GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)
CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG NĂM B
WHĐ (02.12.2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện
hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng,
Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh
Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và
Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được
công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
Số 668-677, 769: cơn gian truân cuối cùng và sự trở
lại của Đức Kitô trong vinh quang
Đức Kitô đã hiển trị nhờ Hội Thánh…
668. “Đức Kitô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống
cũng như kẻ chết” (Rm 14,9). Việc Đức Kitô lên trời cho thấy nhân tính của Người
cũng được tham dự vào quyền năng và uy quyền của chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu
Kitô là Chúa: Người nắm mọi quyền bính trên trời dưới đất. Người “vượt trên mọi
quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được” vì Chúa Cha “đã đặt tất
cả dưới chân Người” (Ep 1,20-22). Đức Kitô là Chúa của tất cả vũ trụ[1] và của lịch sử. Nơi Người, lịch
sử của con người, kể cả toàn bộ công trình tạo dựng, tìm gặp được “nơi quy tụ”
của mình[2], tột đỉnh siêu việt của
mình.
669. Là Chúa, Đức Kitô cũng là Đầu Hội Thánh, Thân Thể của Người[3]. Được đưa lên trời và được
tôn vinh sau khi chu toàn sứ vụ, Đức Kitô vẫn hiện diện nơi trần thế trong Hội
Thánh của Người. Công trình cứu chuộc là nguồn mạch của quyền bính mà Đức Kitô
thực thi trong Hội Thánh bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần[4].
“Nước của Đức Kitô đã hiện diện một cách mầu nhiệm”[5]
trong Hội Thánh, là “hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Trời nơi trần thế”[6].
670. Khởi từ cuộc Thăng Thiên, kế hoạch của Thiên Chúa bước vào
giai đoạn hoàn thành. Chúng ta đang sống trong “giờ cuối cùng” (1 Ga 2,18)[7]. “Quả vậy, những thời đại cuối
cùng đã đến với chúng ta và sự canh tân trần gian đã được thiết lập một cách
không thể đảo ngược, và trong thời đại này sự canh tân đó đã được tiền dự một
cách hiện thực nào đó: thật vậy, Hội Thánh nơi trần gian được ghi dấu bằng sự
thánh thiện thật, tuy còn bất toàn”[8]. Nước Đức Kitô đã biểu lộ sự
hiện diện của mình nhờ những dấu chỉ kỳ diệu[9]
đi kèm theo việc loan báo Nước đó nhờ Hội Thánh[10].
... cho tới khi mọi sự quy phục Người
671. Tuy nhiên, Nước Đức Kitô, đang hiện diện trong Hội Thánh của
Người, chưa phải là tuyệt đối với “quyền năng và vinh quang” (Lc 21,27)[11] do việc Vua ngự đến trần
gian. Nước này còn bị các thế lực sự dữ tấn công[12],
mặc dù chúng đã bị đánh bại tận gốc rễ do cuộc Vượt Qua của Đức Kitô. Cho tới
khi mọi sự quy phục Người[13], “cho tới khi có trời mới đất
mới, nơi công lý ngự trị, Hội Thánh lữ hành, trong các bí tích và các định chế
của mình, vốn là những điều thuộc thời đại nay, vẫn mang hình dáng của thời đại
chóng qua này và chính Hội Thánh đang sống giữa các thụ tạo còn đang rên siết
và quằn quại như sắp sinh nở và mong đợi cuộc tỏ hiện của các con cái Thiên
Chúa”[14]. Vì vậy, các Kitô hữu cầu
nguyện, nhất là trong bí tích Thánh Thể[15],
để Đức Kitô mau lại đến[16], bằng cách thưa với Người:
“Lạy Chúa, xin ngự đến !” (Kh 22,20)[17].
672. Đức Kitô, trước cuộc Thăng Thiên của Người, đã khẳng định rằng
chưa đến giờ Người thiết lập Nước của Đấng Messia một cách vinh hiển mà Israel
mong đợi[18], Nước đó phải mang lại cho
mọi người, theo lời các tiên tri[19], một trật tự vĩnh viễn của
công lý, của tình yêu, và của hoà bình. Thời gian hiện tại, theo Chúa, là thời
gian của Thần Khí và của việc làm chứng[20],
nhưng cũng là thời gian được ghi dấu bằng nỗi khó khăn hiện tại[21] và bằng sự thử thách của sự
dữ[22], thời gian này không buông
tha Hội Thánh[23], và khởi đầu cuộc chiến của
những ngày sau cùng[24]. Đây là thời gian của sự
mong đợi và tỉnh thức[25].
Việc Ngự đến vinh hiển của Đức Kitô, niềm hy vọng của Israel
673. Sau cuộc Thăng Thiên, việc Ngự đến trong vinh quang của Đức
Kitô luôn gần kề[26], mặc dù chúng ta “không biết
thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1,7)[27].
Biến cố cánh chung này có thể xảy ra bất cứ lúc nào[28],
mặc dù chính biến cố đó cũng như cuộc thử thách cuối cùng phải xảy ra trước biến
cố đó, còn được “trì hoãn”[29].
674. Việc Ngự đến của Đấng Messia vinh hiển vào bất cứ lúc nào
trong lịch sử tùy thuộc[30] vào việc Người được nhận biết
bởi “toàn thể Israel”[31] mà một phần dân ấy còn cứng
lòng[32] “không tin” (Rm 11,20) vào
Chúa Giêsu. Thánh Phêrô nói với người Do Thái ở Giêrusalem sau lễ Ngũ Tuần:
“Anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Ngài xóa bỏ tội lỗi cho anh
em. Như vậy, thời kỳ an lạc mà Chúa ban cho anh em sẽ đến, khi Ngài sai Đấng
Kitô Ngài đã danh cho anh em, là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu còn phải được giữ lại
trên trời, cho đến thời phục hồi vạn vật, thời mà Thiên Chúa đã dùng miệng các
vị thánh ngôn sứ của Ngài mà loan báo tự ngàn xưa” (Cv 3,19-21). Thánh Phaolô
cũng nhắc lại điều đó: “Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được
hòa giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải
là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm 11,15). Việc gia nhập của đông đủ người
Do Thái[33] vào ơn cứu độ của Đấng
Messia, sau việc gia nhập đông đủ của các dân ngoại[34],
sẽ làm cho dân Chúa đạt “tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,13), trong
đó, “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28).
Cuộc thử thách cuối cùng của Hội Thánh
675. Trước cuộc Ngự đến của Đức Kitô, Hội Thánh phải trải qua một
cuộc thử thách cuối cùng, làm lung lạc đức tin của nhiều tín hữu[35]. Cuộc bách hại, luôn đi
theo Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian[36],
sẽ làm lộ rõ “mầu nhiệm sự dữ” dưới hình thức một sự đánh lừa về tôn giáo, có vẻ
như mang đến cho người ta một giải pháp về các vấn đề của họ với giá phải trả
là sự chối bỏ chân lý. Sự đánh lừa về tôn giáo ở mức cao nhất là của tên Phản
Kitô, nghĩa là, của một chủ nghĩa Messia giả hiệu, trong đó con người tự tôn
vinh chính mình thay vì tôn vinh Thiên Chúa và Đấng Messia của Ngài đã đến
trong xác phàm[37].
676. Sự đánh lừa của tên Phản Kitô đã được phác hoạ trên trần gian
mỗi khi người ta cho rằng mình thực hiện được trong lịch sử niềm hy vọng về Đấng
Messia, một niềm hy vọng vốn chỉ có thể được hoàn thành vượt quá giới hạn lịch
sử, nhờ cuộc phán xét cánh chung: Hội Thánh đã bác bỏ sự giả mạo này về Vương
quốc tương lai, và cả dưới một hình thức giảm nhẹ của sự giả mạo đó, có tên là
thuyết ngàn năm (millenarismus)[38], nhất là dưới một hình thức
chính trị của một chủ thuyết Messia đã bị tục hoá (messianismus
saecularizatus), “đồi bại tự bản chất”[39].
677. Hội Thánh chỉ tiến vào vinh quang Nước Trời sau cuộc Vượt Qua
cuối cùng này, trong đó Hội Thánh đi theo Chúa của mình trong sự chết và sự sống
lại của Người[40]. Vì vậy Nước Trời sẽ không
được thực hiện bằng một chiến thắng của Hội Thánh trong lịch sử[41], theo một đà tiến từ dưới
đi lên nào đó, nhưng bằng sự chiến thắng của Thiên Chúa trên cuộc tấn công cuối
cùng của sự dữ[42], sự chiến thắng đó làm cho
Tân nương của Ngài từ trời xuống[43]. Chiến thắng của Thiên Chúa
trên sự nổi loạn của sự dữ sẽ mang hình thức cuộc Phán Xét cuối cùng[44], sau cuộc đảo lộn cuối cùng
khắp vũ trụ của trần gian đang qua đi[45].
Hội Thánh – được hoàn tất trong vinh quang
769. “Hội Thánh … sẽ chỉ được hoàn tất trong vinh quang thiên quốc”[46], trong cuộc Ngự đến vinh hiển
của Đức Kitô. Cho đến ngày đó, “Hội Thánh vẫn tiến bước trên đường lữ thứ giữa
những cuộc bách hại của thế gian và những ơn an ủi của Thiên Chúa”[47]. Nơi trần thế, Hội Thánh biết
mình đang ở chốn lưu đày, đang trên đường lữ thứ xa cách Chúa[48], Hội Thánh khao khát cuộc
ngự đến trọn vẹn của Nước Thiên Chúa, khao khát “giờ sẽ được kết hợp cùng Vua của
mình trong vinh quang”[49]. Sự hoàn tất của Hội Thánh,
và qua đó, sự hoàn tất của trần gian trong vinh quang sẽ chỉ xảy ra sau nhiều
thử thách lớn lao. Chỉ khi đó “mọi người công chính từ ông Ađam, ‘từ ông Abel
người công chính cho đến người được tuyển chọn cuối cùng’ sẽ được quy tụ trong
Hội Thánh phổ quát bên cạnh Chúa Cha”[50].
Số 451, 671, 1130, 1403, 2817: “Lạy Chúa Giêsu, xin
ngự đến!”
451. Kinh nguyện Kitô giáo được ghi dấu bằng tước hiệu “Chúa”, dù
là lời mời gọi cầu nguyện “Chúa ở cùng anh chị em”, dù là câu kết thúc lời nguyện:
“Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”, hay cả trong tiếng kêu đầy tin tưởng và
hy vọng “Maran atha” (“Chúa đến!”) hoặc “Marana tha” (“Lạy Chúa, xin ngự đến!”)
(l Cr l6,22). “Amen. Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20).
... cho tới khi mọi sự quy phục Người
671. Tuy nhiên, Nước Đức Kitô, đang hiện diện trong Hội Thánh của
Người, chưa phải là tuyệt đối với “quyền năng và vinh quang” (Lc 21,27)[51] do việc Vua ngự đến trần
gian. Nước này còn bị các thế lực sự dữ tấn công[52],
mặc dù chúng đã bị đánh bại tận gốc rễ do cuộc Vượt Qua của Đức Kitô. Cho tới
khi mọi sự quy phục Người[53], “cho tới khi có trời mới đất
mới, nơi công lý ngự trị, Hội Thánh lữ hành, trong các bí tích và các định chế
của mình, vốn là những điều thuộc thời đại nay, vẫn mang hình dáng của thời đại
chóng qua này và chính Hội Thánh đang sống giữa các thụ tạo còn đang rên siết
và quằn quại như sắp sinh nở và mong đợi cuộc tỏ hiện của các con cái Thiên
Chúa”[54]. Vì vậy, các Kitô hữu cầu
nguyện, nhất là trong bí tích Thánh Thể[55],
để Đức Kitô mau lại đến[56], bằng cách thưa với Người:
“Lạy Chúa, xin ngự đến !” (Kh 22,20)[57].
Các bí tích của đời sống vĩnh
cửu
1130. Hội Thánh cử hành mầu nhiệm của Chúa mình “cho tới khi Chúa đến”
(1 Cr 11,26), lúc “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Ngay
từ thời các Tông Đồ, phụng vụ đã được hướng đến cùng đích của mình qua lời rên
xiết của Thần Khí trong Hội Thánh: “Marana
tha! – Lạy Chúa, xin ngự đến!” (1 Cr 16,22). Như thế, Phụng vụ chia sẻ nỗi
khát khao của Chúa Giêsu: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với
anh em... cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa” (Lc 22,
15.16). Trong các bí tích của Đức Kitô, Hội Thánh đã nhận được bảo chứng gia
tài của mình, đã được dự phần vào đời sống vĩnh cửu, đang khi “trông chờ ngày hồng
phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu
Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2,13). “Thần Khí và Tân Nương nói: Xin
Ngài ngự đến... Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22, 17.20).
Thánh Tôma tóm
lược các chiều kích khác nhau của dấu chỉ bí tích như sau: “Bí tích là dấu chỉ
nhắc nhớ điều đã xẩy ra trước nó, tức là cuộc khổ nạn của Đức Kitô; là dấu chỉ
cho thấy điều được thực hiện nơi chúng ta nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tức là
ân sủng; là dấu chỉ tiên báo, tức là báo trước vinh quang tương lai”[58].
1403. Trong bữa Tiệc ly, chính Chúa hướng các môn đệ Người đến sự
hoàn tất lễ Vượt Qua trong Nước Thiên Chúa: “Thầy bảo cho anh em biết: từ nay,
Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em
uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26,29)[59].
Mỗi lần cử hành bí tích Thánh Thể, Hội Thánh nhớ lại lời hứa này và hướng trông
“Đấng đang đến” (Kh 1,4). Trong kinh nguyện, Hội Thánh kêu cầu Người ngự đến: “Marana tha” (1 Cr 16,22), “Lạy Chúa
Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20), “Ước gì ân sủng của Ngài đến và trần gian
này qua đi”[60].
Nước Cha trị đến
2817. Lời cầu xin này là lời “Marana
tha”, là tiếng kêu cầu của Thần Khí và Hiền Thê: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”:
“Giả như lời cầu
xin này không đòi buộc phải van xin Nước Chúa mau đến đi nữa, thì chúng ta cũng
bị thúc giục kêu gào điều đó vì muốn ôm lấy niềm hy vọng của chúng ta. Linh hồn
các vị tử đạo nằm dưới bàn thờ lớn tiếng kêu lên Chúa: ‘Lạy Chúa, cho đến bao
giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất
phải đền nợ máu chúng con?’ (Kh 6,10). Chắc chắn các ngài sẽ được xét xử công bằng
vào ngày tận thế. Lạy Chúa, nguyện Nước Chúa mau đến”[61].
Số 35: Thiên Chúa ban ân sủng cho nhân loại để họ chấp
nhận Mặc khải, đón nhận Đấng Messia
35. Các tài năng của con người làm cho con người có thể nhận biết sự
hiện hữu của một Thiên Chúa có ngôi vị. Nhưng để con người có thể tiến đến chỗ
thân mật với Ngài, Thiên Chúa đã muốn mạc khải chính mình Ngài cho con người và
ban cho họ ân sủng để nhờ đó họ có thể đón nhận mạc khải này trong đức tin. Tuy
nhiên, các “lý chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa” có thể chuẩn bị cho đức tin
và giúp người ta thấy rằng đức tin không đối nghịch với lý trí của con người.
Số 827, 1431, 2677, 2839: Nhìn nhận chúng ta là những
tội nhân
827. “Trong khi Đức Kitô thật sự là Đấng ‘thánh thiện, vô tội, tinh
tuyền’, không hề biết đến tội, nhưng đến để đền các tội riêng của dân, thì, vì
mang trong lòng mình những kẻ tội lỗi, vừa thánh thiện vừa phải luôn được thanh
tẩy, Hội Thánh luôn tiếp tục việc sám hối và canh tân”[62].
Tất cả các chi thể của Hội Thánh, kể cả các thừa tác viên, đều phải nhận mình
là kẻ tội lỗi[63]. Trong tất cả mọi người, cỏ
lùng của tội lỗi còn lẫn lộn với lúa tốt của Tin Mừng cho đến tận thế[64]. Vì vậy, Hội Thánh quy tụ
những người tội lỗi đã được lãnh nhận ơn cứu độ của Đức Kitô, nhưng còn đang
trên đường thánh hóa:
Vì vậy, Hội
Thánh “thánh thiện, dù mang trong lòng mình những người tội lỗi; bởi vì Hội
Thánh không có sự sống nào khác ngoài sự sống của ân sủng; quả thật, nếu các
chi thể của Hội Thánh được nuôi dưỡng bằng sự sống này, thì họ được thánh hoá,
nếu họ tách mình khỏi sư sống này, thì họ rơi vào tội lỗi và các xấu xa của tâm
hồn, những điều đó ngăn cản không cho sự thánh thiện rạng ngời của Hội Thánh được
lan toả. Vì vậy, Hội Thánh chịu đau khổ và thống hối vì những tội lỗi đó, tuy
có quyền giải thoát các con cái mình khỏi tội lỗi nhờ Máu Đức Kitô và hồng ân của
Chúa Thánh Thần”[65].
1431. Thống hối nội tâm là định hướng mới cách triệt để cho cả cuộc
đời, là trở về, là trở lại cùng Thiên Chúa với cả tâm hồn, đoạn tuyệt với tội lỗi,
quay lưng với sự dữ, và ghê tởm những hành động xấu xa chúng ta đã phạm. Đồng
thời thống hối nội tâm cũng bao gồm ước muốn và quyết tâm thay đổi đời sống, với
niềm hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa và lòng tin tưởng vào sự trợ
giúp của ân sủng của Ngài. Cuộc hối cải nội tâm này được kèm theo bằng sự đau
khổ và buồn phiền hữu ích được các Giáo phụ gọi là nỗi thống khổ của tâm hồn, sự cắn rứt của trái tim[66].
2677. “Thánh Maria Đức Mẹ
Chúa Trời cầu cho chúng con…”. Cùng với bà Êlisabeth chúng ta sửng sốt: “Bởi
đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1,43). Đức Maria, vì
đã tặng ban cho chúng ta Chúa Giêsu là Con của Mẹ, nên Mẹ là Thân mẫu của Thiên
Chúa và là Thân mẫu của chúng ta: chúng ta có thể phó thác cho Mẹ mọi nỗi âu lo
và những lời cầu xin của chúng ta. Mẹ cầu nguyện cho chúng ta như Mẹ đã cầu
nguyện cho bản thân Mẹ: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc
1,38). Khi phó thác để Mẹ cầu nguyện cho chúng ta, chúng ta cùng với Mẹ phó dâng
bản thân chúng ta cho thánh ý Thiên Chúa: “Nguyện cho ý Cha thể hiện”.
“Cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Khi
xin Đức Mẹ cầu nguyện cho chúng ta, chúng ta nhìn nhận mình là những người tội
lỗi khốn cùng và kêu cầu đến “Mẹ của lòng thương xót”, Mẹ hoàn toàn thánh thiện.
Chúng ta trao phó bản thân cho Mẹ “khi nay”, là ngày hôm nay của cuộc đời chúng
ta. Lòng tín thác của chúng ta được mở rộng để ngay từ bây giờ chúng ta đã trao
phó “giờ lâm tử” của chúng ta cho Mẹ. Xin Mẹ hiện diện trong giờ phút đó như Mẹ
đã hiện diện lúc Con Mẹ chết trên thập giá. Vào giờ chúng ta qua đời, với tư
cách là Mẹ chúng ta[67], xin Mẹ đón nhận và dẫn
chúng ta đến với Con của Mẹ, trên thiên đàng.
“và tha nợ chúng con…”
2839. Với lòng phó thác bạo dạn, chúng ta đã bắt đầu cầu nguyện với
Cha chúng ta. Khi nguyện xin Ngài cho Danh Ngài cả sáng, chúng ta đã xin Ngài
luôn thánh hoá chúng ta hơn nữa. Nhưng, dù đã mặc chiếc áo Rửa Tội, chúng ta vẫn
không ngừng phạm tội, và quay lưng lại với Thiên Chúa. Giờ đây, trong lời cầu
xin mới này, chúng ta trở lại với Ngài, như đứa con hoang đàng[68], và thú nhận mình là tội
nhân trước mặt Ngài, như người thu thuế[69].
Lời cầu xin của chúng ta bắt đầu bằng “việc xưng thú”, qua đó chúng ta vừa thú
nhận sự khốn cùng của chúng ta, và đồng thời, vừa tuyên xưng lòng thương xót của
Ngài. Niềm hy vọng của chúng ta thật vững chắc, bởi vì, trong Con của Ngài,
“chúng ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi” (Cl 1,14)[70]. Chúng ta gặp được dấu chỉ
hữu hiệu và chắc chắn về ơn tha thứ của Ngài trong các bí tích của Hội Thánh
Ngài[71].
Bài Ðọc I: Is 63, 16b-17; 64, 1. 3b-8
“Xin Chúa băng qua các tầng trời
mà ngự xuống”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Lạy Chúa, Chúa là Cha và là Ðấng
Cứu Chuộc chúng con: danh Chúa đã có từ muôn đời. Lạy Chúa, tại sao Chúa để
chúng con đi lạc xa đường Chúa, và làm cho tâm hồn chúng con trở nên chai đá,
không còn biết kính sợ Chúa nữa? Vì các tôi tớ Chúa, các chi tộc thừa hưởng gia
nghiệp Chúa, xin hãy đoái nhìn lại.
Xin Chúa băng qua các tầng trời
mà ngự xuống: các núi đồi rung chuyển trước tôn nhan Chúa. Chúa đã ngự xuống và
các núi đồi rung chuyển trước tôn nhan Chúa. Ðó là việc từ xưa đến nay chưa từng
có ai nghe thấy; lạy Chúa, không tai nào nghe thấy không mắt nào nhìn thấy một
chúa nào khác ngoài Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa.
Chúa đã đón tiếp kẻ hân hoan thi hành công lý, và nhớ đến Chúa khi đi trong đường
lối Chúa.
Này Chúa thịnh nộ, vì chúng con
đã phạm tội. Chúng con đã luôn luôn ở trong tình trạng tội lỗi, thì làm sao sẽ
được cứu rỗi? Tất cả chúng con đều đầy vết nhơ, và công nghiệp chúng con đều
như chiếc áo dơ bẩn.
Và không còn ai kêu cầu thánh
danh Chúa, không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa. Chúa đã ẩn nấp không cho
chúng con nhìn thấy nữa, và Chúa đã phó mặc chúng con cho quyền lực tội lỗi.
Tuy nhiên, lạy Chúa, Chúa là Cha chúng con, chúng con là đất sét, còn Chúa là
người thợ gốm, tất cả chúng con đều do tay Chúa làm nên.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 79, 2ac và 3b.
15-16. 18-19
Ðáp: Lạy
Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên
nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống.
Xướng: 1) Lạy Ðấng chăn dắt
Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các Vệ Binh Thần, xin hiện ra trong
sáng láng. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con.
Ðáp: Lạy
Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên
nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống.
2) Lạy Chúa thiên binh, xin
thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ
vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình.
Ðáp: Lạy
Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên
nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống.
3) Xin Chúa ra tay bang trợ người
ở bên tay hữu Chúa, con người mà Chúa đã củng cố cho mình. Chúng con sẽ không
còn rời xa Chúa nữa, Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh
Ngài.
Ðáp: Lạy
Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên
nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống.
Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 3-9
“Chúng ta mong chờ Ðức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra”.
Trích thư thứ nhất của Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, chúc cho anh em
đầy ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô.
Tôi hằng cảm tạ Chúa thay cho anh
em, vì ơn đã ban cho anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Vì chưng, trong Ngài, anh em
được tràn đầy mọi ơn: ơn ngôn ngữ và ơn hiểu biết, đúng như Chúa Kitô đã minh
chứng nơi anh em, khiến anh em không còn thiếu ơn nào nữa trong khi mong chờ Ðức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra. Cũng chính Ngài sẽ ban cho anh em bền vững
đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự
đến. Thiên Chúa là Ðấng Trung Tín, đã kêu mời anh em hiệp nhất với Con của Người,
là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Tv 84,8
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa,
xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mc 13, 33-37
“Các con hãy tỉnh thức, vì các
con không biết lúc nào chủ nhà trở về”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: “Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con
không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao
quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh
thức. Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về,
hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi
ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Ðiều Ta bảo cho các con, thì
Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!”
Ðó là lời Chúa.
[39] X. ĐGH Piô XI, Thông điệp Divini Redemptoris (19-3-1937): AAS 29. (1937) 65-106; CĐ Vaticanô
II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 20-21:
AAS 58 (1966) 1040-1042.
[47] Thánh Augustinô, De
civitate Dei, 18, 51: CSEL 40/2, 354 (PL 41, 614); x. CĐ Vaticanô II, Hiến
chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57
(1965) 12.
[62] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12; x. Id., Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 3: AAS 57 (1965)
92-94; Ibid., 6: AAS 57 (1965) 96-97.
[66] X. CĐ Triđentinô, Sess. 14a, Doctrina de sacramento Paenitentiae, c. 4: DS 1676-1678; Id., Sess.
14a, Canones de Paenitentia, canon 5:
DS 1705; Catechismus Romanus, 2, 5,
4: ed. P. Rodríguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 289.
[71] X. Mt 26,28; Ga 20,23.