ĐỨC MARIA: NIỀM HY VỌNG CHẮC CHẮN
Giuse Phan Quang Trí, O.Carm.
Rôma, 07.12.2020
WHĐ (7.12.2020) – Đoàn dân đang lầm lũi bước đi giữa tối tăm bỗng nhìn thấy một ánh sáng
huy hoàng rực rỡ; đám người sống trong cảnh tối tăm mịt mùng thì nay đã được
ánh sáng bừng lên chiếu rọi chan hòa. Người người sẽ vui mừng phấn khởi trước
nhan thánh Chúa vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, Chúa đều bẻ
gãy hết. Vì từ đây một trẻ thơ đã chào đời để cứu chúng ta, một người con đã được
ban tặng. Danh hiệu Người là Thần Linh dũng mãnh, là Thủ Lãnh hòa bình. Người sẽ
mở rộng quyền bính và thiết lập nền hòa bình vô tận (x. Isa 9, 1-6).
Những vầng thơ cổ kính vừa rồi đã được ngôn sứ
Isaia vận dụng để loan báo về một cuộc giải phóng thiêng liêng mà Thiên Chúa hứa
sẽ thực hiện. Đấy là lúc Đức Chúa ra tay: sửa trị thói kiêu căng ngạo nghễ, dẹp
bỏ mọi tà thần, dỡ bỏ mọi áp bức bất công và bênh vực người công chính (x. Isa
2, 11-12; 20). Đấy cũng chính là lúc Người sẽ khai mạc một triều đại mới, triều
đại hòa bình viên mãn của Đấng Emmanuel, con trẻ sơ sinh.[1]
Một cách gián tiếp, những lời sấm vừa rồi của ngôn sứ Isaia tiết lộ cho chúng
ta thực trạng đáng buồn của Dân Ísraen thời Cựu Ước. Dân được Thiên Chúa ưu ái
tuyển chọn cũng lại là dân bội nghĩa bất trung (x. Isa 1, 2-31). Họ đã nhiều lần
cố tình bưng tai bịt mắt khước từ sứ điệp của Thiên Chúa, quay sang bái lạy tà
thần và dấn bước vào con đường tối tăm tội lỗi. Thực trạng đen tối này thật ra
cũng chỉ là một phần nhỏ nằm trong bức tranh đại tổng thể lịch sử Thiên Chúa cứu
độ con người. Bức tranh tổng thể tái hiện lại lịch sử hàng nghìn năm kể từ lúc
Thiên Chúa thiết lập lời hứa cứu độ tại vườn Địa Đàng xưa kia sau khi ông bà
nguyên tổ phạm tội cho đến khi lời hứa đó chính thức biến thành hiện thực tại
Bêlem nơi biến cố Ngôi Lời Thiên Chúa sinh xuống làm người để giải thoát chúng
ta khỏi ách tử thần.
Thoạt nhìn, bức tranh ấy thật não nề u ám vì dường như nhìn đâu cũng thấy nhuốm màu tang tóc. Nhưng khi quan sát kỹ hơn, chúng ta sẽ nhận thấy rằng nét độc đáo của bức tranh này không nằm nơi màu tím tang thương do tội lỗi nhân loại gây nên nhưng lại toát ra từ những tia sáng hy vọng lung linh và những ánh lửa yêu thương rạng rỡ mà Thiên Chúa đã không ngừng thắp lên dẫn lối cho con người có cơ hội quay về nẻo chính đường ngay. Quả vậy, sự kiên nhẫn phi thường và lòng khoan dung hải hà của Thiên Chúa đối với nhân loại chúng ta thật chẳng khác gì hàng vạn ngôi sao lấp lánh tỏa sáng trên nền trời u tối và nhờ đó bức tranh lịch sử cứu độ trở nên kiệt tác huy hoàng diễm lệ.
1. Đức Maria: Ngọn Nến Mùa Vọng
Bước vào Mùa Vọng, Giáo hội khoác lên mình màu
tím thâm trầm tượng trưng cho thái độ tỉnh thức cũng như tâm tình khát khao
trông đợi đang trào dâng trong lòng mỗi người tín hữu. Dân thánh đang hướng về
“ngày Đức Kitô tỏ hiện” (1 Pr 1, 13), ngày mà muôn vật muôn loài được tái tạo
hoàn toàn (x. Ep 1, 10; Cl 1, 20; 2 Pr 3,10-13). Trên đường tiến đến “tầm vóc
viên mãn”, Hội Thánh mặc lấy tâm tình đoàn dân Ísraen xưa; mong ngóng khao khát
Đấng Cứu Tinh. Trong suốt hành trình đầy thử thách đó, Dân Kitô Giáo không hề bị
bỏ rơi giữa tối tăm tuyệt vọng. Ngược lại, Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót
thương đã đoái ban cho Hội Thánh một tặng phẩm cao quý là Đức Trinh Nữ Maria để
Mẹ trở nên như vầng trăng hy vọng, như Sao Biển rạng ngời soi đường dẫn lối cho
dân thánh Chúa tiến lên.[2] Công Đồng Vaticanô II cũng
đã xác quyết như thế khi truyền dạy rằng: Đức Maria chính là “dấu chỉ của niềm
hy vọng vững chắc và cũng là niềm an ủi” đầy khích lệ mà Thiên Chúa ân ban cho
Hội Thánh trên đường lữ thứ tiến về quê trời.[3]
Ngày hôm nay, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, chúng
ta chiêm ngắm vầng sáng Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, kỳ công đẹp nhất do tay Chúa
tạo dựng và cũng là tặng phẩm cao quý Thiên Chúa trao ban cho nhân loại. Chúng
ta dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì nơi Đức Maria chúng ta được nhìn thấy trước
hình ảnh tiên báo phúc phận đời sau mà ai trong chúng ta cũng có cơ hội đạt đến.
Rồi khi dõi theo gương sáng đạo đức của Mẹ, chúng ta an tâm vì biết chắc chắn rằng
chúng ta đang tiến về nơi có Mẹ và Chúa Giêsu Con Mẹ đang đón đợi chúng ta.
“Nếu như Mẹ của Đức Giêsu được vinh hiển hồn xác trên trời là hình
ảnh và khởi đầu của Giáo Hội phải được hoàn thành ở đời sau” (LG, 68) thì Đức Maria với đặc ân vô nhiễm nguyên tội chính là “hình ảnh một
Hội Thánh xinh đẹp, không tì ố, không vết nhăn, là Hiền Thê dấu ái của Đức
Giêsu Kitô.”[4]
Ngày lễ Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội
được long trọng cử hành đang khi dân thánh Chúa đang chăm chú bước đi trên hành
trình hy vọng. Cách sắp đặt này không những giúp các tín hữu nâng cao ý thức về
vai trò và vị trí của Mẹ Thiên Chúa trong đời sống của Giáo Hội, mà còn làm cho
chiều kích “cánh chung” của các cử hành phụng vụ Mùa Vọng được diễn tả một cách
sống động hơn.
Giữa bầu khí thâm trầm sâu lắng của Mùa Vọng, Đức Maria xuất hiện như ngọn nến lung linh, tỏa lan ánh sáng dịu dàng ấm áp. Bởi vì trái tim và tâm hồn Mẹ thanh khiết tựa pha lê nên khi tâm hồn đó được đặt cạnh “Vầng Hồng” rực rỡ là Đấng Mêsia (x. Lc 2, 78) nó sẽ trở nên lăng kính phản chiếu trung thực ánh sáng hy vọng mà Thiên Chúa muốn chiếu dải trên dân của Người. Chúng ta đang nói đến tương quan giữa Đức Maria và Chúa Giêsu Con Mẹ, tương quan đóng vai trò nền tảng giúp chúng ta hiểu thấu mối liên hệ giữa Mẹ Thiên Chúa và Hội Thánh (x. LG, 54).
2. Đức Maria: Mẫu Mực của Hội Thánh
Thật vậy, khi công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm
Nguyên Tội, Chân Phước Giáo Hoàng Piô IX đã triển khai nội dung tín điều này
trên nền tảng cơ sở là giáo lý về đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ
Maria. Hay nói cách khác, vì Ngôi Lời Nhập Thể là đấng cực trọng cực thánh, nên
người nữ được chọn để cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa cũng phải là đấng được
chuẩn bị xứng đáng. Ơn vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria nói lên sự quan phòng
kỳ diệu của Thiên Chúa và mối liên hệ khắng khít giữa Đức Maria và Đấng Cứu Thế.
Nhờ hồng ân cứu độ do cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu Kitô mang lại và
trong đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha, Đức Maria ngay từ giây phút đầu
tiên trong đời đã được gìn giữ thanh khiết vẹn toàn khỏi mọi vết nhơ tội lỗi kể
cả tội nguyên tổ.[5] Nội dung chính yếu của tín
điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội tuy ngắn gọn xúc tích nhưng rất mực cao
siêu. Chúng ta chỉ có thể phần nào hiểu được mầu nhiệm này nhờ vào ánh sáng mặc
khải về Chúa Kitô.
Mặc khải ghi chép trong Kinh Thánh và Thánh
Truyền cho phép chúng ta khám phá vai trò đặc biệt của Đức Maria trong
nhiệm cục cứu độ. Chúng ta đều biết việc Đức Kitô cần phải đến trong thế
gian đã được các sách Cựu Ước trình bày một cách tiệm tiến. Song song với
việc giới thiệu đấng Mêsia, các tài liệu tiên khởi này cũng từng bước giới
thiệu hình ảnh của một người nữ, Đấng sẽ xuất hiện trong vai trò là Mẹ
Đấng Cứu Thế. Người nữ ấy chính là người đã được tiên báo trong lời
hứa chiến thắng con rắn, lời hứa mà nguyên tổ đã nhận được sau khi
phạm tội (x. St 3, 15). Tương tự thế, người nữ này là “trinh nữ” các ngôn
sứ đã tiên báo là sẽ thụ thai, sinh một người con trai và sẽ đặt tên là
Emmanuel (x. Is 7, 14; Ml 5, 2-3; Mt 1, 22-23). Người nữ ấy trổi vượt trong
số các kẻ khiêm nhu và hèn mọn của Thiên Chúa nhưng quan trọng nhất là người
nữ này như mọi thụ tạo khác cũng lãnh nhận ơn cứu độ từ Thiên Chúa.[6] Người nữ mà Cựu Ước giới thiệu
chính là Đức Maria. Điều đáng lưu ý là vai trò đặc biệt của Mẹ Maria trong nhiệm
cục cứu độ không hề làm lu mờ hay giảm thiểu vai trò trung gian duy nhất
của Đức Kitô. Ngược lại, các đặc ân Mẹ hưởng càng làm cho sức mạnh của Đức
Kitô nổi bật hơn. Thật vậy, bất cứ một ảnh hưởng quyền thế nào của Đức
Trinh Nữ trên nhân loại đều bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Đức
Kitô và phát sinh từ ý định nhân lành của Thiên Chúa (x. LG, 60).
Mọi đặc ân Chúa ban cho Đức Maria đều bắt nguồn
từ công nghiệp Chúa Kitô. Do đó, mầu nhiệm Đức Maria và mầu nhiệm Chúa Kitô gắn
liền chặt chẽ với nhau đến độ Đức Trinh nữ Maria được sánh ví như một “Evà mới”
xuất hiện bên cạnh Đức Kitô, “Ađam mới”. Nếu như trước kia Evà cũ đã góp
phần vào sự chết của nhân loại, thì nay cũng cần có một người nữ mới,
người sẽ cộng tác vào công cuộc tái tạo nhân loại mới. Cách diễn tả này thật
chính xác khi nói về “Mẹ của Đức Giêsu, người đã đem đến cho thế gian
sự sống đổi mới mọi sự, và là người được Thiên Chúa ban cho những
ân huệ tương xứng với vai trò cao cả như thế. Do đó, không lạ gì khi
các thánh Giáo phụ thường gọi Mẹ Thiên Chúa là Đấng thánh thiện
vẹn toàn, không vương nhiễm vết nhơ tội lỗi, như được chính Chúa
Thánh Thần nhào nắn và được tác thành như một thụ tạo mới.”[7]
Thụ tạo Maria làng Nazarét được sứ thần
Gabrien kính cẩn cúi chào như “Đấng Đầy Ân Sủng” (x. Lc 1, 28) và thái độ
“xin vâng” của người nữ ấy cho thấy người xứng đáng là thụ tạo trổi vượt nhất
giữa muôn vàn thụ tạo,[8] là Mẹ Thiên Chúa, và là
“Mẹ của kẻ sống.”[9] Các Giáo Phụ có lý khi
cho rằng Đức Maria không hẳn chỉ là một khí cụ hoàn toàn thụ động
trong tay Thiên Chúa. Ngược lại, nhờ tin và vâng phục trong tự do Mẹ đã
cộng tác tích cực vào việc cứu độ nhân loại. Như thánh Irênê đã từng
nói: “Nhờ vâng phục, Đức Maria đã trở nên nguyên nhân cứu độ cho chính
mình và cho toàn thể nhân loại.”[10]
Những thương tổn tệ hại mà Evà đầu tiên đã gây ra bởi cứng lòng tin thì
người nữ Evà thứ hai đã góp phần chữa lành: “Nút dây đã bị thắt lại vì
Evà bất tuân, nay đã được gỡ ra nhờ Đức Maria vâng phục” (Irênêô, trích
trong LG, 56).
Trong khi trình bày Đức Maria như biểu tượng sống
động cho niềm hy vọng chắc chắn của Hội Thánh, Công Đồng Vaticanô II như muốn
nói với chúng ta rằng: Khi nhìn vào Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta như nhìn thấy
đích đến, nhìn thấy viễn cảnh tương lai khi mà niềm ước mơ biến thành hiện thực.
Thánh Công Đồng cũng lưu ý với chúng ta rằng Đức Maria tựa như tấm gương sáng
ngời, khi soi mình vào tấm gương này, Hội Thánh ý thức rõ rệt hơn về đích điểm
cần phải vươn tới và học được cách thức chuẩn bị cho một tương lai xán lạn.
Tương lai này không phải tự nhiên mà chúng ta có được. Cũng giống như Đức
Maria, Hội Thánh cần phải cộng tác tích cực với ơn Chúa. Nói đơn giản, khi nhìn
nhận Đức Maria là “dấu chỉ của niềm hy vọng vững chắc”, dân thánh Chúa đồng thời
nhìn nhận nơi Mẹ Thiên Chúa một “hình ảnh lý tưởng”, một “mẫu thức” hay một “mẫu
gương sống động” hướng dẫn họ sống “đức tin, đức ái và kết hiệp mật thiết
với Chúa Kitô.”[11]
Dẫu các phần tử Hội Thánh lữ hành còn mang nhiều
khiếm khuyết nhưng Hội Thánh xét một cách tổng thể thì thánh thiện và xinh đẹp
vì chưng Đức Kitô Con Thiên Chúa, “Đấng thánh thiện duy nhất”[12] đã yêu thương Hội Thánh
như hiền thê của Người và hơn nữa Chúa đã hiến thân để thánh hoá Hội
Thánh (x. Ep 5, 25-26; LG, 39). Vẻ đẹp
thánh thiện của Hội Thánh xuất phát từ công nghiệp của Đức Kitô và tỏ hiện cụ
thể nơi Đức Maria, “mẫu gương mọi nhân đức” (x. LG, 65). Chính vì Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội là “hình ảnh một Hội
Thánh xinh đẹp, không tì ố, không vết nhăn” nên khi chúng ta nhìn vào “Đức Nữ cực
tinh cực sạch” chúng ta được mời gọi để ý thức hơn nữa về ơn gọi nên thánh của
mỗi người chúng ta.
Trong Hội Thánh, mọi Kitô Hữu cho dù thuộc bất cứ
bậc sống nào, đều được kêu gọi để “nên hoàn thiện như Cha trên trời” (x. Mt 5,
48). Ơn gọi phổ quát này đã thành toàn cách mỹ mãn nơi Đức Trinh Nữ Maria, một
thụ tạo như chúng ta. Vì thế, ngày lễ Mẹ cũng là dịp để chúng ta lập lại cam kết
“nên thánh” và quyết tâm noi theo nếp sống Mẹ đã nêu gương. Nên Thánh theo cách
của Mẹ Maria là “hành động theo Thần Khí, vâng phục thánh ý của Chúa
Cha, và bước theo Đức Kitô khó nghèo.” Ngay trong những tình huống, bổn
phận và hoàn cảnh sống hàng ngày, chúng ta đều có thể nên thánh, nếu như
chúng ta thực hiện những gì Mẹ đã thực hiện; đó là lãnh nhận mọi sự trong đức
tin và phục vụ mọi người trong đức mến (x. LG, 41).
3. Đức Maria trên hành trình “trông đợi”
Khi truyền dạy “Đức Maria là dấu chỉ niềm hy vọng
chắc chắn của Hội Thánh lữ hành”, Thánh Công Đồng còn minh định thêm rằng “Mẹ
Thiên Chúa được vinh hiển hồn xác trên trời là hình ảnh và khởi đầu
của Hội Thánh phải được kiện toàn ở đời sau” (LG, 68). Mấu chốt vấn đề nằm ở chỗ khi nào thì mới đến “đời sau”?
Chúng ta không biết “khi nào” “giờ nào”, chúng ta chỉ biết chắc chắn là sẽ có
ngày đó, giờ đó. Ý thức điều này, Hội Thánh trong cuộc lữ thứ trần gian không
ngừng dõi theo “sự khởi đầu” của mình là Đức Trinh Nữ Maria để củng cố niềm hy
vọng và để lựa chọn những bước đi đúng đắn. Thực ra, “thời đại cuối cùng”
đã đến rồi (x. 1Cr 10, 11). Công cuộc canh tân thế giới đã được tiến
hành. Do đó Hội Thánh ngay khi còn ở trần gian đã được trang điểm bằng
sự thánh thiện đích thực, tuy chưa đến tầm mức viên mãn. Cho tới khi
có trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị (x. 2 Pr 3,13) thì Giáo Hội
lữ hành vẫn cứ phải sống giữa các loài thụ tạo và mong ngóng sự mạc
khải của con cái Thiên Chúa (x. Rm 8, 19-22).[13]
Nỗi niềm trông đợi này được diễn tả qua các cử hành phụng vụ trong suốt Mùa Vọng.
Mùa trông đợi được tận dụng như cơ hội để Giáo Hội tự nhắc nhớ chính mình về
hành trình tiến về quê trời, hành trình bước đi với niềm hy vọng hằng sống.
Thú vị thay, tác giả Thư Hipri tiết lộ cho chúng
biết là trên hành trình hy vọng, đức tin chính là bảo đảm cho những điều chúng
ta hy vọng và là bằng chứng cho những điều chúng ta không thấy (x. Hr 11, 1).
Do đó, chúng ta cần lắm những mẫu mực đức tin có thể đồng hành và giúp đỡ chúng
ta trên hành trình Mùa Vọng. Hành trình trông đợi của dân Ísraen thời Cựu Ước
chính là hình ảnh của Hội Thánh lữ hành hôm nay (x. LG, 9). Trong cuộc hành trình xuyên không gian và thời gian đó, Đức
Maria xuất hiện giữa Hội Thánh “như người nữ được chúc phúc vì Mẹ đã tin và là
người tiến bước trong đức tin.”[14] Đối với Hội Thánh, Đức
Maria như một “kho tàng sống” lưu giữ nhiều “tài liệu” liên quan đến Chúa
Giêsu. Chúng ta có thể nói như thế vì không ai khác ngoài Đức Maria là nhân chứng
số một về những gì đã xảy ra thời thơ ấu và niên thiếu của Chúa Giêsu. Mẹ không
những “ghi nhớ” mà còn “hằng suy đi ngẫm lại những điều ấy ở trong lòng” (x. Lc
2, 19; x. Lc 2, 51). Nhưng quan trọng hơn hết, Hội Thánh đồng quan điểm với bà
Elizabét khi ca tụng Đức Maria như mẫu gương tuyệt hảo về đức tin. Được mệnh
danh là “người đầu tiên tin tưởng”, Mẹ xứng đáng là mẫu mực đức tin để mọi người
noi theo. Đức tin của Hội Thánh lữ hành phải là sự vang vọng và là tiếp nối đức
tin của Đức Maria (x. RM, 26).
Thông Điệp Mẹ
Đấng Cứu Thế - Redemptoris Mater
còn trình bày cho chúng ta một chủ đề khác liên quan đến nỗ lực sống tâm tình
“trông đợi” của Hội Thánh lữ hành. Dõi theo bước chân Đức Maria đến thăm viếng
nhà Giacaria, chúng ta khám phá ra vẻ đẹp tâm hồn của Đức Maria. Con tim của Mẹ
không chỉ đầy ắp ân sủng mà còn chan chứa từ bi (x. Lc 1, 40-42). Nếu như danh
hiệu “Đầy Ân Sủng” trong lời chào của sứ thần nói về những đặc ân mà Thiên Chúa
ưu ái tặng ban cho Mẹ, thì “mối phúc dành cho người đã tin” trong lời khen ngợi
của bà Elizabét lại nói về cách thức người Trinh Nữ thành Nazareth đền đáp hồng
ân Thiên Chúa như thế nào (x. RM,
12). Qua biến cố thăm viếng, Đức Maria dạy cho Hội Thánh phương thế đạt đến hạnh
phúc đích thật, hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. “Phúc cho bà vì bà đã tin những
gì Thiên Chúa đã phán cùng bà” (x. Lc 1, 45). Phúc cho cả chúng ta nữa nếu
chúng ta cũng biết cúi mình trước kế hoạch của Chúa và tích cực cộng tác bằng đức
tin và đức ái. Có làm như thế thì chúng ta mới trở nên giống với Mẹ của chúng
ta Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội; qua sự hiện diện và chứng tá giữa lòng thế giới,
chúng ta tình nguyện trở nên những cánh tay nối dài chuyển tải lòng Chúa xót
thương đến với mọi người.[15]
Không hình ảnh nào thích hợp bằng hình ảnh Đức
Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội tỏa sáng như ngọn nến lung linh giữa không gian Mùa Vọng
để diễn tả thực tại cánh chung của Hội Thánh lữ hành: Hội Thánh trên trần thế sống
tương quan với Thiên Chúa nhờ đức tin; Hội Thánh lữ hành mỗi ngày một tiến gần
hơn tới Chúa Kitô trong đức tin; Hội Thánh ấy hợp nhất trong cùng một đức tin.
Chúng ta, mọi thành phần Hội Thánh được khuyến khích yêu mến và tôn kính Đức
Maria không những vì lòng sùng kính Mẹ Thiên Chúa sẽ đưa chúng ta đến gần với
Chúa Kitô hơn (x. LG, 65) mà còn vì Mẹ
Thiên Chúa cũng là Mẹ của niềm hy vọng (Mater
Spei).[16]
4. Kết: Đăng trình theo ánh Sao Mai
Ngày từ đầu, khi ông bà nguyên tổ phạm tội, bóng
dáng một người nữ mới đã được tiên báo. Đức Maria với đặc ân làm Mẹ Đấng Cứu Thế
đã được Thiên Chúa đặt vào vị trí “trổi vượt” trong lịch sử cứu độ. Với vị trí
này, Mẹ Thiên Chúa đã đồng hành cùng nhân loại trong từng bước đi của lịch sử cứu
độ (x. RM, 47) thì hẳn nhiên Mẹ cũng
sẽ đồng hành và nâng đỡ mỗi Kitô hữu trong thời khắc khó khăn của họ. Hiện diện
giữa Giáo hội với tư cách là Mẹ, Đức Maria tham gia vào cuộc chiến chống lại
“quyền lực của bóng tối” (GS, 47) và
bảo vệ con cái Mẹ như hình ảnh “người Phụ Nữ mình khoác mặt trời, chân đạp mặt
trăng, đầu đội triều thiên mười hai sao sáng” (Kh 12: 1). Trên hành trình dương
thế, mỗi khi chúng ta cảm thấy chao đảo mất phương hướng hoặc mỗi khi chúng ta
bị bóng tối của nghi hoặc bủa vây, chúng ta hãy ngước nhìn lên Đức Maria để nhận
ra “niềm hy vọng vững chắc” và “niềm an ủi” trìu mến nơi Đấng Đầy Ơn Phúc – Đấng
Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Sau cùng, những tai tiếng gần đây như nạn giáo
sĩ ấu dâm, lạm dụng tính dục, lạm dụng chức quyền, tham ô, phe cánh xảy ra
trong Hội Thánh khiến cho nhiều người bên trong cũng như bên ngoài không còn
đánh giá đúng vai trò và chức năng của Hội Thánh nữa. Làn sóng công khai từ bỏ
Giáo Hội ngày càng dâng cao tại các nước Châu Âu. Thực trạng này có thể khiến
cho những ai tha thiết với vận mạng của Hội Thánh không khỏi chạnh lòng. Nhiều
người đã không giấu được thất vọng tự hỏi không biết hình ảnh một “tân nương
xinh đẹp được điểm trang lộng lẫy để đón chào tân lang” có còn hiện thân nơi cộng
đoàn Hội Thánh của chúng ta nữa không? (x. Kh 19: 7-8 & 21: 1-9). Cần phải
xác quyết ngay, Hội Thánh là thân thể Chúa Kitô cho dù có già nua về mặt thời
gian và tiếp tục gánh chịu nhiều thương tích do con người gây ra nhưng chắc chắn
Hội Thánh ấy sẽ không bao giờ bị tiêu diệt (x. Mt 16,18) và sẽ tiếp tục trường
tồn cho đến tận thế.[17] Học thuyết trình bày Đức
Maria như là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos)
là mẫu mực của Hội Thánh (Typos) giữ
nguyên giá trị là nền tảng đức tin giúp chúng ta sống đạo và tuyền đạo. Nhìn
vào mẫu gương Đức Maria, chúng ta nhận ra tính cấp bách của ơn gọi nên thánh. Học
hỏi nơi Đức Maria, chúng ta tái khám phá ra giá trị của Lời Chúa trong đời sống
đức tin. Dõi theo bước chân Mẹ Maria, chúng ta không còn ỷ lại vào “nén bạc”
Chúa ban nhưng sẽ tích cực cộng tác bằng tình yêu phục vụ và niềm tin trung
thành.
Kính mừng Maria Đầy Ơn Phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn
mọi người nữ và Giêsu Con lòng Bà gồm phúc lạ.
Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và
trong giờ lâm tử. Amen.
[1] Nhóm
CGKPV, “Chú giải Isaia 9, 1-6” trong Kinh
Thánh Cựu Ước và Tân Ước: Lời Chúa cho Mọi Người, NXBTG, 2006, 1181-1182.
[2] Bậc Đáng
Kính Tổng Giám Mục Fulton Sheen ca tụng Đức Maria như vầng trăng phản chiếu hào
quang của Đức Kitô Mặt Trời Công Chính. Kinh cầu Đức Bà Loreto do Đức Giáo
Hoàng Sixtus V phê chuẩn năm 1587 trong đó bao gồm tước hiệu: “Đức Bà như Sao
Mai sáng vậy.”
[3] Xem Công
Đồng Vatican II, “Tiêu đề số V, Chương VIII” của Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh: Lumen
Gentium và nội dung số 68 của phần này. Từ đây về sau, Lumen Gentium sẽ được viết tắt
“LG”.
[5] Xem ĐGH Piô
IX, Tông Hiến Thiên Chúa Khôn Tả
(Apostolic Constitution Ineffabilis Deus),
Vatican, 08/12/1854. Tham khảo: https://www.papalencyclicals.net/pius09/p9ineff.htm, truy cập 04/12/2020.
[7] Xem
Germanô Constantinôpôli, Hom. trong Annunt. Deiparae: PG 98, 328a; trong Dorm.
2: 357; Anatasiô Antiôkia, Serm. 2 de Annunt. 2: PG 89, 1377AB; Serm. 3, 2:
1388C; Anrê Crêta, Can. In. B.v. nat. 4: PG 97, 1321b; trong b.v. nat. 1; 821a;
Hom. trong Dorm. 1: 1068C; Sophrôniô, or. 2 trong Annunt. 18: PG 87 (3),
3237BD, tất cả trích trong Lumen Gentium,
56.
[14] Xem ĐGH
Gioan Phaolô II, «Tông Huấn Redemptoris
Mater: Đức Trinh Nữ Maria trong Cuộc Lữ Hành của Hội Thánh trên Trần Gian»,
27. Từ đây về sau Redemptoris Mater sẽ
được viết tắt “RM”.
[16] Trong Ca
Vãn Đức Mẹ Salve Mater Misericordiae, xuất hiện từ Thế Kỷ XI và trở
thành một phần trong truyền thống Thánh Mẫu Học Dòng Cát Minh. Ca từ đầy đủ
tham khảo https://sspx.org/en/news-events/news/motherly-hymn-salve-mater-misericordiae-4420, truy cập 05/12/2020.
[17] Xem Henri
de Lubac, Catholicism, 153, và ĐGH
Phanxicô, Tông Huấn Christus Vivit, 1
& 34.