt 11,25.

[6] X. Mc 2,23-26; Mt 21,18.

[7] X. Ga 4,6-7; 19,28.

[8] X. Lc 9,58.

[9] X. Mt 25,31-46.

[10] X. 1 Tm 1,15.

[11] X. Lc 15,11-32.

[12] X. Mc 4,33-34.

[13] X. Mt 22,1-14.

[14] X. Mt 13,44-45.

[15] X. Mt 21,28-32.

[16] X. Mt 13,3-9.

[17] X. Mt 25,14-30.

[18] X. Mt 13,10-15.

[19] X. Lc 7,18-23.

[20] X. Ga 5,36; 10,25.

[21] X. Ga 10,38.

[22] X. Mc 5,25-34; 10,52.

[23] X. Ga 10,31-38.

[24] X. Mt 11,6.

[25] X. Ga 11,47-48.

[26] X. Mc 3,22.

[27] X. Ga 6,5-15.

[28] X. Lc 19,8.

[29] X. Mt 11,5.

[30] X. Lc 12,13-14; Ga 18,36.

[31] X. Ga 8,34-36.

[32] X. Mt 12,26.

[33] X. Lc 8,26-39.

[34] X. Ga 12,31.

[35] Vênantiô Fortunatô, Hymnus “Vexilla Regis”: MGH 1/4/1, 34 (PL 88, 96).

[36] X. Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, I, q. 25, a. 6: Ed. Leon. 4, 298-299.

[37] X. Thánh Tôma Aquinô, Summa contra gentiles, 3, 71: Ed. Leon. 14, 209-211.

[38] X. Thánh Augustinô, De libero arbitrio, 1, 1, 1: CCL 29, 211 (PL 32, 1221-1223); Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, I-II, q. 79, a. 1: Ed. Leon. 7, 76-77.

[39] Thánh Augustinô, Enchiridion de fide, spe et caritate, 3, 11: CCL 46, 53 (PL 40, 236).

[40] X. Tb 2,12-18 (bản Vulgata).

[41] X. Rm 5,20.

[42] Thánh Catarina Siêna, Il dialogo della Divina Provvidenza 138: Ed. G. Cavallini (Roma 1995) 441.

[43] Margarita Roper, Epistola ad Aliciam Alington (tháng Tám 1534): The Correspondence of Sir Thomas More, ed. E.F. Rogers (Princeton 1947) 531-532.

[44] Giuliana Norwich, Revelatio 13, 32: A Book of Showings to the Anchoress Julian of Norwich, ed. E. Colledge-J. Walsh, vol. 2 (Toronto 1978) 426 và 422.

[45] X. St 2,2.

[46] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.

[47] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.

[48] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12; x. Id., Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965) 92-94; Ibid., 6: AAS 57 (1965) 96-97.

[49] X. 1 Ga 1,8-10.

[50] X. Mt 13,24-30.

[51] ĐGH Phaolô VI, Sollemnis Professio fidei, 19: AAS 60 (1968) 440.

[52] X. Gl 3,27.

[53] X. CĐ Triđentinô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali, c. 5: DS 1515.

[54] X. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 16: DS 1545; CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 40: AAS 57 (1965) 44-45.

[55] X. Cv 2,38.

[56] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12.

[57] X. Tv 51,19.

[58] X. Ga 6,44; 12,32.

[59] X. 1 Ga 4,10.

[60] X. Lc 22,61-62.

[61] X. Ga 21,15-17.

[62] Thánh Ambrôsiô, Epistula extra collectionem, 1 [41], 12: CSEL 82/3, 152 (PL 16, 1116).