ĐỊNH HƯỚNG
CHO MỘT
LINH ĐẠO SỐNG TRUYỀN GIÁO
Michel Trương
I. ĐƯỜNG HƯỚNG DẪN NHẬP
Đến nay mọi người đều có thể xác tín: Giáo Hội
chúng ta như một giáo hội Được Sai Đi, về điểm này Đức Gioan Phaolô II cũng từng
quả quyết: “Ngày xưa, hôm nay và về
sau, Giáo Hội luôn là giáo hội truyền giáo. Tính cách truyền giáo nằm trong bản
tính của Giáo Hội” (Bài thuyết giảng S 57). Thực vậy, từ khi Chúa Kitô
thực hiện công cuộc rao giảng của Ngài ở trần gian đến nay, công việc Truyền
giáo luôn được Giáo Hội quan tâm và thực thi xuyên suốt. Thêm vào đó, Giáo Hội
thường xuyên nhắc nhở, Sứ vụ này không chỉ dành riêng cho Giới tu trì và các
Nhà chuyên môn, mà còn là trách nhiệm chung của mọi thành phần trong Cộng Đồng
Dân Chúa. Nếu chúng ta, những người Kitô hữu bình thường nhưng cảm nhận được
nơi mình có một Đức tin, một tình yêu gắn bó với Thiên Chúa và mong mỏi đáp trả
tình yêu ấy bằng những hoạt động Truyền giáo, thì thiết nghĩ, bản thân phần nào
đã tìm được giá trị cao quý đời này mà còn kỳ vọng cho cõi phúc mai sau.
Qua nội dung gần đây được đề xuất ở bài viết:
“Người giáo dân tham gia trong Sứ vụ Loan báo Tin mừng”,
nhóm biên soạn đã miêu tả một dạng Linh đạo Truyền giáo khá thiết thực phù hợp
cho đối tượng Giáo dân sinh hoạt nơi Giáo Hội Việt Nam. Tuy nhiên, không thể phủ
nhận, vẫn còn một số đối tượng Tín hữu khác mà đặc biệt họ đặng diễm phúc lắng
nghe được Tiếng gọi từ Ơn trên, huyền diệu và thâm sâu, khiến ao ước khoác lên
mình một nguyện vọng phấn đấu tận lực hơn, bằng tâm huyết hy sinh để dâng hiến
cho hoài bảo Loan báo Tin mừng (LBTM) của Giáo Hội. Đồng thời đối với các Bạn ấy,
thái độ tận tụy dấn thân cũng là cách để họ đáp trả lại cho một Tình yêu cao cả
mà Thiên Chúa, bằng nhiều cách và bởi những nguyên do khác nhau, Ngài đã tiền định
nơi họ. Vì bày tỏ tâm tình ngưỡng mến và thiện ý hỗ tương cùng với các Bạn ấy
mà Bài viết này được soạn thảo ra, tất nhiên nó sẽ mang tính cách đóng góp cho
một Định hướng hơn là dụng ý trình bày theo chỉ nam khoa bảng. Ngoài ra, cũng
không nằm ngoài mục đích, nhằm định vị bước đầu cho một tiến trình, vì từ đây,
hy vọng sẽ thu thập được nhiều kinh nghiệm nơi các Đấng chuyên trách và đồng sự,
để tiến hành đúc kết đa diện các phương hướng hoạt động thuộc chuyên đề LBTM, với
hoài mong về sau có thể triển khai thêm những khía cạnh phong phú khác.
Dẫu vậy, khi tự nguyện sống hiến dâng và muốn
đi vào thực hiện ý định phụng sự chuyên sâu vì Sứ vụ, thì việc tìm chọn một
phương thức hợp lý để có thể kỳ vọng đạt được kết quả thực tiễn, làm thế nào để
không bị ràng buộc bởi những điều kiện quá khó khăn và còn phải thích ứng cho
nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội, điều mà chúng ta cần đắn đo suy nghĩ.
Song song đó không thể quên rằng, đối với người Giáo dân, bổn phận chính yếu vẫn
là mang nặng trọng trách cho gia đình và xã hội, nhất là trong bối cảnh môi trường
sinh hoạt ngày nay biến đổi thật nhanh chóng. Trong mối quan tâm đến những thực
tại như vậy, làm sao phải năng động vạch ra một hướng đi khả dĩ chấp nhận được,
thì chúng ta mới hy vọng sẽ có ngày thu hoạch được hoa trái dồi dào.
Cảm nhận rằng, khó mà có thể thoát khỏi tâm ý
áp dụng đường hướng theo Linh đạo Truyền giáo, mà hai vị: Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng
Giêsu và Cha Charles de Foucauld, đã đem lại cho Giáo Hội nguồn sức rất linh hoạt
trong chuyên đề này. Vã lại luôn thấy là, phương hướng ấy bộc lộ được tiềm năng
tối ưu dành cho nhiều thành phần đối tượng, mà họ có thể vận dụng thực thi để sống
gắn bó với tinh thần Truyền giáo. Nét ý tưởng cơ bản được rút ra từ cuộc đời
các Ngài là: Truyền giáo bằng đời sống nhân đức và cầu nguyện – Truyền giáo bằng
cách sống tận tụy nêu gương lành. Hai tinh thần ấy, xét thấy rất dễ thâm nhập
vào mọi người Kitô hữu, cách riêng dành cho những người mang nặng chí hướng lưu
tâm đến Sứ vụ, đồng thời cũng biểu hiện được đặc tính không kém phần thâm thúy
của nó. Không ai có thể cho rằng: “Thật quá khó khăn khi áp dụng gương truyền
giáo như 2 Vị đó để lại” và cũng khó có ai dám tuyên bố: “Tôi đã thực thi hoàn
hảo cung cách sống truyền giáo của 2 Vị ấy”.
Với sự hiện diện của 2 Đấng Thánh vào thời kề
cận với thế hệ chúng ta, và cùng dựa trên di sản đồ sộ trong lịch sử truyền
giáo của Giáo Hội, từ các Bậc Tiền Nhân qua các thời đại, đã tốn nhiều hy sinh
lưu lại cho hậu thế; rồi dẫn truyền đến một cơ cấu, mà vẫn còn tác động gần gũi
với nhiều người hôm nay: Hội Thừa Sai Paris. Những tín hữu mơ ước lý tưởng sống
hiến mình cho Sứ vụ LBTM, giờ đây hầu như có thể tìm thấy cho mình một hướng đi
trong hiện thực. Đồng thời, bằng việc vận dụng trên những nền tảng này, hy vọng
sẽ tạo điều kiện ngày càng có đông người sẵn sàng tích cực dấn bước vào một Sứ
mạng mang tính bất ly của Giáo Hội.
Phát sinh từ đó, Định hướng Linh đạo chuyên
sâu này, muốn phác họa vài nhận thức và áp dụng thực tiễn nhằm kiến nghị đến những
ai mang hoài bão phục vụ Giáo Hội mà tâm hồn cùng đang tìm về một tình yêu sống
động với Thiên Chúa trên tinh thần: Đón Nhận và Đáp Trả, qua cách này, mong rằng
họ tìm thấy cho mình một con đường thích hợp hoặc nhận ra một động lực thúc đẩy
để sẵn sàng dấn bước. Với khả năng bình thường của các Kitô hữu, và bằng các việc
làm đơn giản trong đời sống hằng ngày, chúng ta vẫn có nhiều cơ hội để đạt được
những thành quả mà Giáo Hội luôn mong đợi.
Để trình bày tương đối đủ những đường nét cho
một Định hướng, Bài viết sẽ diễn đạt ý nghĩa và phác họa nội dung thực hành với
4 chiều kích sau đây:
- Căn nguyên xuất phát ý tưởng.
- Các việc làm cụ thể thường ngày.
- Đời sống nhân đức thiết thực.
- Con đường tu luyện lâu dài.
II. CĂN NGUYÊN XUẤT PHÁT Ý TƯỞNG
Đầu phân mục xin mạn phép, vì Đề tựa có sử dụng
một ngôn từ chuyên biệt, do vậy cũng cần có đôi dòng miêu tả về ý nghĩa của từ
ngữ ấy. Trên quan điểm của một số Nhà Thần học Truyền giáo, thấy đề xuất một định
nghĩa cho chữ Linh đạo như sau: Linh đạo là sức vận động Thần nhân có khả năng
linh hoạt con người, mở rộng chân trời thiêng liêng, đưa con người đến một cuộc
sống thuộc về Thiên Chúa. Cuộc sống này thường dõi bước gương sáng của một
Thánh nhân, múc lấy Đường hướng do Đấng sáng lập hoặc chiếu theo kinh nghiệm từ
một Cộng đoàn Đạo đức trong lịch sử. Để từ đó, người ta có thể hướng tâm hồn
lên cùng Thiên Chúa và tiến đến phục vụ tha nhân, (tra cứu trong tiểu luận Linh đạo Truyền giáo, tác giả Felipe Gomez)
1. Ý tưởng đến từ truyền thống Hội Thừa
Sai Paris
Nhớ lại những tháng ngày lặn lội truyền giáo của
vị Giáo sĩ dòng Tên Alexandre de Rhodes (Cha Đắc Lộ) từ năm 1624 đến 1645 tại
Việt Nam, sau khi buộc lòng phải trở về Rôma vì sự bách hại ráo riết của các
vua chúa và biến cố thầy giảng Anrê Phú Yên bị xử trảm, Cha đã theo đuổi một ý
tưởng, là phải tiến tới việc đào tạo các Giáo sĩ bản xứ để thuận lợi hơn cho
công cuộc mở mang nước Chúa. Qua sự vận động của Cha, năm 1658 Đức Alexandre
VII ra Tông Chỉ Truyền Giáo và đề cử 4 vị: Đức Cha Lambert de la Motte cùng Đức
Cha François Pallu đi Việt Nam, Đức Cha Ignace Cotolendi đi Nam Kinh và Đức Cha
François de Laval đi Canada. Bốn Vị này được coi là cột trụ hình thành Hội Thừa
Sai Paris, và từ ngày đó đến nay đã hơn 350 năm. Trong suốt khoảng thời gian ấy,
người ta đã ghi lại muôn vàn những công sức của các Thừa sai, cùng với không ít
những thành tích mà các Ngài hiến dâng cho Giáo Hội. Nhưng quả thật, cũng không
thể ghi ra hết mọi hy sinh khốn khó mà các Ngài phải chịu đựng, rồi còn bao
nhiêu tâm tư, hoài bảo và thử thách đã trải qua trong cuộc đời lao nhọc quên mình
ấy. Nhận định duy nhất mà người ta có thể tìm thấy chung nơi các Vị, hẳn có một
sự gì gắn kết để từ đó, phát ra lòng hăng say nhiệt thành đi truyền giáo, phải
chăng đây chính là Tình yêu nơi Thiên Chúa. Tình yêu ấy vẫn lưu truyền đến nhiều
thế hệ sau và hiện đang còn tiếp tục cống hiến cho các Giáo hội non trẻ hoặc xa
xôi dưới nhiều hình thức, ngay cả đối với Giáo hội Việt Nam, ở dạng giúp phương
tiện cho các Linh mục sang du học bên Châu Âu.
Lược lại đôi dòng về hoạt động của các vị Thừa
sai trong quá khứ và hiện tại, lòng chúng ta không khỏi mang nhiều khoắc khoải
tự vấn: xem kìa, biết bao con người đã hy sinh trọn đời mình vì Sứ mạng Truyền
giáo, phần chúng ta, mặc dầu không là Giáo sĩ như họ, nhưng chúng ta cũng có thể
hy sinh một phần cuộc sống của mình cho cùng mục đích ấy không? Nếu không là Chứng
nhân bằng cả một đời, thì vẫn có thể dành ra một phần nho nhỏ để phụng sự vì
tình yêu trọng đại như các Vị ấy đã làm. Vả lại, bối cảnh khó khăn nơi các xã hội
ngày nay, việc những Giáo sĩ nước ngoài đến các quốc gia khác để hoạt động Truyền
giáo, thấy ngày càng có nhiều trở ngại. Vậy thì chính nguồn nhân lực địa phương
đã được các Ngài gầy dựng trong quá khứ, nay có thể cất bước để cùng chung sức
chăm lo cho cánh đồng luôn cần thợ gặt.
2. Ý tưởng đến từ cuộc đời Thánh Nữ
Têrêsa Hài Đồng Giêsu
Hội Thánh đã phong tặng cho hai Vị thánh có
cùng một danh hiệu: Quan Thầy Các Xứ Truyền Giáo, đó là Thánh Phanxicô Xaviê, hầu
như Quan Thầy cho bậc Giáo sĩ truyền giáo chuyên môn; còn Thánh Nữ Têrêsa thì
làm Quan Thầy thân thiết hơn đối với mọi Tín hữu có tinh thần truyền giáo. Điều
mà Thánh Nữ bày tỏ: “Hy sinh trong đời
sống thường ngày để cầu nguyện cho công cuộc Truyền giáo là hữu hiệu và kết quả
hơn cả”, khiến chúng ta được mạn phép phát biểu như thế. Quả vậy, tinh thần
phó thác, đời sống nhân đức, siêng năng cầu nguyện, tấm lòng tha thiết gắn bó với
Tình yêu Thiên Chúa là những phương thức linh nghiệm mà mọi người dù tầm thường
nhất vẫn có được cơ hội để trở thành kẻ đóng góp to lớn cho Sứ vụ. Sáng kiến của
Thánh Nữ đã làm kéo thấp xuống những đòi hỏi về điều kiện phương tiện để ra đi
truyền giáo, nhưng lại giúp chúng ta, những Tín hữu không chuyên, được dễ dàng
nâng cao lên liên kết trong tình yêu Thiêng Liêng mà dâng hiến cho Sứ vụ. Chính
nhờ cảm nhận một cách mạnh mẽ Tình Yêu ấy, đã dẫn đưa cuộc đời Thánh Nữ thể hiện
một cung cách thánh thiện phong phú cùng với lòng sốt mến luôn cầu nguyện hướng
về mục tiêu Truyền giáo. Ngài còn xác tín thêm hầu nhắn nhủ chúng ta quan tâm về
mối liên kết này, như một động lực thôi thúc cho mọi hoạt động trong đời sống tận
hiến: “Con tìm ra chỗ đứng của con
trong Giáo Hội, Ơn gọi của con là Tình Yêu”. Những ai theo đuổi ước
nguyện Sống Truyền Giáo, thì còn gì hơn khi noi gương Thánh Nữ để tìm thấy cho
mình một con đường thênh thang mà phục vụ lý tưởng, con đường này, dù phải chịu
mọi ảnh hưởng của bao biến chuyển thời thế xã hội, nhưng nó vẫn luôn giữ được
giá trị linh nghiệm, mà thẳng lối tiến về cùng đích vinh quang Nước Chúa.
3. Ý tưởng đến từ hành trình phục vụ của
Cha Charles de Foucauld
Nếu nhìn lại thời kỳ hồi còn chiến tranh, có
người len lỏi hoạt động nơi lòng đất địch, quả là một việc làm hết sức gay go
và nguy hiểm. Đó là chuyện của thời chiến, còn lịch sử Giáo Hội thì ghi lại cho
chúng ta một gương anh dũng về hình ảnh Cha Charles de Foucauld, Ngài đã trải
qua một quãng đời để đem tình yêu cao cả hòa nhập và chia sẻ với các anh em Hồi
Giáo ở miền sa mạc Sahara. Những tháng năm từ 1900 – 1916, Cha đã có mặt ở các
vùng đất nóng bỏng Benis Abbes, Tamanrasset trong khu vực sa mạc Sahara đầy khắc
nghiệt và nguy hiểm. Cha say mê tìm đến nhiều người thuộc tôn giáo khác, các thổ
dân tin vào thần linh nhưng chưa nhận biết Thiên Chúa và những nhóm du mục sống
trong hoang địa. Bằng mọi cách Cha làm quen rồi học tiếng của họ, Cha không thuyết
phục mọi người theo Đạo, nhưng cố nêu cao tinh thần hoạt động tông đồ, phục vụ
bác ái. Ban ngày Cha làm việc để giúp đỡ những nhu cầu sinh hoạt cần thiết cho
số người thổ dân, chiều về một mình, Cha sống chiêm niệm, tu đức tại căn nhà
riêng nghèo nàn thô sơ.
Từ những lý do của xu hướng hẹp hòi nơi con
người thời đó, như kỳ thị sắc tộc, chống ngoại bang, tôn giáo độc tôn, tính
ganh tị…, nhóm người thuộc bản dân Touaregs mang nhiều hiềm khích và muốn tiêu
diệt đi lòng yêu thương của Cha đối với các bộ tộc khác trong sa mạc, nên dẫn đến
cho Cha cái chết bi thương lúc sập tối ngày 1-12-1916. Cha đã để lại cho hậu thế
một tấm gương bằng cuộc đời mong mỏi tìm theo chân lý và những bài học mới để
xây dựng thành trì Nước Chúa.
Tính đa dạng trong cuộc sống của Cha, khi ở
quân đội, lao công làm vườn, ẩn tu, sống với thổ dân… như có ý mời gọi chúng ta
về nhận thức: Tuy mỗi người một hoàn cảnh, điều kiện sinh sống khác nhau nhưng
vẫn có thể cùng hòa nhập, miễn là, có chung tâm nguyện mưu cầu yêu thương gắn kết
và ước muốn san sẻ cho nhau. Song song đó, cuộc đời truyền giáo của Cha cũng
nêu lên đặc điểm: Bằng việc tu đức bản thân và đón nhận Tình yêu Thiên Chúa như
là nguồn sức hoạt động, ta có thể tiến đến với tha nhân bất luận thành phần nào
mà ta gặp trong mọi hoàn cảnh cuộc sống, hầu chia sẻ Tin Mừng Chúa Kitô mà
không cần dùng lời nói để giới thiệu. Niềm vui tươi hạnh phúc nơi tâm hồn đến từ
lòng cậy trông Thiêng Liêng đích thực và biểu hiện qua đời sống hiến mình phục
vụ, thì cũng nhờ vào nét đặc trưng này, mà có thể dễ dàng lôi cuốn người khác đến
với lý tưởng Kitô Giáo. Phải chăng đây chính là hình thức Truyền giáo bằng
Gương lành mà chúng ta được mời gọi thực hiện, như để đáp lại nỗi băn khoăn của
Đức Phaolô VI trong ý phát biểu: Con người ngày nay không muốn nghe những Vị giảng
thuyết, nhưng muốn nhìn những chứng nhân.
Đúc kết từ 3 ý hướng vừa nêu trên, Quý bạn Tác
viên LBTM có thể áp dụng thực hành vào đời sống gắn bó với Sứ vụ theo các tôn
chỉ như sau:
- Sống hy sinh vì
công cuộc Truyền giáo theo bước các Vị trong Hội Thừa Sai Paris.
- Sống nhân đức, cầu
nguyện cho Truyền giáo như gương Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu.
- Sống thực thi
gương lành để Truyền giáo xuất phát từ đời hoạt động của Cha Charles de
Foucauld.
Ngoài ra, còn một đặc nét mà người ta có thể
nhìn thấy điểm chung nơi 3 đối tượng vừa trình thuật bên trên, khiến cho phải
liên tưởng thêm về một ý xuất phát thứ tư. Ý này giúp chúng ta có được một hướng
đạo đồng nhất để liên kết lại từ những nhân tố rời rạc.
4. Ý tưởng đến từ Tình yêu nơi Thiên
Chúa
Cần thừa nhận rằng ý tưởng này làm cốt lõi cho
hướng đi và cũng là động lực chính yếu để từ đó phát sinh ra mọi hoạt động vì Sứ
vụ LBTM mà chúng ta sẽ đảm nhận. Thực vậy, tình yêu gắn bó nơi Thiên Chúa đã được
thể hiện rõ nét nơi các Đấng Thánh và các Vị Tiền Nhân mà chúng ta đang lần
theo dấu vết của họ, cùng minh chứng cho lời giải thích, vì sao các Ngài có thể
cống hiến trọn đời mình để phụng sự cho lý tưởng Truyền giáo. Tình yêu nơi
Thiên Chúa không thể tách rời với ý định phục vụ Giáo Hội qua việc dâng hiến vì
Sứ vụ LBTM, nhất là khi chúng ta chọn một phương hướng hành sự mà kết quả của
nó chỉ có thể cảm nhận theo cách gián tiếp mà thôi. Có nghĩa là, nếu như thuyết
phục được nhiều người dự tòng đồng ý theo Đạo và chịu Phép Rửa, thì đó là thành
quả biểu hiện trực tiếp đối với vị Giáo sĩ từng có công truyền bá Đức tin cho họ,
còn chúng ta, thì không thể gặp được hoàn cảnh như thế. Như vậy trong tiến
trình phục vụ, các Tác viên LBTM có thể nhận ra những đối tượng tha nhân cụ thể
để quan tâm tác động đến, còn việc thấy được kết quả như thế nào thì phải nhìn
sang một dấu chỉ khác.
Do vậy, ý niệm Đón Nhận và Đáp Trả hiện hữu
qua tình yêu nơi Thiên Chúa là 2 thực thể tái diễn liên tục trong suốt quãng đời
khi ta còn tâm nguyện thi hành theo như Thánh ý của Ngài. Lúc đón nhận tình yêu
Thiên Chúa ở buổi ban đầu, qua sự cảm nhận đặc biệt từ những biến cố thông thường
của cuộc sống, như thói quen người ta hay nói: “Tiếng Chúa gọi nơi tâm hồn mỗi
người”, nghe theo Tiếng Gọi đó, chúng ta được thôi thúc để cải thiện, thánh hóa
hơn trong đời sống và còn kết hợp với Ngài hầu tiến vào con đường phục vụ vì
thánh danh Ngài. Thì nếu như ở từng người dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể
ai đó sau khi thăng tiến trên đàng thánh thiện hoặc dấn thân, rồi tự cảm nhận
nơi mình có một tâm tình gắn bó mật thiết hơn trước, hoặc vả, nhận ra một tình
yêu huyền nhiệm sắc nét hơn trong tình Ngài, để rồi từ đó, khiến cho càng có
thêm nhiều động lực tận tụy hiến dâng. Phải chăng đây chính là chặng đường của
các bước hoán chuyển liên hồi trong tiến trình Đón Nhận và Đáp Trả. Đồng thời
qua đó, giúp biểu hiện ra cho ta cảm nhận, đây chính là kết quả hoạt động của
những người con đang mang chí hướng phụng sự vì danh Ngài. Vậy thì, Tình yêu
nơi Thiên Chúa là động lực khởi điểm lúc ban đầu, mà cũng là, cùng đích để mọi
người chúng ta vươn tới.
III. CÁC VIỆC LÀM CỤ THỂ THƯỜNG NGÀY
Từ những hình ảnh được minh họa về các mẫu
gương trong phần Ý tưởng Xuất phát, các Tác viên LBTM đang theo đuổi chí hướng
Sống Truyền Giáo, có thể vận dụng noi gương các Ngài để dấn thân phục vụ vì lý
tưởng của mình. Cho đặng thực tiễn, Quý bạn có thể mượn hình thái hoạt động, là
tuân thủ theo những nguyên tắc sinh hoạt có sẵn theo thông lệ nơi Cộng đồng
Giáo hội, nhưng tinh thần hiến dâng thì vì mục đích Truyền giáo, vậy xin được đề
nghị một số tiêu chí cụ thể như sau:
1. Hy sinh thu nhập
Theo gương hy sinh của các Đấng Bậc đã cống hiến
đời mình cho Giáo Hội, chúng ta mạnh dạn tiến hành việc làm cơ bản cụ thể là hy
sinh thu nhập. Sau khi lượng ước được mức thu chi của mình để chu lo đời sống vật
chất bản thân và gia đình theo tinh thần phán truyền của Thiên Chúa trong Sách
Sáng Thế: “Ngươi phải làm việc đổ mồ
hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất” (St 3, 19). Chúng ta
phải dành phần lớn của cải làm ra cho sự sinh tồn mọi người trong gia đình và
còn phát triển con cái. Tuy nhiên, cũng có thể chỉ dành lại một phần nhỏ để thể
hiện tấm lòng quảng đại mà chung sức chăm lo cho công cuộc mở mang Nước Chúa.
Do vậy, mức đề nghị đóng góp có thể tương đương từ 2% đến 5% thu nhập, chúng ta
dùng khoản này để hỗ trợ cho các Hội dòng Thừa Sai đang hoạt động Truyền giáo
trong Giáo Hội.
2. Hy sinh thời giờ, công sức làm việc
thiện ích
Việc phục vụ công ích là hình ảnh mang nhiều ý
nghĩa tích cực cho Truyền giáo: thể hiện sự gắn bó mật thiết tình người, cơ hội
để bên ngoài thấy được nét đẹp Tôn giáo, nêu cao tính cộng đồng, vì lợi ích xã
hội… Lượng thời gian đề nghị chừng 1 ngày trong một tháng, hoặc tương đương 2
tuần ngày công/năm. Chúng ta có thể vận dụng số thời gian này để thực hiện những
công tác như thường thấy có thói quen hay làm: đến giúp việc tại thí điểm truyền
giáo của Giáo phận, tu bổ và lo vệ sinh Nhà thờ hay cơ sở, chăm sóc các gia
đình nghèo, tham gia tổ chức Lễ hội của Họ đạo… Những hy sinh phục vụ này không
nhất thiết chỉ gắn bó trong các cộng đoàn Giáo Hội, nhưng đôi khi còn có thể đồng
tham gia với tôn giáo bạn trong những đợt phát động chương trình vì lợi ích xã
hội, nhân đạo, cứu trợ thiên tai v.v... Như thế, phần nào chúng ta được dịp để
dõi bước theo Cha Charles de Foucauld, khi xưa Ngài cũng từng trải qua cuộc sống
chia sẻ hòa nhập. Điều cần chú trọng trong khi làm việc, chúng ta nên thể hiện
tính hòa mình chung sức với nhau một cách thân thiện và bồi dưỡng đức vâng phục
theo ý chỉ Bề trên.
3. Trau dồi kiến thức
Đây là một vấn đề không thể thiếu quan tâm,
vào những thế kỷ đầu khi đời sống tu trì mới vừa thấy xuất hiện trong Giáo Hội,
nhiều vị khổ tu thời đó có chí hướng tu trì rất nhiệt huyết nhưng kiến thức thì
thô sơ, và vì thiếu am hiểu nên đã phô diễn những lối hành đạo không phù hợp với
lẽ tự nhiên thông thường. Trước viễn cảnh đó, Thánh phụ Bênêđictô trong lúc đưa
ra Bộ Quy Luật Dòng Tu, Ngài đã chú trọng đến việc đòi hỏi các Tu sĩ phải có một
số kiến thức cơ bản cần thiết. Về phần chúng ta, với danh gọi là Sống truyền
giáo, cho dù phương thức là không quảng bá bằng lời nói, nhưng chúng ta cũng cần
phải có ít nhiều kiến thức về Tôn giáo mình trong khi nghĩ đến chuyện truyền đạo.
Do vậy, sau khi am tường phần Giáo lý cơ bản, có thể cậy nhờ đến Quý Linh mục,
Tu sĩ chuyên môn hoặc sử dụng các nguồn tài liệu đáng tin cậy để thường xuyên
tìm hiểu khái lược về vài môn đề nghị như: Thánh Kinh, Kitô học, Truyền giáo học,
cơ cấu và lịch sử Giáo Hội v.v… Đồng thời, vì thế giới ngày nay mọi sự biến
chuyển một cách lạ thường, nên chúng ta cũng cần dành ra ít thời gian để chú ý
theo dõi những tin tức quan trọng có liên quan tới Giáo Hội và các biến cố thuộc
lãnh vực nhân đạo.
4. Hướng tới một đời sống công chính
Đề mục này được trình bày không hẳn có liên
quan đến tất cả mọi người. Trong quá khứ với những hoàn cảnh ngẫu nhiên đưa đẩy
có thể một vài trong chúng ta đang sinh hoạt với một cuộc sống rơi vào tình trạng
tiêu cực của các đức tính như: lòng nhân hậu, lẽ công bằng, đức trong sạch, ý
thức chu toàn bổn phận, biết tự trọng cá nhân v.v… Nếu là chấp nhận dấn thân
vào con đường Truyền giáo, khi biểu lộ thiếu hoàn thiện các điểm kể trên một
cách quá rõ nét thì sẽ tạo ra sự tương phản. Vài tình trạng cuộc sống còn thiếu
sót xem ra hết sức thông thường, nhưng muốn khắc phục thì lắm gay go như: tính
nóng nảy với người cấp dưới, cân đong thiếu chính xác trong khi buôn bán, quan
hệ nam nữ một cách dễ dãi, chưa quan tâm đủ đối với con cái hoặc người thân,
say sưa chè chén, kém thi hành kỷ luật trong một tổ chức v.v… Tất nhiên một khi
đã mang nhận thức cần phấn đấu để sửa sai điều gì, thì chúng ta phải mất một thời
gian khá lâu mới có thể chỉnh đốn lại được. Mọi người thuộc giới am hiểu sẽ chấp
nhận sự thể hiện tính hướng thiện, hơn là đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện
ngay. Vì tinh thần làm chứng nhân mà can đảm từ bỏ những thói quen không tốt
cũng là một hình thức hy sinh đáng kể.
5. Ứng phó trước nỗi khốn của người
thân cận
Cần chi phải tìm đến những tha nhân quá xa xôi
để khám phá họ có đúng là đối tượng đang cần nương tựa vào lòng hảo tâm của
chúng ta hay không. Thường ngày vẫn còn biết bao kẻ thân cận xung quanh mình,
luôn trông chờ đến sự giúp đỡ thật chính đáng, mà chúng ta chưa quan sát đủ để
nhận ra hoàn cảnh họ. Ý trình bày trong mục này, vậy là không hẳn phải đợi việc
hệ trọng thì mới ra tay, nhưng bất cứ tình huống gì dù lớn hay nhỏ, nếu đang cần
đến sự can thiệp của mình và trong khả năng có thể, thì nên mau mắn động lòng
xót thương mà ứng phó ngay. Những biến cố xảy đến trong đời sống hằng ngày như:
tương thân xóm giềng, giảng hòa bất bình, giúp ma chay, cứu trợ thiên tai, kẻ ốm
đau, thiếu ăn, thiếu mặc, lỡ đường lỡ bước v.v... đời người ai mà không từng chứng
kiến qua mấy cảnh tượng đó. Tính biết quan tâm theo dõi hay thích hờ hững đối với
nỗi khó của kẻ khác, đôi khi còn nhờ Ơn Chúa thúc giục nơi ta, Ngài vẫn mong mỏi
chúng ta biết sẵn sàng thi thố một cách quảng đại để rồi Ngài sẽ hoàn công lại
bội phần. Trong dân gian rất nhiều người đồng ý về quan điểm này, tuy nhiên đối
với chúng ta, thì phải xem đây thuộc vấn đề bổn phận chính yếu trong khi thi
hành Sứ vụ. Mọi kẻ chung quanh chứng kiến cách hành xử của Bạn mà nhận ra ngay,
người đó phải là một kẻ nòng cốt trong một Đạo giáo. Cuộc đời Cha Charles de
Foucauld đã như một tấm gương muôn đời cao quý, Ngài lặn lội tìm đến những người
trong sa mạc rất cần sự giúp đỡ, để rồi tận tụy cống hiến cho đến hơi thở cuối
cùng.
6. Công du hành hương
Đặc tính về mặt xã hội, nơi Hành hương thường
gây nhiều sự chú ý đối với người ngoài Tôn giáo mình. Đó cũng là nơi giúp chúng
ta hướng tâm hồn để cầu nguyện, giúp mở rộng tầm nhìn và còn có thể tạo cho
chúng ta cảm nhận được cách mạnh mẽ hơn về mối liên kết giữa bản thân và các Đấng
Thiêng Liêng, hầu dẫn đến một đời sống nội tâm vững mạnh và có chiều sâu đáng
ghi nhận. Đó là những nguyên do hữu ích có thể mang lại cho chúng ta từ việc đi
hành hương, hơn là so với ý nghĩ thông thường: Chỉ là nơi để xin ơn.
Nhờ áp dụng những việc làm cụ thể như vừa nêu
trên, đồng thời chú tâm thực thi các lời dạy trong Phúc âm về Đức ái, người Tác
viên LBTM có thể phục vụ cho lý tưởng mình mà không cần giảng đạo. Tuy nhiên,
cũng không loại trừ trong trường hợp qua quá trình tiếp xúc của đời sống sinh
hoạt thường ngày, nếu có bằng hữu nào tình cờ thắc mắc hỏi chúng ta về Chúa, về
Hội Thánh v.v... thì không nên tự ý hàm hồ giải thích, nhưng cần dẫn dụ và tạo
điều kiện cho họ để đến gặp các vị Linh mục, Giáo sĩ chuyên môn, mà thực hiện
việc phúc đáp.
IV. ĐỜI SỐNG NHÂN ĐỨC THIẾT THỰC
Nhằm nâng cao đời sống nhân đức cá nhân, đồng
thời dùng việc nhân đức như giúp linh nghiệm hóa những tâm tình cầu khẩn cho Sứ
vụ Truyền giáo. Chúng ta có thể thực hiện sinh hoạt các nghi thức theo thông lệ
đã sẵn có trong Giáo Hội, nhưng sẽ thi hành cách thường xuyên và sốt sắng hơn.
Nếu được cũng nên quan tâm thêm, về việc tìm hiểu thông suốt ý nghĩa phong phú
của các nghi thức Phụng vụ. Đến đây xin được liệt kê cụ thể một số tiêu chí như
sau:
- Ngoài luật định
tham dự thánh lễ Chúa Nhật và các ngày Lễ buộc, chúng ta có thể đến với 1 hay 2
Thánh lễ khác trong tuần, quan tâm chọn lễ Trọng, Lễ kính Thánh Bổn Mạng và các
vị Thánh lớn.
- Ăn chay kiêng thịt
vào ngày Thứ sáu đầu tháng, thêm vào đó, nếu được thì có ý hãm mình trong những
Thứ sáu hằng tuần. Đặc biệt dành tâm tình cao độ để sống Mùa Chay theo Lịch Phụng
Vụ Giáo Hội.
- Đề cao việc năng
lãnh nhận Phép Thánh Thể là điều mà hai vị Thánh biểu tượng của chúng ta, Thánh
Nữ Têrêsa và Cha Charles de Foucauld thường xuyên nhắc đến trong những bút tích
các Ngài. Chúng ta không quên nguồn sức hoạt động chủ yếu của công việc Truyền
giáo là đến từ Tình yêu Thiên Chúa, và cũng hiểu tường tận rằng, Bí Tích Mình
Máu Thánh chính là phương cách thiết thực nhất giúp đạt tới Tình Yêu ấy.
- Bí tích Giải tội
có giá trị quyết định để tác động Cha Charles de Foucauld khi xưa quay về với
Chúa và trở thành một tông đồ nhiệt thành. Phần chúng ta, ở đoạn sau sẽ có dịp
bàn tới giá trị tinh thần sám hối của đời sống phục vụ. Trong mục này xin được
kiến nghị việc làm cụ thể như sau: Chúng ta có thể suy xét rồi ấn định cho mình
một định kỳ thời gian hợp lý để đón nhận Bí Tích này, tuy nhiên, nếu khi cảm thấy
vừa phạm tội trọng thì cần xin lãnh ngay, vào lúc sớm nhất có thể được.
- Đề nghị gắng
siêng năng thực hiện lần hạt Mân Côi, đề nghị mỗi tuần ít là 3 chuỗi 50 : Năm sự
Vui, Năm sự Thương và Năm sự Mừng.
- Duy trì các buổi
kinh gia đình như Kinh hôm, Kinh mai hoặc Kinh trước hay sau bữa ăn v.v... Nếu
có thể tốt lành hơn, thì chọn ra một việc nhân đức nhỏ để mọi thành viên trong
gia đình cùng chung nhau thực hiện.
- Noi gương Thánh Nữ
Têrêsa để thường xuyên sống tâm tình cầu nguyện mật thiết với Thiên Chúa trong
mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nhìn lại quãng đời Chúa Kitô trong khi đi rao giảng,
Ngài đã hay cầu nguyện cùng Chúa Cha ở nhiều biến cố. Các Nhà chuyên môn Thần học
Truyền Giáo có câu: “Cầu nguyện là yếu
tố cấu thành của các phương pháp Truyền Giáo”(Felipe Gomez). Xin cũng có lời
lưu ý, nên thận trọng với cung cách lải nhải chưa đạt đủ tính nghiêm túc, cần
có sự sắp đặt vào những thời điểm hợp lý trong ngày để tập trung tâm tình thánh
thiện cho việc cầu nguyện.
Bước nâng cao của đời sống Suy niệm và Cầu
nguyện, chính là cảnh giới Chiêm niệm. Trong khi giới thiệu về sinh hoạt tâm
linh này, các Nhà thần học hầu như đều có phát biểu: Đó là Ơn huệ đặc thù dành
riêng cho một số người. Tuy vậy, tiêu chí ấy lại là điều đòi buộc đối với các
Nhà thừa sai chuyên biệt ít nhiều phải có. Vì thế, Bài viết khuyến khích các bạn
Tác viên, nếu có điều kiện thích hợp thì cũng nên tìm cơ hội để nghiên cứu và
thử nghiệm thực hành về chủ đề này.
Chúng ta cũng thừa nhận rằng, hằng ngày vì bận
rộn với cuộc sống bôn ba nên việc liên tưởng đến đời sống hiến dâng một cách
liên tục như những Bậc tu trì là điều khó khăn. Do vậy, ý mong muốn là các Tác
viên định ra một hạn kỳ, giả định vào mỗi Thứ bảy đầu tháng, chúng ta tìm đến
Thánh lễ để hướng tâm tình lên cùng Thiên Chúa, qua Lời cầu bàu của Mẹ Maria,
xin Chúa thương đoái mọi nỗ lực cố gắng của chúng ta trong khoảng thời gian ấy và
khẩn cầu Ơn trên chúc phúc cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội. Còn về phần
một vài người anh em gặp những khó khăn trắc trở trong cuộc sống mà cần xin Ơn
phù trợ hoặc muốn nhờ cộng đoàn hiệp tâm cầu nguyện cho, thì có thể làm thêm
các việc nhân đức khác.
Ngoài đề nghị những nhân đức như trên, chúng
ta xem xét đến một việc quan trọng cần phải thực thi để thể hiện sức sống căn bản
của người Kitô hữu và nhất là khi mang tâm huyết hoạt động Loan báo Tin mừng,
đó là: Thiện tâm Sống Lời Chúa:
- Xin được trình
bày phương thức sau đây, vừa đơn giản vừa phù hợp cho những Tín hữu thông thường,
chưa thông hiểu cao độ. Mỗi ngày Chúa Nhật khi dự Thánh lễ, chúng ta hết sức
chú tâm lắng nghe 3 Bài đọc, thậm chí cả bài Thánh Vịnh Đáp ca, câu chúc tụng
Alleluia, rồi từ đó, chọn cho mình chỉ cần một câu, một ý tưởng mà gây ấn tượng
nhất để có thể ghi nhớ và dễ áp dụng thực tiễn cho đời sống trong tuần hoặc
luôn cả về sau. Nên thường xuyên nhắc lại trong tâm trí ý tưởng này mỗi ngày và
tìm dịp thực thi lời dạy từ ý đó. Việc lắng nghe bài giảng chia sẻ của Linh Mục
cũng sẽ dễ cho ta chọn được một ý tưởng thích hợp và thông hiểu về nó sâu sắc
hơn.
Còn thêm một nhận thức khác khó mà không lưu
tâm tới, tiêu chí này cũng thuộc về đời sống nhân đức. Theo thiết nghĩ, nó sẽ
có ảnh hưởng rất lớn cho hiệu quả đối với đời hoạt động Sứ vụ của chúng ta.
- Nhân đức phó
thác: Một trong những nhân tố cơ bản cần thiết để thực hiện tốt phương thức
Truyền giáo bằng cách nêu gương lành, là tinh thần chấp nhận thực tại của cuộc
sống và sống phó thác. Vì khi chúng ta phục vụ, cần phải được xuất phát từ một
nền tảng của tâm hồn bình an trong thánh thiện, rồi thể hiện ra bên ngoài để
chi phối và điều khiển mọi sinh hoạt. Một cách ý thức để đạt tới Bình an đó là
Lòng vững tin vào Chúa Quan Phòng. Về quan điểm này thì Giáo Hội đã từng có rất
nhiều huấn từ dạy bảo cho cộng đồng Tín hữu. Vấn đề được bàn thảo ở đây, là
mong muốn nhấn mạnh hơn về yếu tố trong phần ý tưởng mô tả về Cha Charles de
Foucauld: Nhờ vào Đời sống tu luyện và Ơn Trợ Giúp, chúng ta luôn sống trong
vui tươi, hạnh phúc và công chính để làm thu hút sự quan tâm của những người
chưa thuộc về Tôn giáo mình. Thực vậy, khi chúng ta làm những việc lành, nói là
để nêu gương, nhưng lại thể hiện nơi mình một vẻ mặt sầu khổ, chán chường với
cuộc sống, điều đó thấy không phù hợp. Vậy chuỗi bước dẫn đến tâm trạng sống tốt
lành theo xem xét là: Chấp nhận > Phó thác > Bình an > Vui tươi, Hạnh
phúc. Việc chấp nhận mọi hoàn cảnh cũng như nghịch cảnh trong cuộc sống, dưới sự
vâng phục và phó thác vào một Niềm tin, thì chính là Nhân đức vậy.
V. CON ĐƯỜNG TU LUYỆN LÂU DÀI
Tu luyện lâu dài được hiểu như là, việc muốn
trau dồi một số đức tính cơ bản sắp được bàn luận dưới đây và đặt ước đoán, đến
khi nào thì có thể đạt mức kiện toàn ? Thật khó mà có lời giải đáp, nếu
không muốn phát biểu là chẳng bao giờ. Tuy nhiên, với tâm tình hướng thiện và
phấn đấu thực sự, chúng ta có thể ghi nhận kết quả theo cách tương đối: Tháng
sau thì khả quan hơn tháng trước, năm nay có tiến bộ hơn năm rồi. Sở dĩ cần đặt
ra con đường Tu luyện này, là vì tiêu chí phải thể hiện nổi bật đặc tính Gương
lành và Nhân chứng Phúc Âm trong quá trình theo đuổi lý Linh đạo. Trải qua cuộc
sống thường ngày, chúng ta hãy còn những thói quen do bị vướng mắc bởi gốc tích
Ách tội Tổ tông và khi để nó bộc lộ ra bên ngoài khá tự nhiên, thì song song
như vậy, khó mà có thể biểu hiện cho mọi người xung quanh thấy được nhân cách từ
một Tín ngưỡng có bản chất Đạo lý tốt đẹp, mà chúng ta cần quảng bá. Nhất là
khi chọn yếu tố Sống nêu gương như một phương thức để truyền giáo. Vậy kính đề
nghị cùng nhau xem qua vài đề mục bàn về lãnh vực phong cách sinh hoạt, mà thấy
là đáng được lưu tâm hơn, hầu làm chuẩn mực cho con đường Tu luyện của những kẻ
mang tâm nguyện Sống Truyền Giáo.
1. Một đời sống biết năng sám hối
Trong Tân Ước, để khởi sự cho Sứ mạng tiên
báo, Thánh Gioan Tẩy Giả đến trong hoang địa và phát ngôn đầu tiên: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”
(Mt 3, 2). Khi Ông Gioan bị nộp, từ lúc đó đến lượt Đức Giêsu bắt đầu rao
giảng và Ngài nói rằng: (cũng cùng những lời như trên) (Mt 3, 17). Thêm vào đó trong lịch sử
Giáo hội, có rất nhiều gương các Thánh đã sống phản ảnh với câu nói: Thánh nhân
chính là một tội nhân đã trải qua quá trình sám hối. Điển hình là bối cảnh trở
lại của Cha Charles de Foucauld, rồi sau đó trong suốt quá trình tìm Chúa và phục
vụ tha nhân, Ngài luôn biểu hiện tâm tình thống hối ấy. Qua các chứng cứ như vừa
nêu, có lẽ đủ để thôi thúc chúng ta cần coi trọng tinh thần này trong khi mang
ước nguyện phục vụ Thiên Chúa bằng một hoạt động Thánh thiện, mà Người cũng
luôn có ý mời gọi chúng ta biết Sám hối như thế. Trong sinh hoạt Giáo hội, thấy
cũng hằng chú tâm tương tự khi sắp đặt đầu năm Phụng vụ là Mùa Vọng để mọi người
nghĩ đến việc hối cải, đầu thánh lễ cũng có cùng nghi thức đó… Khi hiệp thông với
Giáo Hội theo Lịch Phụng Vụ, đồng thời tự tổ chức cho mình những định kỳ thường
xuyên để sống trong tâm tình ăn năn hối lỗi, thì hy vọng chúng ta sẽ đón nhận
được nhiều Hồng ân cần thiết từ Thiên Chúa, hầu giúp ta đủ sức phụng sự Người.
Việc quan tâm lo xét mình và hoán cải, về mặt tự nhiên, còn giúp cho xây dựng đời
sống bản thân thêm chín chắn và hợp lý hơn, đồng thời cũng tạo cho dễ dàng
tránh đi tính kiêu căng, một đề tài sắp bàn luận ở mục kế tiếp.
2. Quan tâm chăm sóc Đức khiêm tốn
Nếu bỏ ra ít thời gian bàn luận về vấn đề này,
dù chỉ với ít dòng chữ, thì thấy có vẻ cũng hơi uổng công, thật vậy, vì từ ngàn
xưa người ta đã tốn quá nhiều giấy mực cho đề tài này rồi. Tuy nhiên, những gì ở
đây buộc lòng bàn luận cân nhắc chỉ vì liên lụy đến ích lợi đối với thi hành Sứ
vụ. Trong khi ý thức về đời sống gương lành, giả định một người tự nhủ: “Làm
cách nào mở cánh cửa tâm hồn để mọi người đến được với ta và ta đến với mọi người ?”,
hoặc ngược lại “làm sao phá được bức tường ngăn cách nào để người khác đến được
với mình, và…”, khả năng ai cũng không khó trả lời mấy câu đó, là cánh cửa Đức
khiêm tốn và bức tường Tính kiêu căng. Nhìn theo một hướng khác như giúp cho dễ
chế ngự, nếu nơi một người có tinh thần trách nhiệm cao độ và ý thức chu toàn bổn
phận thật tốt, thì sẽ đạt được nhiều thuận lợi hơn để khống chế những tiêu cực
làm phương hại đến Đức Khiêm Tốn. Thêm điểm khác, liên quan đến Bậc giáo dân, lợi
điểm của việc năng luyện Đức khiêm tốn nơi bậc cha mẹ và thường xuyên biểu hiện
tốt trong cuộc sống, thì khi nuôi dạy con cái, chúng sẽ lãnh hội tốt thói quen
cao quý ấy. Do vậy, đặc điểm trao truyền đức tính ấy tại gia đình là một vấn đề
đáng để xem xét.
Nỗi âu lo lớn nhất khi va vào Tính tự kiêu, do
hệ quả làm cho tự bản thân khó mà nhận ra, là ta đang vướng vào đấy. Nhưng trái
lại, mọi kẻ xung quanh thì rất nhạy cảm, có điều, họ cũng không muốn thông tin
điều ấy làm chi, vì hiểu rằng ta sẽ rất khó chịu khi phải bị nghe mấy lời phê
phán. Nhằm phát huy tính cách sống Chứng nhân, theo suy đoán, có lẽ cần đến
lòng can đảm để dễ thức tỉnh và cũng không quên trông cậy vào Ơn phù trợ rất
nhiều, nếu muốn tiến hành cải hóa cho chính mình. Ngạn ngữ Nho học: Tri nhân
trí, tri ngã minh, thắng nhân hữu lực, thắng ngã cường (Biết người chỉ là có
trí khôn, tự biết mình thì mới minh mẫn, thắng người chỉ là có sức lực, tự thắng
mình thì mới mạnh mẽ).
3. Đời sống quên mình cao quý
Từ đặc nét cuộc sống này mà trong lịch sử biết
bao Vị tiền bối đã làm rạng danh Giáo Hội. Họ từ bỏ gia đình, quê hương thân
thương để đi đến miền xa xôi rao giảng đạo lý Chúa Kitô, như chúng ta đã được
tìm hiểu qua Hội Thừa Sai Paris. Chính nhờ nhân tố đó mà tạo nên nét đặc thù của
công cuộc truyền bá đạo Công Giáo, bao nhiêu Đấng anh hùng đã tự nguyện bước
qua cửa nhà giam, tung cổng trại cùi, lao thân vào chốn dịch tễ, chiến tranh,
chết chóc v.v… Họ chẳng ngại xông pha cứu vớt tha nhân, làm chứng nhân Tin Mừng,
điều mà nơi các đoàn thể tôn giáo khác chưa thấy có ghi lại giống vậy. Và cũng
xuất phát từ ý thức đó, mà làm nảy sinh hệ quả dẫn đến các đức tính cao đẹp
khác: Coi trọng lẽ công bằng, dễ tha thứ, nhường nhịn thiệt thòi, âm thầm chịu
đựng v.v… Khi diễn ý ngược nghĩa của sự quên mình thì chính là tính ích kỷ,
cũng trong lịch sử, nghịch tính này đã làm cho Giáo Hội bao phen điêu đứng, vì
các vua chúa hoặc chức sắc cao cấp đã vướng vào một cách hệ trọng. Chúng ta mượn
hình ảnh con dã tràng ở bãi biển, mà ai cũng biết qua, để minh họa về một ý như
sau: nó vò từng viên cát và xếp chồng lên nhau ngay ngắn, rồi một cơn sóng biển
đánh vỡ tan tành. Cũng vậy, bao nhiêu công đức tích tụ trong suốt quá trình dài
làm gương lành, rồi vì không khéo kiềm chế mà nhở xử sự ra xấu tính trên, dù chỉ
một lần, thì cũng đủ đưa đến hậu quả dã tràng. Vì tính hiệu quả cho Sứ vụ, thiết
nghĩ cần trải qua nhiều thử thách cố gắng tập tành và cũng có Ơn Chúa nữa, mới
phát huy được nếp sống quên mình; và đối lại, cũng phải ý thức rồi tôi luyện với
không ít thời gian thì mới mong xóa tan lòng vị kỷ.
4. Nỗi bất an vì tính ganh tị
Đây là vị hung thần núp trong bóng tối mà đã
gây nên bao tai ương cho cộng đồng nhân loại, thật vậy, bao nhiêu cuộc chiến
tranh, xung đột, nếu đem phân tích kỹ lại, thì đều thấy có nguyên do sâu xa xuất
phát từ lòng ganh tị. Giả như một người từng được hấp thụ quá trình lâu dài bởi
giáo huấn đạo lý tốt đẹp, nhưng khi rơi vào môi trường phải ăn thua của tính
này, thì họ sẵn sàng phủi xóa đi ngay tất cả những gì cao đẹp từng có nơi họ.
Điều nghịch lý là, tệ trạng này lại thường xảy ra trầm trọng nơi xã hội phát
triển giàu có, hơn là chốn còn nghèo hèn thô sơ. Bao nhiêu gia đình cha mẹ phải
điên đầu triền miên vì con cái luôn bất hòa, cũng xuất phát từ đó, dù trong những
gia đình khá giả, có tiếng tăm. Nếu một cộng đoàn sinh hoạt tập thể nào mà biểu
hiện đậm nét tính đầm ấm, giao hảo thân thiện trong nội bộ, không thấy tệ trạng
so đo hơn thiệt, thì sẽ nhanh được quần thể phát hiện và thán phục khen ngợi,
thậm chí còn cho rằng, đúng là đám người gặp may. Mong ước sao có nhiều bạn Tác
viên, gầy dựng được một gia đình, chỉ cần sống Đức tin giữ đạo cách cơ bản vừa
đủ, nhưng phát quang được hình ảnh mọi thành viên sống yêu thương đùm bọc, thì
đã là Truyền giáo rồi. Nguyện xin Thánh Nữ Têrêsa hằng phù hộ cho đoàn con cái
đang dấn thân trong Sứ vụ, vì đối với Hội Thánh, Ngài là biểu tượng của sự đơn
sơ, ngay lành, thánh thiện, chính các điều ấy như những tác nhân chủ yếu giúp
cho con người thoát khỏi ganh tị.
5. Xem trọng tinh thần hòa giải
Trong phụng vụ Giáo Hội, thường thấy hiện hữu
khá nhiều lời khẩn nguyện cầu xin Ơn bình an, còn trong đời sống thực tế giữa
những con người với nhau, chúng ta có thể nhìn theo hai phong cách cần quan tâm
nếu muốn duy trì bình an. Đó là, thận trọng trong cư xử để tránh xảy ra gay cấn,
và hai là, nếu đã lỡ xảy ra bất bình thì phải định liệu đến tiến trình hòa giải.
Tuy nhiên, nếu muốn sống đúng với vai trò chứng nhân Truyền giáo, thì xem ra vấn
đề này có phần rắc rối hơn. Nếu người khác có điều gì vướng mắc làm phiền đến
mình, chẳng những phải sẵn lòng tha thứ bỏ qua mà còn tìm cách khéo léo thông
truyền cho họ biết, là mình có thiện chí quên đi chuyện cũ. Ngược lại, khi mình
rơi vào bối cảnh nào đó mà mắc nợ, lỗi phạm đến người khác, thì cần cố gắng đến
với họ để thú nhận, làm hòa và bày tỏ ý định bồi hoàn thỏa thuận phần thiệt hại
mà mình đã gây ra trong quá khứ.
Vậy theo cách nhìn thông thường của người đời
thì cho rằng, đó là lối ứng xử ngu si, chỉ tìm cái thiệt cho bản thân; nhưng nó
lại là một điều đòi buộc chính đáng theo cách dạy trong Phúc Âm. Đời người bất
kỳ ai cũng có lần phát biểu: Trong một số trường hợp, chuyện ân oán khó mà có
thể bỏ qua cho được. Nói như thế để chúng ta hiểu, việc hòa giải là một vấn nạn
đáng kể trong sinh hoạt con người. Với vài tình huống éo le và hệ trọng,
tiến trình hòa giải muốn thành công, thì người ta phải vận dụng tất cả các đức
tính được trình bày trong những đề mục ở trên, như là: biết nhận lỗi, khiêm
nhu, quên mình, không so sánh hơn thiệt… Tất nhiên, sau các bước tự kiểm để thấu
hiểu tình huống và ý thức cải thiện theo hướng tích cực, thì chính là Niềm cậy
trông hòng có thể cứu gở những tình huống bi đát nếu nó xảy đến với chúng
ta: “Vì không có Thầy, anh em chẳng
làm gì được” (Ga 15, 5)
6. Giá trị đời sống khiết tịnh
Cách dùng từ ngữ để muốn trình bày về một đời
sống không nên tiêu xài xa hoa phung phí, những lối trang sức trang phục tốn
hao và cũng không để bị lệ thuộc vào các chất tạo nghiện như rượu, thuốc lá, chất
kích thích v.v... Đồng thời cũng lưu ý tránh một số cách giải trí có khuynh hướng
gây nên lệ thuộc gần như nghiện, ví dụ bài bạc, cá cược, game điện tử… Việc ý
thức tinh thần nghèo khó, sống tiết độ đối với người làm công tác Truyền giáo
là điều đáng được quan tâm. Khi bàn thảo trong phân mục: Các việc làm cụ thể,
có điểm đề nghị là đóng góp thu nhập. Chúng ta cảm thấy quan ngại và khá tế nhị
để kêu gọi như vậy, nhưng khi bàn đến đây, nếu chấp nhận đôi chút kiềm hãm, thì
không còn cảm thấy khó xử nữa. Thêm vào đó, mình cũng có thể dâng sự hy sinh tiết
độ này mà chuyển thành một ý cầu nguyện cho công cuộc Truyền giáo.
Quan sát trên một góc cạnh khác, trong khi Đức
Gioan Phaolô II xác định tính năng nhờ vào Phép Rửa và Thêm sức mà người Kitô hữu
giáo dân được tham dự vào Chức tư tế, Ngài có phát biểu như sau: “Người tín hữu Giáo dân được gọi đặc biệt để
đem lại cho các tạo vật những giá trị nguyên thủy của nó. Khi hoạt động trong
ơn nghĩa Chúa, người Giáo dân liên kết mọi thụ tạo vào lợi ích chân thật của
con người...” (Tông huấn Christifideles Laici, số 14). Theo Giáo lý
căn bản thì chúng ta là loài tạo vật đáng cao trọng hơn, và chắc hẳn giá trị
nguyên thủy của con người thì không thể lụy vào các hình thức tiêu xài thái quá
như vừa bàn luận. Đồng thời, đối với các thú tiêu khiển đã liệt kê, thì cũng
đâu hẳn gọi là lợi ích chân thật của con người. Một Chứng nhân biết hạn chế đam
mê và vun đắp sự hoàn thiện, thì vẫn thuận lợi hơn để tỏa sáng nét đẹp nhân phẩm
hướng về tha nhân và càng có nhiều điều kiện tốt để phục vụ đắc lực hơn cho lý
tưởng tôn giáo mình.
Để tóm ý cho phân mục, trước tiên xin mượn câu
nói dân gian bên xứ sở Châu Âu: “Tích
cực tác động đôi khi không bằng thụ động mà tránh ra cái tiêu cực”. Điều mà
nhóm soạn thảo vẫn luôn hy vọng, là mọi người đặng phúc cậy nhờ Ơn Soi Sáng rồi
tự nhận thức nơi mình, thấy được vài giá trị tất yếu nào đó mà chăm lo thanh
luyện bản thân đang khi mang hoài bão phục vụ Giáo Hội vào Sứ vụ này. Tùy theo
bối cảnh riêng của từng người mà chúng ta ưu tư tùy chọn một phương pháp thế
nào là phù hợp nhất, để cho việc phấn đấu khắc phục đạt tới hiệu quả cao. Yếu tố
can đảm đón nhận góp ý xây dựng từ đồng môn hoặc người thân trong những tình huống
ngẫu nhiên, có lẽ cũng sẽ mang lại những thành tựu đáng khích lệ. Ngoài ra,
tinh thần Tám Mối Phúc Thật trong Phúc Âm, cũng được xem là nền tảng trọng yếu
để chúng ta lưu tâm trau dồi đời sống Đạo lý, một tập hợp các điều thánh thiện
đã được Truyền dạy mà phần đông đến nay, chưa thật sự quan tâm đủ để thực thi.
Hy vọng Bài Giảng Trên Núi huyền diệu ấy từ Thầy Chí Thánh, sẽ hằng soi dẫn
chúng ta trên suốt chặng đường làm Chứng nhân Loan báo Tin Mừng.
VI. TÂM TƯ TRONG PHẦN KẾT
Ý tưởng đúc kết cho nội dung phát thảo Định hướng
Linh đạo này, là chúng ta cần lưu tâm rằng: Bổn phận phải chu toàn của một Kitô
hữu cách chung, hầu như mọi người đều phải nặng vác không ít những ràng buộc, mối
quan hệ trong đời sống xã hội, tổ chức cộng đoàn, gia đình, kế sinh nhai, thân
hữu v.v... Nếu như ứng xử giải quyết mọi việc sao cho phù hợp với tinh thần các
Giới răn lề luật Đạo, xem ra không chừng đã đáp lại Tiếng Gọi bổn phận làm người
một cách khá hoàn hảo rồi. Tuy nhiên, nếu còn cố gắng tranh thủ thêm đôi chút
tâm tư, công sức, thời giờ, huê lợi… mà kề vai gánh vác cùng Giáo Hội trong nhiệm
vụ Loan báo Tin Mừng, thì quả là càng lý tưởng. Song hành với sinh hoạt đời
thường như bao kẻ khác, người Tác viên LBTM phải luôn mang bên mình ý thức về,
một đời sống của tâm tình hy sinh và chuyên lo cầu nguyện hướng về Công cuộc đầy
tính cấp bách này của Giáo Hội. Hẳn những lời Chúa Kitô đã phán hãy còn văng vẳng
bên tai chúng ta: “Và phàm ai bỏ nhà
cửa, anh em, chị em, Cha mẹ hay ruộng đất vì danh Thầy, thì sẽ được…” (Mt 19,
29). Nói thật ra, nếu ôn lại đoạn ý ở đầu Bài viết, chúng ta từng xác tín rằng,
động lực chính yếu để thi hành mọi điều được ghi chép trong đây, là do xuất
phát từ tấm lòng muốn đáp lại cho một Tình yêu, quả vậy Thiên Chúa, Ngài đã yêu
thương ta vô bờ vô bến.
Nguyện xin Mẹ Maria và các Thánh Bổn Mạng,
luôn phù trợ giúp sức để chúng ta có đủ nghị lực thực hiện Sứ mạng Tông đồ mà
mình đã trót mang tâm nguyện.
Người phán: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của ta
để tái lập các chi tộc Gia-cóp,
để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn
quá ít.
Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân
để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is
49, 6 )