ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊĐICTÔ XVI
NHỮNG CUỘC TRÒ CHUYỆN CUỐI CÙNG VỚI PETER
SEEWALD
Thiên Triệu giới thiệu
WHĐ (25.6.2021) – Peter Seewald là phóng viên người Đức đã
thực hiện những cuộc phỏng vấn lớn với Đức Bênêđictô XVI, trở thành những tác
phẩm để đời như Muối cho đời (1997), Thiên Chúa và thế giới (2001), và Ánh sáng trần gian (2011). Năm 2016, ông
tiếp tục thực hiện một cuộc phỏng vấn Đức Bênêđictô XVI, đã từ nhiệm và đang
nghỉ hưu tại tu viện Mater Ecclesiae trong khu vườn của Vatican. Kết quả của cuộc
phỏng vấn lần này là cuốn Đức giáo hoàng
Bênêđictô XVI: Những cuộc trò chuyện cuối cùng với Peter Seewald. Bản tiếng
Pháp, Benoit XVI, Dernìeres Conversations
avec Peter Seewald, do Nhà xuất bản Fayard, dày 286 trang. Nội dung được
trình bày thành 3 phần chính:
Phần I: tập trung vào quyết định từ nhiệm của Đức Bênêđictô
XVI và những ngày hưu dưỡng tại tu viện Mater Ecclesiae.
Phần II: hồi ức của Đức Bênêđictô XVI về thời thơ ấu đến khi
làm linh mục, giáo sư, giám mục, hồng y Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin.
Phần III: hồi ức về triều Giáo hoàng của ngài.
Về mặt tiểu sử, có thể nói ngoài một số chi tiết mới, nội
dung không có gì đặc biệt lắm vì đã được nói tới, không những trong các cuộc phỏng
vấn trước đây cũng do Peter Seewald thực hiện, mà còn trong cuốn hồi ký của Đức
Bênêđictô XVI (Milestone). Tuy nhiên cuộc trò chuyện với một nhân vật tầm cỡ thế
giới luôn mang lại cho người đọc những gợi ý suy tư về cuộc đời cũng như về
Giáo Hội và thế giới. Tác giả ước mong cuốn sách này “góp phần khiêm tốn vào việc
sửa chữa những ý tưởng sai lầm, soi sáng những nơi tăm tối, nhất là về những
hoàn cảnh liên quan đến sự từ nhiệm của Đức Bênêđictô, một sự kiện khiến cả thế
giới nín thở. Điều quan trọng là hiểu biết hơn con người Joseph Ratzinger và mục
tử Bênêđictô XVI, tôn trọng sự thánh thiện của ngài, và nhất là tiếp cận tác phẩm
của ngài vốn ẩn chứa một kho tàng cho tương lai” (Lời tựa).
Sau đây xin giới thiệu một số trích đoạn từ tác phẩm.
1. Về quyết định từ nhiệm
Thưa Đức Giáo hoàng
Bênêđictô, ngài dứt khoát đưa ra quyết định từ nhiệm vào lúc nào?
Tôi nghĩ là mùa hè năm 2012.
Vào tháng 8?
Gần như vậy.
Ngài bị suy sụp?
Suy sụp thì không nhưng tôi không khỏe lắm. Tôi cho là chuyến
đi Mêhicô và Cuba làm tôi mệt nhiều. Chính bác sĩ đã khuyên tôi không nên bay
qua Đại tây dương nữa. Nếu theo chương trình thì Ngày Giới trẻ thế giới ở Rio
de Janeiro sẽ diễn ra vào năm 2014. Nhưng do cúp bóng đá thế giới, người ta đã
đưa chương trình lên trước. Tôi muốn rút lui vào thời gian đó để vị giáo hoàng
mới có thể chuẩn bị cho sự kiện ở Rio. Kể từ sau chuyến đi Mêhicô và Cuba, quyết
định từ nhiệm rõ nét hơn.
Khi nào và ai là người
soạn văn bản công bố từ nhiệm của ngài?
Chính tôi soạn. Tôi không thể nói chính xác là lúc nào,
nhưng tôi đã viết trước đó 2 tuần hoặc hơn.
Tại sao bằng tiếng La
tinh?
Vì một bản văn quan trọng như thế phải viết bằng La tinh.
Hơn nữa tôi nắm vững tiếng La tinh để có thể viết cho chính xác. Dĩ nhiên cũng
có thể viết bằng tiếng Ý nhưng có thể có một vài lỗi.
Trong lời tuyên bố từ
nhiệm, ngài biện minh cho quyết định rời nhiệm vụ của ngài bằng việc sa sút sức
khỏe. Sự suy giảm khả năng hoạt động có thật sự là lý do đủ để rời ngai tòa
Thánh Phêrô không?
Dĩ nhiên người ta có thể thấy ở đây một sai lầm khi đưa ra
cách giải thích duy nhiệm vụ và trách cứ tôi. Thật vậy, sự kế nhiệm Thánh Phêrô
không chỉ gắn với một nhiệm vụ nhưng còn chạm đến chính con người. Vì thế nhiệm
vụ không phải là tiêu chuẩn duy nhất. Nhưng đàng khác, vị giáo hoàng phải chu
toàn một số công việc cụ thể, phải để mắt đến tất cả những gì đang diễn ra, phải
xác định những việc ưu tiên…Từ việc tiếp đón các nguyên thủ quốc gia, tiếp đón
các giám mục và thảo luận thật sự thân tình với các ngài, cho đến những quyết định
phải đưa ra hằng ngày. Kể cả khi người ta cho là có thể bỏ một số việc thì vẫn
còn rất nhiều, và những việc đó quan trọng đến nỗi nếu muốn chu toàn sứ vụ cách
đúng đắn thì mọi sự đã rõ: ít ra là theo cách nhìn của tôi, người ta có thể
nghĩ khác, đó là khi thấy mình không thể làm được nữa, tôi buộc phải từ nhiệm.
Trong những diễn văn từ
biệt của ngài ở quảng trường Thánh Phêrô, có hai lời đặc biệt. Lời thứ nhất là
lúc đọc kinh Truyền tin lần cuối, ngài nói rằng: Thiên Chúa muốn tôi lên núi
Tabor. Lời đó có nghĩa gì?
Câu đó liên hệ với bài Tin Mừng trong ngày. Nhưng trong thời
điểm đó, Tin Mừng mang ý nghĩa rất cụ thể. Điều đó có nghĩa là cách nào đó tôi
được đi với Chúa, tôi rời bỏ cuộc sống thường ngày để trèo lên đỉnh núi khác, ở
đó tôi được kết hợp với Chúa cách trực tiếp và thân tình hơn; tôi tách mình khỏi
đám đông và đi vào sự mật thiết với Chúa hơn.
Lời thứ hai là lời khẳng
định rất mạnh mẽ :“Tôi không từ bỏ Thánh giá”
Người ta nói là tôi xuống khỏi thập giá, tôi muốn những gì dễ
dàng hơn. Đó là lời trách cứ mà tôi quan tâm. Tôi đã suy nghĩ điều này trước
khi quyết định. Tôi xác tín rằng đây không phải là chạy trốn vì một sức ép cụ
thể. Cũng không phải là chạy trốn trước những đòi hỏi của đức tin, vốn dẫn con
người đến Thánh giá. Đó là một cách khác để liên kết với Đấng chịu đau khổ,
trong sự vĩ đại của thinh lặng và cầu nguyện cho Giáo Hội. Quyết định này không
phải là sự trốn chạy nhưng là một cách thế khác để trung thành với sứ vụ.
2. Về Đức Giáo hoàng Phanxicô
Với Đức Giáo hoàng
Phanxicô, Giáo Hội Công giáo không còn mang tính quy châu Âu nữa. Châu Âu đã yếu
thế rồi.
Thật sự châu Âu không còn đương nhiên là trung tâm của Giáo
Hội phổ quát nữa. Từ giờ trở đi, trong tính phổ quát của mình, Giáo Hội ở các
châu lục khác thật sự có trọng lượng tương ứng. Châu Âu vẫn duy trì trách nhiệm
và những nhiệm vụ đặc thù của nó. Tuy nhiên đức tin ở châu Âu đã suy giảm đến mức
không còn là động lực đích thực của Giáo Hội phổ quát và đức tin trong Giáo Hội
nữa. Chúng ta cũng thấy những nhân tố mới, châu Phi, Nam Mỹ hay Philippines chẳng
hạn, mang đến một năng động mới cho Giáo Hội, linh hoạt hóa và mang lại đà lực
cho châu Âu mệt mỏi, đánh thức nó khỏi sự chán chường, khỏi khuynh hướng quên
lãng đức tin. Cách riêng khi tôi nghĩ đến nước Đức, tôi không thể phủ nhận rằng
ở đó người ta vẫn gặp được một đức tin sống động, sự dấn thân chân thành phục vụ
Chúa và con người. Nhưng đàng khác, người ta thấy sức mạnh của chủ nghĩa bàn giấy,
lý thuyết hóa đức tin, chính trị hóa và thiếu năng lực sống động, mọi sự như bị
đè bẹp dưới sức nặng của cơ cấu. Cũng thật an ủi khi thấy có những sức mạnh
khác đang khẳng định giữa lòng Giáo Hội phổ quát, và châu Âu lại trở thành mảnh
đất truyền giáo.
Người ta nói rằng
Thiên Chúa sửa trị mỗi vị giáo hoàng cách nhẹ nhàng qua người kế nhiệm, vậy Đức
Giáo hoàng Phanxicô sửa chữa ngài về điều gì?
(Cười). Tôi cho là bằng sự quan tâm trực tiếp của ngài đối với
mọi người. Điều đó rất quan trọng. Nhưng ở nền tảng, ngài cũng là vị giáo hoàng
của suy tư. Khi tôi đọc Tông huấn Niềm
Vui Phúc Âm và những cuộc phỏng vấn ngài, tôi thấy rõ ngài là con người suy
niệm, con người quan tâm cách trí thức về những vấn đề của thời đại chúng ta. Đồng
thời ngài tiếp xúc trực tiếp với mọi người, ngài có thói quen ở giữa mọi người.
Nếu ngài không ở trong dinh giáo hoàng mà lại ở trong nhà Santa Marta, đó là vì
ngài muốn ở giữa mọi người…Tôi cũng muốn nói đến sự can đảm của ngài khi đề cập
đến các vấn đề và tìm cách giải quyết.
Sau một năm, ngài có
hài lòng về Đức Giáo hoàng Phanxicô không?
Có chứ. Có sự tươi mới trong Giáo Hội, một niềm vui mới, một
đặc sủng mới làm vui lòng mọi người, rất tốt.
3. Những tâm tình và suy tư đức tin
Thưa Đức giáo hoàng
Bênêđictô, trong thập niên 1950, ngài đã tiên đoán rằng sẽ có sự sa sút đáng kể
về đức tin trong phần lớn châu Âu. Lời tiên đoán đó đã khiến ngài bị coi là người
bi quan. Ngày nay người ta lại thấy tầm nhìn của ngài về một “Giáo Hội nhỏ bé”
đã thành hiện thực: một Giáo Hội mất nhiều đặc quyền đặc lợi, bị tấn công và chỉ
quy tụ được số tín hữu ngày càng ít theo nghĩa chặt.
Đúng thế, tôi đã nói rằng tiến trình giải thể Kitô giáo sẽ
tiếp tục.
Ngày nay, ngài nhìn
tương lai Kitô giáo ra sao?
Hiển nhiên là chúng ta không còn mạnh trong văn hóa hiện đại,
cấu trúc nền tảng của Kitô giáo không còn mang tính quyết định nữa. Nền văn hóa
trong đó chúng ta đang sống ngày nay ngày càng tỏ ra bất khoan dung đối với
Kitô giáo. Xã hội Tây phương, ít ra là ở châu Âu, không còn là xã hội Kitô giáo
đơn thuần nữa. Các tín hữu càng phải nỗ lực hơn để tiếp tục đào tạo và sống ý
thức về những giá trị và cuộc đời. Các cộng đoàn khác và các Giáo Hội địa
phương phải cương quyết hơn trong đức tin. Trách nhiệm nặng nề hơn.
Khi nhìn lại, đâu là
nét độc đáo nhất trong triều giáo hoàng của ngài?
Tôi cho là Năm Đức tin: một sự thúc đẩy mới cho đời sống đức
tin khởi đi từ con tim, từ sự năng động của đức tin, để tái khám phá Thiên
Chúa, tái khám phá Đức Kitô, đặt đức tin ở tâm điểm đời sống.
Là giáo hoàng, ngài có
tự xem mình như đại diện cuối cùng của thời đại cũ hoặc người mở đầu của thời đại
mới?
Đúng hơn, tôi nghĩ mình ở giữa.
Phải chăng như một nhịp
cầu giữa hai thế giới?
Tôi không còn thuộc thế giới cũ nữa, nhưng thế giới mới cũng
chưa hoàn toàn.
Phải chăng việc bầu Đức
giáo hoàng Phanxicô là dấu hiệu của một bước ngoặt? Liệu nó có đánh dấu một kỷ
nguyên mới không?
Những sắp xếp về thời gian, chẳng hạn thời điểm người ta xác
định là khởi đầu thời Trung Cổ hay thời hiện đại, những việc đó đều được làm
sau này. Cần phải có khoảng lùi thời gian để quan sát tiến trình. Cho nên tôi
không đánh liều để đưa ra một phán đoán về việc đó. Nhưng điều hiển nhiên là
Giáo Hội ngày càng tách mình ra khỏi những cấu trúc cũ của châu Âu và mang một
bộ mặt mới, với những hình thái mới. Trước hết chúng ta nhận ra tiến trình giải
thể Kitô giáo ở châu Âu, sự biến mất ngày càng nhiều những gì là Kitô giáo
trong đời sống công cộng ở châu Âu. Vì thế Giáo Hội phải có một cách thế hiện
diện mới, phải thay đổi cách hiện diện của mình. Những cuộc biến đổi lớn vẫn diễn
ra theo định kỳ. Nhưng ngay bây giờ, không thể xác định chính xác thời điểm nào
là bắt đầu một thời kỳ mới.
Thánh Malachi thời
Trung Cổ đã tiên báo ngày tận thế, hay ít ra là sự chấm dứt của Giáo Hội, với
danh sách các vị giáo hoàng tương lai. Nếu tin vào danh sách đó thì triều giáo
hoàng của ngài coi như là cuối cùng. Ngài có nghĩ ít ra mình là người cuối cùng
trong danh sách các giáo hoàng mà người ta biết từ trước đến nay?
Mọi sự đều có thể. Hình như lời tiên tri này đã xuất hiện
trong số những người quen biết thánh Philippe Neri. Thánh nhân chỉ đơn giản
dùng danh sách các giáo hoàng tương lai để chứng minh cho những người Tin Lành
rằng triều đại giáo hoàng không chấm dứt. Đừng dựa vào đó để kết luận rằng mọi
sự sẽ xảy ra đúng như thế. Danh sách đó chưa đủ dài.
Trong những công việc
của một Giáo hoàng, việc nào ngài cảm thấy không thích?
Tôi nghĩ là những cuộc viếng thăm mang tính chính trị. Chắc
chắn là tôi vui khi có dịp trò chuyện với các vị lãnh đạo quốc gia hay các đại
sứ, vì đó là nơi có những kinh nghiệm đẹp. Phần lớn trong số họ, dù có người
không phải là Kitô hữu, đều quan tâm đến những chuyện thiêng liêng. Dù vậy phần
chính trị này vẫn là phần cực nhọc nhất đối với tôi.
Có những điều gì khiến
ngài không hài lòng?
Dĩ nhiên là có. Chẳng hạn không phải lúc nào cũng đủ sức khỏe
để trình bày các bài giáo lý cách thuyết phục như mong muốn.
Người ta cho rằng ngài
rất dè dặt trong diễn thuyết. Có phải là vì khi trình bày, ngài hầu như không
có sự tiếp xúc bằng mắt với cử tọa và giọng nói hơi đơn điệu? Hay là ngài cố ý
như thế?
Không, không. Đơn giản, tôi phải thú nhận là giọng nói của
tôi thiếu lực, và tôi không có đủ thời giờ “hội nhập” bản văn để có thể thoát
ra. Chắc chắn đó là một thiếu sót. Giọng nói của tôi yếu.
Thế nhưng điểm mạnh của
ngài là ngài có thể soạn những diễn văn tuyệt vời.
Có thể, nhưng khi người ta bó buộc phải nói thường xuyên như
một giáo hoàng, thì cuối cùng thấy kiệt sức.
Làm giáo hoàng thì lúc
nào cũng có người vây quanh, rồi phải gặp gỡ thường xuyên những nhân vật quan
trọng. Vậy ngài có biết đến những lúc cô đơn, cảm nhận sự cô độc?
Có chứ, nhưng tôi thấy mình liên kết mật thiết với Chúa đến
nỗi không bao giờ cảm thấy cô độc.
Phải chăng người có đức
tin sẽ không bao giờ cô độc?
Đúng thế. Tôi biết rõ là tôi không tự mình hành động. Chúa
luôn ở đó. Chỉ cần tôi lắng nghe và mở lòng ra với Ngài. Hơn nữa, tôi chia sẻ
nhiều việc với các cộng sự viên thân cận.
Làm thế nào để lắng
nghe và mở ra với Chúa? Ngài có thể cho tôi một lời khuyên? Đâu là cách tốt nhất?
À, tôi thưa chuyện với Chúa rồi suy niệm trong lòng, trong
thinh lặng. Luôn có thể gõ cửa (của Chúa) bằng cầu nguyện.
Trong cuộc đời ngài,
ngài mong muốn làm việc gì nhiều hơn?
Chắc chắn là tôi sẽ hạnh phúc hơn nếu có thể làm nghiên cứu
nhiều hơn. “Mặc khải”, “Kinh Thánh”, “Transmission”, “Khoa học thần học là gì”:
đó là những đề tài mà tôi muốn đào sâu nghiên cứu. Tôi đã không thể làm được.
Nhưng tôi hài lòng với những gì đã làm. Chúa muốn như thế. Phần tôi, thế là tốt
rồi.
Câu hỏi cuối cùng
trong những cuộc trò chuyện cuối cùng: tình yêu đã luôn là một trong những chủ
đề ngài yêu thích khi còn là sinh viên, rồi giáo sư, cuối cùng là giáo hoàng. Vậy
tình yêu ở đâu trong cuộc đời ngài? Ngài đã cảm nếm tình yêu thế nào, với những
cảm xúc lớn ra sao? Hay tình yêu chỉ là điều gì đó mang tính lý thuyết và triết
lý?
Không, không. Nếu tôi đã không cảm nghiệm tình yêu thì tôi
không thể nói về tình yêu. Tôi cảm nghiệm trước hết ở nhà, bên cha bên mẹ, bên
anh chị em. Rồi, dù không đi sâu vào chi tiết, tôi muốn nói rằng tôi cảm nếm
tình yêu, với những chiều kích khác nhau và những hình thái khác nhau. Đối với
tôi, được yêu thương và yêu thương người khác là điều ngày càng cần hơn để có
thể sống, để có thể nói “vâng” với người khác. Và càng ngày tôi càng ý thức rõ
nét hơn chính Thiên Chúa không chỉ là Đấng toàn năng, một quyền năng xa vời,
nhưng Ngài là tình yêu, Ngài yêu tôi và vì thế đời sống tôi được xác định bởi
Ngài. Bởi một sức mạnh có tên là Tình Yêu.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 101 (Tháng 7 &
8 năm 2017)