LINH ĐẠO
LÒNG THƯƠNG XÓT
(Lời Chủ chăn
Giáo phận Xuân Lộc - Tháng 07 năm 2020)
Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
WGPXL (30.6.2020) - Quý Cha và quý Tu sĩ rất thân mến, theo tinh thần Tông sắc “Dung Mạo Lòng Thương Xót” (Misericordiae Vultus) của Đức Thánh Cha Phanxicô, lòng thương xót phải thấm nhuần vào đời sống và mọi hoạt động của Giáo Hội để trở thành đặc tính của Giáo Hội[1]. Do đó, mặc dù Năm Thánh ngoại thường Lòng Thương Xót đã kết thúc vào lễ Chúa Kitô Vua ngày 20/11/2016, Giáo phận chúng ta vẫn tiếp tục đào sâu để sống tinh thần này. Tinh thần lòng thương xót được coi là điểm quy tụ lòng người, là nguồn gợi hứng, là sức mạnh thúc đẩy và nâng đỡ, là ánh sáng chiếu soi hành trình thiêng liêng và các chương trình mục vụ, hầu cho Giáo phận trở thành “Thánh địa lòng thương xót”.
Để tinh thần lòng
thương xót trở thành nếp sống của gia đình cũng như Giáo xứ trong mọi sinh hoạt,
trước tiên các Linh mục và Tu sĩ trong Giáo phận phải là những người được thấm
nhuần chất thương xót. Trong ý hướng ấy, tôi xin cùng với quý Cha và quý Tu sĩ
suy gẫm lại một số dụ ngôn rất quen thuộc trong Tin Mừng để thấy rõ hơn các yếu
tố thiêng liêng của lòng thương xót, áp dụng vào đời sống và sứ vụ của chúng
ta. Đề tài của những chia sẻ này là “Linh đạo Lòng Thương Xót”.
1. Dụ ngôn con chiên lạc
“Người nào trong các ông có một trăm con
chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang,
để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên
vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: Xin chung vui với
tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. Vậy, tôi nói
cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn
năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối
ăn năn.” (Lc 15,4-7).
Đây là dụ ngôn rất
quen thuộc. Điều mới mẻ tùy thuộc vào sự quyết tâm áp dụng vào đời sống cũng như
sứ vụ của mỗi người. Dụ ngôn nói về một con chiên bị mất, lạc khỏi đàn nên người
chăn chiên ra đi tìm nó và cố công tìm kiếm cho đến khi thấy nó để đem về nhà.
Người chăn chiên trong dụ ngôn là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng giầu lòng
thương xót.
Để hiểu được tâm
tình thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải đặt mình vào khung cảnh địa dư của
dụ ngôn. Đó là sa mạc Đất Thánh được cấu tạo bởi những đồi cát và ở đó khí hậu
nóng cháy da dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt. Đứng ở đồi cát này không thể thấy
được gì đàng sau đồi cát bên kia. Do đó, để đi tìm con chiên lạc, ông chăn
chiên phải leo đồi xuống lũng, có khi rất nhiều lần, bất chấp ánh nắng mặt trời
thiêu đốt và thiếu thốn nước uống. Dù vất vả mệt nhọc như vậy, ông vẫn kiên trì
đi tìm cho đến khi kiếm được con chiên bị mất.
Các Linh mục và
Tu sĩ có thể suy gẫm dụ ngôn này từ hai góc độ. Góc độ thứ nhất là vị thế của
con chiên lạc. Đứng vào vị thế này, chúng ta sẽ tìm được niềm hy vọng và tin tưởng,
cho dù thực trạng tội lỗi có trầm trọng đến đâu, vì người chăn chiên – Chúa
Giêsu của chúng ta – chấp nhận mọi mệt nhọc và khổ cực để tìm cho bằng được con
chiên lạc. Thật xúc động! Theo dụ ngôn, người chăn chiên đã tìm thấy con chiên
vì nó đã để cho ông tìm ra. Người chăn chiên sẽ không tìm ra con chiên lạc nếu
nó cố ý lẩn trốn, không để cho ông thấy hoặc có thấy, nó cũng không về theo
ông. Đây quả là vấn đề rất trầm trọng của nhân loại, đã bắt đầu với Ađam và
Eva, Tổ tiên loài người. Sau khi phạm tội, ông bà đã lẩn trốn Thiên Chúa khi
Ngài đến tìm và trước mặt Ngài, hai người đổ lỗi cho nhau để khỏi phải chịu
trách nhiệm về sai lỗi của mình (x. St 3,8-13).
Người ta thường rất
ngại trở về lòng mình và nhìn nhận những sai lầm, những tội lỗi của mình. Điều
này lại càng khó khăn hơn đối với Linh mục và Tu sĩ vì trong công tác mục vụ và
trách nhiệm lãnh đạo cộng đoàn, Linh mục và Tu sĩ thường đứng vào vị thế giảng
dạy và điều hành hoặc tổ chức các sinh hoạt lớn nhỏ nên ít khi muốn nghe, nhất
là những điều không hợp ý hoặc không tốt về mình. Do đó, nhu cầu đầu tiên để được
hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa là lòng khiêm nhường, chân nhận sự thật
nơi lòng mình. Nhu cầu thứ hai là không chạy trốn Thiên Chúa, nhưng lắng nghe để
cho Thiên Chúa nói vào lòng mình sự thật về cuộc đời mình. Để được như vậy,
chúng ta cần có giờ thinh lặng sâu lắng bên Chúa mới hy vọng nghe được tiếng
nói thì thầm của Ngài và được thiêu đốt bởi lửa mến yêu của Ngài.
Trong sứ vụ mục tử
và lãnh đạo cộng đoàn, Linh mục và Tu sĩ còn phải suy gẫm dụ ngôn từ góc độ thứ
hai là vị thế của Thiên Chúa, Đấng giầu lòng thương xót mà dụ ngôn diễn tả qua
hình ảnh người chăn chiên. Người ta nói, trong hoàn cảnh của thế giới ngày nay,
có lẽ cần phải sửa lại dụ ngôn vì không phải đàn chiên còn lại 99 con chiên và
1 con chiên bị thất lạc, nhưng đàn chiên chỉ còn lại 1 con chiên và 99 con
chiên bị thất lạc. Tuy nhiên, mục đích của dụ ngôn không nhắm diễn tả một thực
tại, nhưng diễn tả tấm lòng xót thương của Thiên Chúa. Thường tình người ta hài
lòng khi được đa số đồng ý với mình, rồi ghét bỏ những người không ủng hộ mình,
nhưng người chăn chiên trong dụ ngôn, cho dù còn 99 con chiên và chỉ thiếu 1
con, ông vẫn không thỏa lòng nên quyết ra đi tìm kiếm cho bằng được con chiên bị
mất. Đó chính là tâm tình xót thương của Thiên Chúa: thương yêu mọi người, kể cả
những người tội lỗi từ khước Ngài, vì mỗi người đều quý giá trước mặt Ngài (x.
Is 43,4) nên Ngài không muốn mất một ai như chính Chúa Giêsu khẳng định: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn
cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Mt 18,14).
Trong dụ ngôn,
Chúa Giêsu không nói lý do vì sao con chiên vắng mặt. Chúng ta có thể suy diễn
một vài lý do như sau: con chiên ấy vắng mặt vì không quan tâm hay không tha
thiết với cộng đoàn, vì bị thú vui bên ngoài lôi cuốn, vì xung khắc với một con
chiên hay với cả đàn chiên, vì không chấp nhận chủ chiên hoặc vì muốn theo một
chủ chiên khác. Bất cứ là lý do gì, sự vắng mặt của con chiên đó cũng gây đau
khổ cho đàn chiên và nhất là cho chủ chiên. Dù vậy, chủ chiên vẫn lặn lội, chịu
cực khổ để đi tìm con chiên ấy và kiên trì tìm kiếm cho đến khi thấy nó.
Dù đặt mình vào vị thế nào, tâm tình thương xót của
Chúa cũng đòi chúng ta phải thay đổi tận căn cách suy nghĩ cũng như tâm tình thầm
kín cho phù hợp với tâm tình thương xót theo tinh thần của dụ ngôn. Đó là tâm
tình khiêm nhường biết nhìn nhận thực trạng tội lỗi của mình mà ăn năn hối lỗi
để xứng đáng lãnh nhận lòng thương xót của Thiên Chúa. Tâm tình thứ hai là tâm
tình mục tử. Đây là tình yêu cứu độ, thương yêu tất cả, không phân biệt, không
loại trừ và sẵn sàng đón nhận mọi khổ đau (x. Ga 10,11) và chỉ mong đoàn chiên
được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10). Con chiên cứng đầu là một thách đố của
tình yêu mục tử như Thánh Augustinô đã bày tỏ: “Bạn muốn hư mất ư? Tôi lại càng
không muốn điều đó… Tôi sẽ đi tìm kẻ lầm lạc… Bạn muốn hay không muốn, tôi vẫn
cứ làm”.[2]
2. Dụ ngôn Người cha nhân hậu
“Người con thứ thu góp tất cả gia sản rồi trẩy đi
phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng. Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch,
thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta phải đi ở đợ
cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao
ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh
ta hồi tâm và đứng lên đi về cùng cha.
Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy.
Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ anh ta
thưa: Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con
cha nữa. Nhưng người cha gạt đi và bảo các đầy tớ: Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc
cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo
làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!
Lúc ấy người con cả ở ngoài đồng về, nghe thấy tiếng
đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Biết
chuyện, người con cả nổi giận và không chịu vào nhà. Người cha ra năn nỉ thì cậu
trả lời: Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, chẳng khi nào trái lệnh, thế
mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con vui với bạn bè. Còn thằng
con của cha đó, đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, thì cha lại giết bê
béo ăn mừng!” (Lc 15,11-32).
Dụ ngôn diễn tả
câu chuyện tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại tội lỗi. Người con thứ bỏ
nhà cha đi xa, tiêu xài phung phí với đĩ điếm và đã tụt dốc thê thảm. Tụt dốc
thứ nhất là từ vị thế con trai của gia đình quý phái đã trở thành đầy tớ cho
người ta; tụt dốc thứ hai là phải đi chăn heo, có nghĩa là không đáng ở chung với
các đầy tớ khác; tụt dốc thứ ba là không được ăn đậu mồng của heo. Đây là ngôn
ngữ biểu tượng nói về sự sa đọa của người con thứ, còn thua kém loài heo đến nỗi
không đáng để được ăn đậu mồng của heo. Dù người con thứ sa đọa như vậy, người
Cha vẫn vui mừng đón nhận, không những tha thứ mà còn phục hồi tình trạng
nguyên thủy là con trong gia đình quý phái: mặc áo mới, xỏ nhẫn vào tay, đi giầy
vào chân. Đó là những hình ảnh biểu tượng diễn tả về một gia đình quý phái.
Lòng thương xót của
Thiên Chúa vượt rất xa tầm suy nghĩ của loài người mà thái độ của người con cả
là một biểu hiện: “Cha coi, đã bao nhiêu
năm con hầu hạ cha, chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được
một con dê con để con vui với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, đã nuốt hết của
cải của cha với bọn điếm, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” Quả thật,
người con cả có lý, cái lý của sự công bằng, nhưng Chúa lại sử dụng cái lý của
lòng thương xót. Ở đây chúng ta gặp phải vấn đề hóc búa của tương quan giữa
lòng thương xót và nhu cầu phải tôn trọng sự công bằng như ngày nay ở nhiều
nơi, nhất bên Hoa Kỳ, câu nói ở cửa miệng mọi người là: “Không có an bình nếu
không có công bằng” (No Peace without Justice).
Tâm thức công bằng
đòi người có tội trước tiên phải nhận tội và chịu hình phạt tương xứng, sau đó,
vì thương hại, có thể tha cho một phần hình phạt, còn lòng thương xót của Thiên
Chúa thì tha thứ và hơn nữa, còn tha bổng. Phải chăng lòng thương xót phá bỏ đức
công bằng? Thực ra, Thiên Chúa vừa là quan án công minh chính trực, không mảy
may gian dối (Đnl 32,4), vừa là người cha nhân hậu, luôn sẵn sàng thứ tha, chậm
giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín (x. Nkm 9,17; Tv 86,15). Nơi Ngài,
vừa có lòng thương xót, vừa có đức công minh chính trực: Thiên Chúa vừa tha bổng,
vừa giữ sự công bằng. Ngài tha bổng để mời gọi và cảm hóa người có tội ăn năn,
hối cải, nhưng Ngài giữ công bằng vì Ngài đền trả thay. Đó chính là Chúa Giêsu
chịu đóng đinh trên thập giá. Ngài đền trả tội lỗi thay cho nhân loại (công bằng)
và xin ơn tha tội cho nhân loại (thương xót) để cảm hóa và thúc đẩy nhân loại
ăn năn trở về cùng Thiên Chúa. Như vậy, đối với các Linh mục và Tu sĩ, Chúa
Giêsu chịu đóng đinh vừa là niềm hy vọng, vừa là thách đố lớn lao.
3. Dụ ngôn những người làm vườn nho sát nhân
“Có người kia trồng được một vườn nho. Ông cho tá
điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền
để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp. Nhưng họ bắt người đầy tớ, đánh đập và
đuổi về tay không. Ông lại sai một đầy tớ khác đến với họ. Họ đánh vào đầu anh
ta và hạ nhục. Ông sai một người khác nữa, họ cũng giết luôn. Rồi ông lại sai
nhiều người khác: kẻ thì họ đánh, người thì họ giết. Ông chỉ còn một người nữa
là người con yêu dấu: người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ; ông nói:
Chúng sẽ nể con ta. Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau: Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta
giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta. Thế là họ bắt cậu, giết chết rồi
quăng ra bên ngoài vườn nho... Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao: Tảng đá
thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó là công trình của Chúa,
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta! ” (Mc
12,1-12).
Dụ ngôn trên đây
mở ra trước mắt chúng ta cuộc đọ sức, tranh tài giữa lòng thương xót của Thiên
Chúa và sự độc ác của lòng dạ loài người. Ông chủ sai các đầy tớ đến, người thì
bị đuổi về, người thì bị chửi mắng, người khác thì bị sỉ nhục và bị giết. Ông
chủ lại gửi các đầy tớ khác, nhưng bọn làm vườn nho cũng xử với họ như với những
người trước. Ông chủ vẫn không nản lòng, nhưng nhẫn nại gửi thêm các đầy tớ
khác. Sau cùng, ông gửi chính con một yêu dấu của ông đến, nhưng cả người con một
này cũng bị giết. Dụ ngôn cho thấy sự độc ác nơi lòng dạ loài người càng gia
tăng thì lòng thương xót của Thiên Chúa cũng gia tăng hơn nữa và đạt tới điểm tột
cùng là sai chính Chúa Giêsu, Con Một yêu dấu của Ngài. Dụ ngôn kết thúc với sự
chiến thắng của lòng Thiên Chúa xót thương.
Đứng giữa cuộc đọ sức này là Chúa Giêsu và các
môn đệ của Ngài: chiến thắng sự độc ác bằng lòng thương xót thứ tha, chiến thắng
tội lỗi bằng tình yêu hiến tế: “Này
là mình Thầy, các con hãy cầm lấy mà ăn” (Mt 26,26); “Các con hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho
muôn người được tha tội.” (Mt 26-27-28). Sứ mệnh là dụng cụ trong tay Thiên
Chúa để Ngài có thể thi thố lòng thương xót mà cảm hóa nhân loại tội lỗi đòi
chúng ta phải trả một giá rất đắt, có khi là chính mạng sống mình hoặc tiếp tục
thương yêu cả khi phải hứng chịu tủi nhục bất công. Đó chính là con đường cứu rỗi
nhân loại được làm sáng tỏ trong câu kết của dụ ngôn: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng
góc tường. Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta! ” (Mc 12,12).
Kính thưa quý Cha
và quý Tu sĩ, để kết thúc bài chia sẻ này, tôi mời gọi tất cả cùng ngước nhìn
lên Mẹ Maria với lòng cảm mến. Xin Đức Mẹ uốn nắn lòng trí chúng ta theo tâm tư
của Chúa Giêsu, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (x. Mt 11,29)
để chúng ta dấn thân cộng tác vào sứ mệnh của Ngài, sứ mệnh cứu rỗi nhân
loại tội lỗi bằng chính tinh thần và đường lối xót thương của Ngài.
Thân mến
chào quý Cha và quý Tu sĩ.
+ Giuse Đinh Đức Đạo
Giám mục Giáo phận Xuân Lộc
[1] x. Tông sắc “Dung Mạo Lòng Thương
Xót”, số 10.
[2] Thánh Augustinô, Hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc
không thuận tiện, Bài giảng về các mục tử, 46,14-15, Kinh sách Thứ Hai Tuần
XXV Thường Niên.
Nguồn: giaophanxuanloc.net