Olga Bakhtina, “Người samaritanô nhân hậu” (2016)
ĐÓN NHẬN NHỮNG THÁCH ĐỐ
Tác giả: Fernando Filoni
Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Từ: L’Osservatore Romano, thứ Ba ngày 19 tháng Giêng 2021, số 3, tr. 8
WGPQN (21.1.2021) – “Niềm xác tín rằng
mọi người là anh chị em của nhau không chỉ là một ý nghĩ trừu tượng (...)
mà còn khiến chúng ta phải đối mặt với một loạt những thách đố” (Fratelli tutti [FT], số 128). Thách đố đầu tiên là có phải
và tại sao chúng ta là anh chị em với nhau. Khi đối mặt với những cuộc chiến
tranh hằng ngày, mọi thứ thù hận, trong quá khứ và hiện tại, chủ nghĩa khủng bố,
những hành động ác độc cá nhân và tập thể, ta tự hỏi liệu có nên và tại sao có
thể nói về tình huynh đệ; một hạn từ gây hiểu lầm về ý thức hệ cũng như chính
trị và chính cuộc Cách mạng Pháp ở thế kỷ XVIII đã khiến nó trở thành một trục
trong kỷ nguyên “mới”, một kỷ nguyên không màng đến bạo lực, phân biệt chủng tộc,
chủ nghĩa thực dân, chiến tranh và khai thác lao động, sự phát sinh những ý thức
hệ thống trị và tiên quyết (Đức quốc xã, mọi thứ độc tài, và chủ nghĩa độc tài
…).
Đối với Đức Kitô và nền văn hóa có
nguồn gốc từ Ngài, tình huynh đệ có một lịch sử khác – trong Kinh Thánh – rất
nhân bản và hiện sinh, không công nhận câu khẳng định homo homini lupus (người với người là sói – câu châm ngôn lấy
từ cuốn Asinaria của
Plautus, II, 4, 88), nhằm giải thích tính vị kỷ của con người cũng như chỉ ra
tình trạng mà con người chiến đấu với nhau để sống còn.
Nhãn quan mới mà Đức Giêsu vạch ra
là một nhãn quan “khác”. Và phải hiểu trong chính trong nhãn quan này câu nói
trong cuốn Admonitiones (Những lời
khuyên) được gán cho Thánh Phanxicô, đòi hỏi các anh em mình nhìn vào Đức Kitô
để nắm bắt lấy ý nghĩa của tình huynh đệ mà Ngài mong muốn họ có với nhau.
Theo nhãn quan Kinh Thánh, ý tưởng
huynh đệ (có trước mọi hình thức “tương quan bằng hữu” gần giống với tình bạn)
không đơn thuần xuất phát từ sự chia sẻ phụ tính hay mẫu tính sinh học mà còn
vượt qua khía cạnh sinh học được Thánh vịnh 51 diễn tả cách rất hiện sinh: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội
khi mẹ mới hoài thai” (c. 7); theo như thánh vịnh thì con người đã ý thức rằng
trong cuộc sống mình trở thành bạn đồng hành của những kẻ cắp và người ngoại
tình, những kẻ lừa đảo, và thậm chí giết cả đồng loại trong sự khinh miệt của
chính Thiên Chúa (xem Tv 50, câu 16 và tiếp theo). Lương tâm xấu xa đã dẫn đưa
Cain đến chỗ nói dối với chính Thiên Chúa khi tìm cách chối bỏ tình huynh đệ với
Aben; câu chuyện này vẫn còn tiếp diễn trong nhân loại. Nhưng chúng ta vẫn mang
trong mình tội nguyên tổ (mà thực tế dường như bị bỏ quên trong thần học và giảng
thuyết hiện đại); hơn nữa, không có tội nguyên tổ thì sẽ không còn phép rửa
từ trời (xem Ga 3, 3-8), theo như lời dạy của Đức Giêsu với ông Nicôđêmô:
ông này muốn hiểu “điều mới mẻ” mà Đức Kitô rao giảng là gì; và cũng sẽ không
còn vai trò nào cho “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1, 29) là Đức
Giêsu mà Gioan Làm phép rửa đã chỉ ra khi thấy Ngài đến với mình.
Sự gì mới mẻ đây? Đức Giêsu dạy đám
đông và các môn đệ về trung tâm của mối tương quan với Thiên Chúa, với xã hội
(cũng như tôn giáo) và với tha nhân; rồi Ngài khẳng định cách kiên quyết: “Tất cả là anh chị em với nhau” (Mt 23,
8). Ở đây không đơn giản chỉ là vấn đề thuộc về dân tộc Do Thái; Ngài mở rộng
cái nhìn, bởi vì “anh chị em chỉ có một
Cha ở trên trời” (Mt 23, 9). Với Đức Giêsu, vấn đề trở nên siêu việt như thế.
Đức Giêsu nói tình huynh đệ tìm thấy nguồn gốc mình ở trong người Cha trên trời,
và vì thế, nó vượt qua mọi phân biệt liên quan đến màu da, văn hóa hay truyền
thống. Một “nguồn gốc” mà ngay trong môi trường giáo hội dường như cũng bị
giáng hạng hay bỏ qua. Nếu lời mời gọi đến sự siêu vượt này biến mất thì tình
huynh đệ cũng sẽ gãy đổ; sự bình đẳng không đứng vững được trước mọi sức ép
khác nhau, gồm cả sức ép kinh tế và xã hội, và sự tự do sẽ thu mình lại cách vị
kỷ. Tình huynh đệ có một tầm với siêu việt. Đó là điều mà Thông điệp của Đức
thánh cha nhắc lại khi trích dẫn Thông điệp Centesimus annus của Đức Gioan Phaolô II (xem FT, số 273).
Một thách đố khác xuất hiện: nếu sự siêu việt là thật thì chúng ta nói đến Thiên Chúa nào? Câu hỏi được đặt ra cho tôi cách đơn giản nhưng sâu xa bởi một Kitô hữu sống ở Iran khi tôi phục vụ tại miền đất này và ông là người phải thường xuyên chạm trán với “Thiên Chúa của Hồi giáo”. Ông ấy nói: “Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô có phải cũng là Thiên Chúa mà người Hồi rao giảng?”. Câu hỏi không phải là không thích đáng. Những mâu thuẫn cụ thể, sự kiện thấy mình bị gọi là “kẻ ngoại đạo” (kāfir) là có thật. Abou Dhabi, trước những tương quan giữa các Kitô hữu và người Hồi giáo, (“Văn kiện về tình huynh đệ nhân loại vì hòa bình thế giới và chung sống”, ngày 4 tháng Hai 2019), là một bước đi mới, ít nhất là để không gây chiến cũng như tạo nên những khủng hoảng nhân loại. Chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa cực đoan lên án Abou Dhabi. Nhưng niềm hy vọng rằng nguồn gốc từ ông Abraham của ba tôn giáo độc thần, mà Công đồng Vatican II đã nói đến (xem Lumen gentium, số 16), đã không biến mất và có thể mang lại hoa trái. Trong bầu khí này, không phải là tình cờ khi nghĩ rằng Pacte d'Abraham (hiệp ước giữa các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE), Bahrein, và Israël, có thể mở rộng với các quốc gia khác), là một sáng kiến đã có những hiệu quả, vượt qua những ngoại giao, kinh tế, văn hóa và tôn giáo mà trước đây không hề được nghĩ đến. Đi ra ngoài lý luận của cuộc xung đột có nghĩa là hãy nghĩ khác đi và vượt lên trên.
Khi Đức Giêsu nói đến “Cha trên trời”,
chắc chắn Ngài nói đến Thiên Chúa của mạc khải thuộc về Abraham. Ngài không nói
đến một Thiên Chúa trừu tượng hay triết học; với người phụ nữ Samari (hãy nhớ lại
có sự thù hận giữa người Samari và Do Thái) đã hỏi rằng Thiên Chúa nào mà
ta phải thờ phượng thì Đức Giêsu trả lời phải vượt qua ngọn núi Garizim gần
bên mà người Samari thờ phượng “Thiên Chúa” của mình, đồng thời cũng phải vượt
qua ngọn núi Giêrusalem mà người Do Thái tôn thờ Đấng Tối Cao. Ngược lại, Đức
Giêsu nói về một “Thiên Chúa Cha” muốn được tôn thờ trong “thần khí và chân lý, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như
thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong
thần khí và sự thật” (Ga 4, 23-24). Thiên Chúa này được mạc khải qua và
trong Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, Đấng mà ta không còn có thể trừu tượng được.
Không có Ngài, ta sẽ quay về với thuyết phiếm thần (panthéisme) hay những chi phái dung hòa tôn giáo (iréniques)
và triết thần (théosophiques) về một Thiên Chúa kiểu Platon (platonique) hay thần
bí luận (ésotérique). Thiên Chúa của Đức Kitô có những đặc tính của một Thiên
Chúa Cha là Đấng trong Thiên Chúa Con đã soi sáng, cứu chuộc và hòa giải chúng
ta và trên thập giá đã mở ra cho chúng ta tình huynh đệ. Tình huynh đệ nào?
Để cất mọi nghi ngờ cho vị Tiến sĩ
luật đến xin Ngài giải thích, Đức Giêsu đã kể lại dụ ngôn về người Samari nhân
hậu (xem Lc 10, 25-37); Ngài không dùng lý thuyết nhưng sử dụng một minh họa,
và nhất là câu nói quyền lực này: “Hãy đi
và làm như vậy” (Lc 10, 37); Thông điệp của Đức Phanxicô đã minh họa dụ
ngôn này cách sáng sủa, trình bày tâm điểm thần học của giáo huấn Đức Giêsu về
tình huynh đệ và là trọng tâm của thông điệp (xem các số 56 và tiếp theo). Đức
thánh cha giải thích rằng sự tin tưởng vào “tính bổn thiện của con người” được
nhấn mạnh trong dụ ngôn (FT, số 71), điều được hình thành và bắt
nguồn trong chân lý.
Trong chân lý nào? Một lần nữa, Kitô
hữu nghĩ đến Đức Kitô: “Ta là đường’ là sự
thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Bằng những hạn từ dễ hiểu, có thể nói rằng
Đức Giêsu đã hoàn thiện cho chúng ta giáo huấn của Ngài khi nói đến những hành
động khó khăn nhất của con người, chẳng hạn như những lời dạy bảo của Ngài (xem
Mt 5, 20 và tiếp theo), về sự trả thù (“Còn
Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác…” Mt 5, 39), những mối tương
quan giữa người và người (“Nếu có người bắt
anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm” (Mt 5, 41), thái độ đối với
người có nhu cầu (“Ai xin, thì hãy cho;
ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” Mt 5, 42) hay tương quan với kẻ
nghịch (“Nếu anh em con cứ xúc phạm đến
con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không? …Thầy không bảo là đến
bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” Mt 18, 21-22). Hãy chú ý! – Đức
Giêsu nói - có một cảm tình huynh đệ nào đó cũng hiện diện giữa những người
“thu thuế” và những người “ngoại đạo”, nhưng đối với các Kitô hữu, tình huynh đệ
quy chiếu đến “Cha chúng ta trên trời” (Mt 5, 48)!
Như vậy tình huynh đệ mà Đức Giêsu
nói đến không chỉ giản lược vào dữ kiện nhân loại học hay xã hội học; đối với
Kitô hữu thì vấn đề này là thần học, là siêu việt (xem FT, số 85); nghĩa là nó cần đến
Thiên Chúa Cha, nguyên lý của mọi quy chiếu và đá gốc của mọi kiến trúc về tình
huynh đệ. Không có Thiên Chúa Cha, tình huynh đệ đi vào khủng hoảng và thường
xuyên cần đến chỗ dựa: sự khoan dung, hòa ước, quy tắc, sự phán xử, sức mạnh.
Chỉ mình lý trí không đủ tạo nên nền tảng cho tình huynh đệ (xem FT, số 272).
Là
người Thầy, Đức Giêsu là bảo đảm cho một nhãn quan vượt qua giới hạn nhân loại.
Với một nữ tu muốn rời bỏ Hội dòng vì không chịu nổi
mùi hôi thối của người nghèo, Mẹ Têrêsa Calcutta hỏi người nghèo mà chị tiếp
đón hôm ấy là ai, bà hỏi: “Đó chẳng phải là khuôn mặt Đức Giêsu sao?”, và chị nữ
tu đã ở lại Hội dòng. Đức thánh cha nói: “Đối với các Kitô hữu… nhận ra chính Đức
Kitô trong mỗi anh chị em” (FT, số 85)
cho phép ta vượt qua nhiều động cơ và những vấn nạn làm ta bất an. Điều này mời
gọi ta đến đức ái, nhân đức đối thần thứ ba, nhân đức hâm nóng mọi tương quan.
Đức bác ái vượt qua bên kia mọi chiều kích xã hội hay sinh học, nó tìm thấy
trong Thiên Chúa để yêu thương “vượt qua mọi sự vì chính Ngài, và yêu tha nhân
như chính mình vì tình yêu Thiên Chúa” (Giáo
lý Hội Thánh Công giáo, số 1822); đức ái được hoàn tất trong Đức Giêsu, Đấng
đã yêu thương những kẻ thuộc về mình đến tận cùng (xem Ga 13, 1). Thư gởi
tín hữu Do Thái đưa ra một giải thích thú vị về nhân loại được Đức Kitô đảm nhận,
khi chú thích điều mà Ngài “làm một việc
thích đáng” (decèbat, éprepen) (Dt 2,10) trong cuộc nhập thể cứu
chuộc của Đức Giêsu, “Đấng thánh hóa” và là “Người đã không hổ thẹn gọi họ là
anh em” (Dt 2, 11).
Một thách đố cuối cùng: Chúng ta là
những anh chị em, nhưng là những anh chị em “khác”? Đúng vậy, sự đa dạng không ảnh
hưởng gì đến ý nghĩa xã hội của hiện hữu hay xác tín về phẩm giá của mỗi người,
hay chiều kích huynh đệ của linh đạo (xem FT, số 86). Tính đa dạng làm thăng tiến sự phong phú của
con người và cái đẹp. Có nghĩa là ta nghĩ đến sự đa dạng không mang đặc tính
nhân ái hay phổ quát chủng tộc mà là sự đa dạng có tính sáng tạo về một hình thức
thật sự của “tình bạn xã hội” làm phát sinh chân lý, công ích và sự bình an,
qua sự chính trực của tâm hồn.
Nguồn: gpquinhon.org