DI NGÔN THỨ BẢY CỦA CHÚA TRÊN THÁNH GIÁ:
LẠY CHA, CON XIN PHÓ THÁC HỒN CON TRONG TAY CHA
(Lc 23,46)
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.
Bài Tin Mừng
44 Bấy
giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ
thứ chín.45 Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền
Thờ bị xé ngay chính giữa.46 Đức Giê-su kêu lớn tiếng: Lạy Cha,
con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở.
47 Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất
tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Người này đích thực là người công chính! “48 Toàn
thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm
ngực trở về. 49 Đứng đàng xa, có tất cả những người quen
biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng
kiến những việc ấy (Lc 23,44-49).
Bối cảnh của di ngôn cuối cùng
Lời thứ sáu Chúa Giê-nói trong Phúc Âm thánh Gio-an “Mọi sự
đã hoàn tất”, như là lời chia tay với trần gian. Còn lời thứ bảy cuối cùng được
thánh Luca thuật lại như là lời phó thác của Chúa Giê-su trong tay Cha. Dưới
đây, xin tìm hiểu bối cảnh của di ngôn cuối cùng của Chúa Giê-su trên Thánh
Giá.
Chúa Giê-su thốt lên lời này trong bối cảnh trước khi Ngài
trút hơi thở cuối cùng. Luca diễn tả rằng, lúc đó bóng tối bao phủ khắp mặt đất
và mặt trời ngưng chiếu sáng. Đó là khung cảnh toàn cầu của thiên nhiên. Còn
khung cảnh của Đền Thờ lúc đó thì sao? Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay
chính giữa. Về thời gian thì Luca nhắc đến giờ thứ sáu là thời gian buổi trưa
và giờ thứ chín là lúc ba giờ chiều.
Đọc nguyên văn lời của Luca viết: “Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất,
mãi đến giờ thứ chín. Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền
Thờ bị xé ngay chính giữa. Đức Giê-su kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó
thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở” (Lc 23,44-46).
Ở đây, chúng ta lắng nghe lời
suy niệm của Karl Rahner: “Chúa Giê-su ơi, kẻ bị bỏ rơi nhất trong loài người,
ôi trái tim tan nát vì đau đớn, Chúa đã kiệt lực. Đây là lúc cùng tận, lúc mà hết
thảy đều bị tước bỏ, ngay cả linh hồn, ngay cả tự do chọn lựa giữa ưng thuận
hay từ chối, lúc mà ta không còn thuộc về ta. Bóng thần chết đã lấp ló đứng chờ.
Nhưng ai và cái gì tước bỏ như thế? Hư vô ư? Định mệnh mù quáng ư? Thiên nhiên
tàn nhẫn ư? Không, chính là Cha! Thiên Chúa khôn ngoan và lân mẫn. Vì thế mà
Chúa đã tự phó mình. Hoàn toàn tin tưởng, Chúa trao phó mình lại trong đôi tay
vô hình nhưng hiền dịu của Cha. Vì không tin và vì quá bám víu lấy mình, chúng
con cứ coi đôi tay đó là thòng lọng gớm ghê của định mệnh mù quáng và của thần
chết. Còn Chúa, Chúa biết đấy là tay Cha. Và đôi mắt Chúa, dù tối mờ vì thần chết,
vẫn còn nhận ra Cha, vẫn còn đặt trong ánh mắt an bình đầy tình hiền phụ của
Cha, và miệng Chúa thốt lên lời cuối cùng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”.[1]
Sau khi Chúa Giê-su nói lời cuối cùng và tắt thở trên Thánh
Giá, một nhóm người khá đông xuất hiện. Đó là viên đại đội trưởng, người đã tôn
vinh Thiên Chúa khi ông chứng kiến cảnh tắt thở của Chúa Giê-su. Đó là toàn thể
dân chúng kéo đến xem cảnh tượng Chúa trút hơi thở. Kết quả là tất cả đều đấm
ngực và ra về. Ngoài ra, còn có những người quen biết và các người thân của
Chúa cũng chứng kiến giây phút Chúa qua đời, cụ thể Lu-ca nhắc đến các phụ nữ
đã theo Chúa từ Ga-li-lê (x.Lc 23,47-49).
Ngoài ra, lời Chúa thốt ra trên Thánh Giá: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay
Cha” nằm trong Thánh Vịnh 31. Giờ đây, chúng ta tìm hiểu Thánh Vịnh
đóng vai trò nào trong cuộc sống của Chúa Giê-su, và sau đó cùng suy niệm Thánh
Vịnh 31 trong bối cảnh Chúa Giê-su bị đóng đinh trên Thánh Giá.
Chúa Giê-su với Thánh Vịnh trong việc cầu nguyện
Theo Adalbert Hamman, “chỉ
có các Thánh Vịnh, dù đã bị rêu phong thời gian phủ kín, nhưng vẫn bất hủ và đã
được Đức Giê-su biến cải để dùng vào việc cầu nguyện với Cha Người. Đó là những
bài ca cũ xưa để hát mừng bài thánh ca mới. Đó vẫn là khúc hát của địa cầu hát
mừng Đấng đã tạo thành muôn loài muôn vật, vẫn là những khúc ca giữ cho bước
chân của những con người đi tìm Chúa được nhịp nhàng, và vẫn là những bài ca có
thể làm rung động cả tường thành Giê-ru-sa-lem trên trời”.[2]
Tập Thánh Vịnh không phải là của Đức Giê-su mà được ban cho
Người: đó là lời cầu nguyện ấp úng của một nhân loại đã được Người đón lấy, là
sách nói lên sứ mạng của Người. Như thế, Chúa Giê-su đã lấy kinh nguyện của đền
thờ làm của mình, Người học thuộc lòng, hát ở hội đường, hát khi tiến về
Giê-ru-sa-lem năm lên 12 tuổi, cũng như trong tất cả những lần tiến về thành
thánh và hát cho đến bữa tiệc chia tay lần cuối, cùng với các Tông đồ.
Nhưng tập thơ ấy đã trở thành sách nguyện của Người. Đức
Ki-tô đọc các Thánh Vịnh là vì các Thánh Vịnh nói về Đức Ki-tô. Trong Thánh Vịnh,
Người gặp lại dân được Chúa chọn, một dân ô hợp, tội lỗi, và trong số đó, người
vô đạo xem ra lại đông hơn. Đức Ki-tô đã gặp được toàn thể nhân loại nơi các
Thánh Vịnh, từ một nhân loại cầu cứu đến một nhân loại phỉ báng và phỉ báng tới
mức làm Người phải nản lòng.
Kinh nguyện của dân Do thái, một khi được thốt lên từ miệng
của Đức Ki-tô, thì đồng thời được biến đổi và tinh luyện. Đó là kinh nguyện có
sức sáng tạo của một Adam mới, có khả năng tạo ra một khởi nguyên mới, sinh ra
một nhân loại mới. Từ khi Người đến và suốt thời gian Người sống, kinh nguyện của
dân Do thái gắn chặt với xương thịt Người và sẽ không bao giờ rời xa Người nữa.
Kinh nguyện ấy hiện ra trước mắt Người, nằm sâu trong lòng Người, khác nào một
cái gai luôn luôn quấy rầy và thúc bách Người cho tới khi mọi sự được hoàn tất.
Đức Giê-su kết thúc sứ mạng của mình, một sứ mạng không ngừng
bị cản trở, đúng vào lần thứ ba Người lên Giê-ru-sa-lem (tính từ khi Người hoạt
động công khai) để cử hành lễ vượt qua cuối cùng. Và Đức Giê-su chết trên thập
giá vào đúng giờ người Do thái giết chiên vượt qua. Đối với Người, cử hành lễ
vượt qua và bi kịch vượt qua trùng hợp với nhau: giờ Người tự hiến mình làm hy
tế của buổi chiều cuối cùng cũng là giờ vị thượng tế đang cầu nguyện. Ở đây, cầu
nguyện và hành động chỉ là một.
Hơn nữa, đối với Adalbert
Hamman, “sử dụng các Thánh Vịnh để cầu nguyện, đó là một cách cho thấy rõ hơn hết
bi kịch của Đức Giê-su hoà chung với lịch sử của dân Người mà Người đã nhận lấy,
hoà chung với sứ mạng của dân ấy cũng như với tội phản đạo của họ, mà bây giờ
chỉ mình Người đứng ra nhận trách nhiệm nặng nề về tội lỗi đó. Cái mà đồng bào
Người đang cử hành vào giờ này trong tuần lễ Vượt Qua, thì chính Người đang sống,
đang là hiện thân. Người là Con Chiên gánh lấy tội thế gian để tiêu diệt đi.
Khi Người chết là một công trình sáng tạo mới ra đời… Đối với Đức Giê-su, tập
Thánh Vịnh là cẩm nang cầu nguyện và truyền giáo. Người nhận lấy nó và hoàn bị
thêm. Đó là tác phẩm Kinh thánh được trích dẫn nhiều nhất trong Tân Ước”.[3]
Thánh Vịnh nói lên cuộc đời và thảm kịch của Đức Giê-su,
Thánh Vịnh cũng nói lên sự cô đơn của Đấng đã trở nên đối tượng cho mọi người
khinh rẻ, cùng với những người nghèo của Ít-ra-en.
Có hai soạn giả Tin Mừng còn thuật lại rằng trên thập giá, Đấng
bị đóng đinh đã đọc Thánh Vịnh 22. Và khi sắp tắt thở, Người còn thều thào
Thánh Vịnh 31. Người không bỏ một câu, một chấm trong các Thánh Vịnh nhưng Người
thanh lọc chúng trong cuộc khổ nạn của Người, hay đúng hơn trên thập giá của
Người, tựa như một lò sát sinh nơi đó cả lời nguyền rủa lẫn lời chúc dữ đều bị
đốt tiêu tan như rơm rạ.
Khi dùng kinh nguyện của dân tộc mình, Đấng Mêsia đã cho thấy
sứ mạng của mình có ý nghĩa gì, một sứ mạng mà Người đã thi hành trong đau khổ
nhưng đã hoàn tất trong vinh quang. Những câu cuối trong Thánh Vịnh 22 là tiếng
kêu chiến thắng:
“Toàn thế giới muôn
người nhớ lại
Và trở về cùng Chúa
Khắp trần gian, mọi nước
kính thờ,
Phủ phục trước thiên nhan…
Sự nghiệp đây, chính
Chúa tạo thành”.
Chiều ngày Phục sinh, Đấng sống lại đã gặp hai môn đệ trên
đường đi Emmau. Đối với họ, tất cả dường như đã mất hết. Họ hoàn toàn thất vọng
và chính vì thất vọng, họ trở nên mù quáng. Đức Giê-su chỉ giúp họ đọc lại Kinh
Thánh, sách các ngôn sứ, các Thánh Vịnh và toàn bộ các sách Thánh Kinh (x.Lc
24,27). Sứ mạng của Đấng Mêsia, đau khổ cũng như chiến thắng, cuộc vượt qua khổ
nạn để tiến tới vinh quang, tất cả đều được tiên báo trong sách đó. Chỉ vì các
môn đệ đã bị che mắt nên họ không nhận ra được các biến cố đó. Khi tới quán trọ,
Chúa Giê-su kết thúc lời giải thích bằng cách bẻ bánh, và chính lúc đó, mắt họ
dần dần mở ra. Từ bàn tay của Người mà Rembrandt đã vẽ trong một bức tranh bất
hủ, đã toả ra ánh sáng mở mắt họ. Thế là thất vọng đổi ra vui mừng, tro tàn được
khơi lại, và lửa bập bùng trong tim họ, bởi vì ai khám phá được Đức Ki-tô trong
các Thánh Vịnh sẽ được các Thánh Vịnh ấy nung đốt.
Lời Thánh Vịnh 31 trên Thánh Giá
“Lạy Cha, con xin phó
thác hồn con trong tay Cha”. Lời cầu nguyện này của Chúa Giê-su nằm
trong Thánh Vịnh 31,6. Người Do-thái trong giờ kinh tối luôn cầu nguyện với
Thánh Vịnh 31 này. Ngoài ra, Thánh Vịnh này được những người gặp thử thách dùng
để cầu nguyện với Thiên Chúa. Thánh Vịnh mở đầu với câu: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy CHÚA”, diễn tả
niềm trông cậy và tin tưởng vào Thiên Chúa của người đang gặp khó khăn thử
thách.
Thánh Vịnh 31 này được Giáo Hội hát vào ngày thứ sáu Tuần
Thánh, bởi vì Đức Giê-su trên thập giá đã đọc những lời của Thánh Vịnh này trước
khi tắt thở: “Lạy Cha, Con xin phó
thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Theo Noël Quesson, trọn cả Thánh Vịnh được áp dụng hoàn toàn
cho Đức Giê-su chịu đóng đinh. Ngay trước khi Đức Giê-su dùng như kinh
nguyện cá nhân của Ngài, Thánh Vịnh này đã là một lời nguyện với hai hồi: Mở đầu
là lời van xin của một bị cáo vô tội, của một người đau bệnh, một người sắp chết
đang phải đối phó với cơn bách hại: tên bị chúc dữ, bị loại khỏi cộng đoàn, bạn
bè thân thích đều kinh hãi, như người bị mắc bệnh dịch truyền nhiễm. Nhưng phần
cuối của Thánh Vịnh lại là lời kinh nguyện êm dịu thân tình của một người nhà của
Đức Chúa: dù trở nên đối tượng cho những tố cáo bất công, kẻ sắp chết vẫn tiếp
tục, vẫn ca tụng hạnh phúc của đời sống thân tình với Chúa:
“Nhưng con đây vẫn tin
tưởng nơi Ngài,
Số phận con ở trong
tay Ngài.
Cao cả thay tấm lòng
nhân hậu,
Chúa dành cho ai tìm đến
Ngài nương náu.
Chúc tụng Chúa đã tỏ
tình thương kỳ diệu đối với con” (Tv 31,15.16.20.22).
Với các lời của Thánh Vịnh 31, chúng ta hướng nhìn lên Chúa
Giê-su, Đấng chịu chết trên Thánh Giá, Đấng “đã nên trò cười cho thiên hạ”,
chúng ta thấy khung cảnh đám đông do các lãnh tụ kích động đòi tử hình Ngài:
‘Đóng đinh nó vào thập giá! Máu nó đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng
tôi’. Rồi các biệt phái, luật sĩ, tên trộm phỉ báng Ngài. Người ta không chỉ bằng
lòng giết chết Ngài mà còn muốn làm Ngài xấu hổ, giao nộp cho quân lính sỉ vả.
Ngay chính bản án trên đầu Ngài cũng làm cớ để người ta chế giễu: Giê-su
Na-gia-rét, Vua dân Do Thái, được viết bằng ba thứ tiếng.
“Bị lãng quên, như kẻ
chết không người tưởng nhớ, con hóa thành đồ hư vất bỏ” (Tv 31,13).
Cái chết của Đức Giê-su không phải là một cái chết “bình thường”, nhưng là một
cái chết bị khinh bỉ, cái chết của những tên nô lệ, của những kẻ bị kết án, của
một thứ đồ vật mà người ta có thể đóng đinh vào.
Và trước khi Ngài bước vào
giấc ngủ của sự chết, những lời của Thánh Vịnh xuất hiện cách tự nhiên trên môi
miệng Ngài: “Nhưng con đây vẫn tin
tưởng nơi Ngài, Lạy Chúa, dám thưa rằng: Ngài là Thượng Đế của con”, “Trong tay
Ngài con xin phó thác hồn con” và “số phận con ở trong tay Ngài”.[4]
Lời cầu nguyện của Người Con với Cha
Sau khi hoàn tất sứ mạng trên dương thế, và trên đường về
Nhà Cha trên trời, từ thập giá Chúa Giê-su, Người Con dấu yêu, đã dâng lên Chúa
Cha lời nguyện hoàn hảo nhất ”Lạy Cha,
con phó thác linh hồn con trong tay Cha”.
Thánh Luca viết rằng, Ngài đã lớn tiếng cầu nguyện như vậy.
Theo Hamman, khi đọc thánh vịnh 22 hay ở đây khi đọc thánh vịnh 31, Đức Giê-su
luôn cầu nguyện lớn tiếng, để cho người khác nhận ra được đáy lòng mình. Cầu
nguyện ‘lớn tiếng’ xem ra là một điều hơi lạ đối với một người đang tắt thở.
Không phải là một sự ‘hấp hối’, nhưng là một hành vi hiến dâng sáng suốt, tự
do, trọn vẹn, hiến dâng cuộc sống mà mình đã nhận lãnh, hiến dâng từ hơi thở đầu
tiên cho đến hơi thở cuối cùng. Chúa Con đang trả lại cho Thiên Chúa hồng ân đã
lãnh nhận đó, trả lại cho Người hơi thở mà từ thuở Sáng Thế cũng như từ khi
sinh ra đó vẫn là dấu chứng tỏ sự hiện hữu và sự sống. Những gì xuất hiện từ
Thiên Chúa thì bây giờ trở về với Người.
Ngoài ra, lời cầu nguyện với
Cha “lạy Cha”, không có trong Thánh Vịnh, nhưng cũng diễn tả quan hệ của Người
Con với Cha, diễn tả sự tin tưởng, phó thác và yêu thương của Đức Giê-su, một
người không coi chết là hết mà là hoàn thành và tiến về với Thiên Chúa, là Cha
và là nguồn sự sống.[5]
Với Anselm Gruen, thật là một
điều ngạc nhiên đáng chú ý, khi Chúa Giê-su trong hoàn cảnh phải đối diện với
cái chết, Ngài vẫn nói những lời đầy tin tưởng và trìu mến với Cha của Ngài. Đó
là người Cha nhân từ giàu lòng thương xót, Người Cha không đóng chặt vòng tay,
khi đứa con đi hoang trở về, ngược lại Cha đã đón nhận con và trao ban cho con
những hồng ân cao quý, khi anh ta hối hận ăn năn và xin Cha. Trong giây phút hấp
hối tương quan giữa Cha với Chúa Giê-su đã được kiện toàn. Giờ đây Chúa Giê-su
để mình được rơi vào trong bàn tay tốt lành của Cha, và Cha Ngài sẵn sàng đón
nhận Ngài với tình yêu thật dịu dàng.[6]
Đối với Đức Bênêđictô XVI,
“lời cầu khẩn thứ nhất ‘lạy Cha’, nhắc lại lời nói đầu tiên của Người được
ghi lại khi lên mười hai tuổi. Khi ấy, Người đã ở lại ba ngày trong Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem, là nơi mà màn che giờ đây bị xé đôi. Và khi cha mẹ Người bày tỏ
sự lo âu của các ngài, Người đã trả lời, ‘Tại sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải ở nhà Cha
con sao?’ (Lc 2,49). Từ đầu đến cuối, điều hoàn toàn xác định cảm
giác, lời nói và hành động của Chúa Giê-su, là mối liên hệ độc đáo của Người với
Chúa Cha. Trên Thánh Giá, Người sống hoàn toàn trong tình yêu, chính mối liên hệ
con thảo này với Thiên Chúa, đã sinh động hóa lời cầu nguyện của Người”.[7]
Thiết nghĩ, cũng nên tìm hiểu
thêm về tương quan giữa Chúa Giê-su với Cha trên trời. Ở trong Tân Ước, Chúa
Giê-su tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa trên trời chính là Đấng mà Ngài gọi là
Cha, và Thiên Chúa trên trời cũng gọi Ngài là Con yêu dấu. Biến cố Chúa Giê-su
chịu phép rửa chỉ cho chúng ta thấy rõ ràng: “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời
mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người.
Và có tiếng từ trời phán: ‘Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt
3,16-17). Ngoài ra, khi Chúa Giê-su gọi Thiên Chúa là Cha, thì Ngài không dựa
trên nền tảng của Do-thái giáo, mà dựa trên tương quan có một không hai của
Ngài với Thiên Chúa. Trong khi người ta không tìm thấy trong các tài liệu về cầu
nguyện và phụng vụ của Do-thái giáo một chỗ nào dùng từ ngữ Abba để chỉ cho
Thiên Chúa, thì Chúa Giê-su lại luôn dùng từ ngữ Abba để chỉ về Thiên Chúa, ngoại
trừ tiếng kêu của Ngài trên thập tự (x.Mc 15,34). Vì thế, cách gọi Thiên Chúa
là Abba, Cha ơi, là cách gọi riêng của Chúa Giê-su,[8] một
cách gọi rất thân thương và mang tính cách gia đình. Theo Tertullianô, thì
“danh hiệu Thiên Chúa là Cha, chưa từng được bày tỏ cho một người nào. Cả khi
ông Môi-se hỏi Thiên Chúa là ai, ông chỉ được nghe một danh khác. Danh hiệu này
được mạc khải cho chúng ta trong Chúa Con. Vì trước khi ‘Con’ đến, chưa có danh
hiệu ‘Cha’”.[9]
Nhưng tại sao, cách gọi
Abba lại không được sử dụng trong những lời cầu nguyện và phụng vụ của Do-thái
giáo? Theo Jeremias, thì người Do-thái tránh tối đa dùng những ngôn từ mang
tính cách gia đình để gọi Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng họ thờ lạy, nên không
bao giờ họ nghĩ đến chuyện họ gọi Thiên Chúa là Abba.[10]
Như vậy, cách thức cầu nguyện
của Chúa Giê-su gọi Thiên Chúa là Abba thật là mới mẻ. Đó cũng là
cách thức của một em bé dùng để kêu chính cha đẻ của mình, một cách thức xưng
hô rất thân thương và chất chứa niềm tin tưởng mạnh mẽ[11],
niềm tin luôn hướng về sự vâng lời Cha cách tuyệt đối mà chính Chúa Giê-su đã sống.
Như vậy, khi Chúa Giê-su sử dụng cách thức xưng hô bình dị và thân tình này để
cầu nguyện, thì Ngài muốn chỉ ra mối tương quan rất gần gũi và đầy tin tưởng của
Ngài với Cha.[12]
“Tất cả những gì của con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là
của con” (Ga 17,10). Đức Ki-tô đã thốt lên như vậy trong lời cầu nguyện
của Ngài với Cha. Trong dụ ngôn người cha nhân hậu, người Cha cũng đã thốt lên
một lời tương tự như vậy đối với người con cả: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15,31). Trong sự
kết hiệp mật thiết với Cha, Đức Ki-tô luôn sống đúng tinh thần của Cha. Thánh ý
của Cha chính là lương thực nuôi sống Ngài, lương thực đó Đức Ki-tô khát khao
đón nhận ngay cả những lúc bóng đêm đen tối bao phủ Ngài: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi
phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt
26,39). Chúng ta đừng quên rằng Đức Ki-tô đã lặp lại lời đó đến ba lần trong
khi cầu nguyện trong vườn cây dầu (x.Mt 26,39.42 và 44).[13]
Như thế, tương qua thân mật của Chúa Giê-su với Cha trên trời
trải dài trong cuộc đời dương thế của Ngài, và cao điểm của tương quan đó chúng
ta có thể nhận ra nơi Thánh Giá, qua lời cầu nguyện của Chúa Giê-su trong lúc
đau khổ: “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con
trong tay Cha”. Đó là một tiếng kêu lớn của lòng tín thác tuyệt đối và
hoàn toàn vào Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện tín thác tuyệt đối của Chúa Giê-su.
“Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha”. Với Đức Bênêđictô
XVI, “những lời này không phải là một câu trưng dẫn đơn giản, nhưng thay vào
đó, biểu lộ một quyết định vững chắc: Chúa Giê-su ‘phó Mình’ cho Chúa Cha trong
một hành động hoàn toàn phó thác. Những lời này là một lời cầu nguyện ‘trao
phó’, hoàn toàn tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của Chúa
Giê-su trước cái chết là một điều bi thảm, cũng như với mọi người, nhưng cùng một
lúc, được tràn ngập bởi sự bình an thẳm sâu đến từ lòng tín thác vào Chúa Cha
và ý muốn hiến thân hoàn toàn cho Ngài trong vườn Cây Dầu, khi Người bước vào
cuộc chiến đấu cuối cùng, cùng cầu nguyện mãnh liệt, và sắp sửa ‘bị nộp vào tay
người ta’ (Lc 9,44), mồ hôi của Người đã trở thành ‘như những giọt máu rơi xuống
đất’ (Lc 22,44). Nhưng trái tim của Người hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha,
và ‘một thiên sứ từ trời’ đã đến để an ủi Người (x.Lc 22,42-43). Bây giờ, trong
những giây phút cuối cùng của Người, Chúa Giê-su đã thưa cùng Chúa Cha rằng Người
phó thác trọn cuộc đời Người trong tay Chúa Cha. Trước khi rời Ga-li-lê để đi
lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su đã nhấn mạnh nhiều lần với các môn đệ: ‘Hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây:
Con Người sắp bị nộp vào tay người ta’ (Lc 9,44). Bây giờ, sự sống sắp
sửa rời Người, Người đóng ấn lời cầu nguyện của Người trong quyết định cuối
cùng: Chúa Giê-su tự cho phép mình bị nộp ‘vào tay người ta’, nhưng chính trong
tay Chúa Cha mà Người phó linh hồn, vì vậy, như Thánh Sử Gioan nói mọi sự đã hoàn tất, hành động tối cao của
tình yêu đã được thực hiện đến cùng, đến giới hạn và vượt quá giới hạn…”[14]
Karl Rahner đã suy niệm như
sau: “Chúa trao tất cả vào tay Đấng đã ban cho mình tất cả. Chúa đặt hết vào
tay Cha, không đòi bảo chứng, không chút giới hạn. Ôi, nhiều lắm! Và cũng thật
nặng nề và cay đắng biết bao. Chúa đã phải một mình mang vác tất cả. Đó là những
gánh nặng của cuộc đời Chúa: nhân loại, phận người, sứ mạng, thập giá, thất bại
và cái chết. Nhưng bây giờ, mọi sự đã qua đi và Chúa có thể trao lại tất cả,
cũng như phó thác chính mình vào trong tay Cha. Tất cả! Như đôi tay người mẹ,
thật dịu dàng và thật tốt lành đôi tay này mang vác mọi sự. Đôi tay này bao phủ
và chở che linh hồn Chúa, như người ta ấp ủ một cánh chim non trong lòng bàn
tay với cả ý tứ mến thương. Bây giờ chẳng còn gì nặng nữa, tất cả đều nhẹ
nhàng; tất cả đều là ánh sáng và ân sủng. Tất cả được trú ẩn an toàn dưới bóng
trái tim Cha. Nơi đây người ta tỏ bày những gì nặng nề qua những giọt nước mắt,
và được Cha lau khô những giọt nước mắt trên đôi má của người con, và Ngài còn
tặng ban nụ hôn hiền phụ”.[15]
Chúa Giê-su trong giây phút cùng cực của cái chết đã phó
thác hoàn toàn trong tay Thiên Chúa Cha. Qua đó, Ngài nhắc nhớ và dạy bảo chúng
ta rằng, cho dù những thử thách của chúng ta có cam go, những vấn đề của chúng
ta có khó khăn, và đau khổ của chúng ta có nặng nề thế nào đi nữa, chúng ta sẽ
không bao giờ rơi ra ngoài bàn tay của Thiên Chúa, bàn tay đã dựng nên chúng
ta, nâng đỡ chúng ta và đồng hành với chúng ta trên đường đời, bởi vì chúng được
hướng dẫn bởi một tình yêu vô hạn và trung tín.
Tuy nhiên, là con người chúng ta cũng thành thật rằng, đứng
trước cái chết với cõi vô định và tối tăm của nó, con người dễ dàng rơi vào
trong sợ hãi, đến nỗi không còn có thể hướng nhìn lên Thiên Chúa.
Hãi sợ trước cái chết và đôi tay dịu dàng mạnh mẽ
hơn cái chết
Có những lần chứng kiến những người cận kề cái chết, thấy họ
đã phải chiến đấu biết bao nhiêu, để rồi khi ra đi mới có thể an bình về với
Chúa. Có nhiều người luôn sợ hãi trước những tình trạng bị đe doạ, mình sẽ mất
mát một điều gì đó: sợ mất việc làm, sợ mất người thân, sợ mất tình bạn, sợ mất
người yêu, sợ mất một lý tưởng mình đeo bám từ biết bao năm qua, sợ mất hướng
đi của cuộc đời… Biết bao nỗi sợ trước sự mất mát nhất định nào đó. Tuy nhiên,
nỗi sợ “mất sự sống” là nỗi sợ kinh khủng nhất. Nếu bất ngờ đối diện với cái chết
cận kề, đối diện với “tử thần đang đứng gõ cửa nhà”, thì lúc đó sự sợ hãi lên đến
tột đỉnh. Thật vậy, nỗi sợ này lên đến tột đỉnh, vì có ai chuẩn bị cho đủ cho
đúng để sẵn sàng đón nhận cái chết, đón nhận tình trạng “đánh mất sự sống của
chính mình”.
Đứng trước một người vừa nhắm
mắt ra đi, chúng ta mới thấy rằng cái chết là một huyền nhiệm.[16] Sự
huyền nhiệm của cái chết có thể được nhìn qua hai điều: Với cái chết của người
khác chúng ta thấy rằng, người nhắm mắt ra đi bước vào một con đường mà trên đó
anh ta phải đi một mình. Dù chúng ta có nắm lấy tay người chết với tất cả tình
yêu thương và dịu dàng của chúng ta, thì chúng ta cũng không thể nào chia sẻ
con đường này của người vừa ra đi. “Quả thật, có một đêm đen không âm thanh nào
vươn tới được, có một cánh cửa mà ta chỉ có thể bước qua một mình, đó là cánh cửa
của sự chết. Mọi nỗi sợ trên trần gian rốt cuộc cũng chỉ là nỗi sợ cô đơn đó”.[17]
Có nhiều người vui vui đã thêm vào lời bài hát: Khi Chúa thương gọi con về, thay vì để
cho bài hát tiếp tục với lời lòng
còn hân hoan như trong một giấc mơ, thì họ nói với nhau và một cách nào đó
họ cũng đang muốn nói với Chúa con
không về, con không về hay con
chưa về, con chưa về. Một lời nói ham sống sợ chết, một lời nói diễn tả
tình trạng chưa sẵn sàng cho việc Chúa gõ cửa nhà mình.
Ngoài ra, khi nói như vậy, con người cũng đang diễn tả sự sợ
hãi trước cái chết. Chết rồi đi về đâu? Một cõi vô định và tăm tối? Hơn nữa,
con người đang nắm trong đôi tay biết bao điều tốt đẹp, làm sao họ có thể chấp
nhận để buông ra, để từ bỏ được. Nào là vợ con, là tiền bạc vật chất, là danh vọng
và quyền lực, là công ăn việc làm, là những kế hoạch còn đang dang dở nằm trên
bàn. “Buông tay” là một thái độ thật khó của đời người. Khó hơn, khi họ tự thấy
rằng, khi “buông tay” họ phải rơi vào trong một lỗ hổng thật sâu và tăm tối. Một
cõi vô định! Họ không còn làm chủ được đời mình nữa. Điều đó làm cho con người
sợ hãi đến tột đỉnh.
Thật vậy, với cái chết, con người đánh mất đi tất cả: cuộc sống
tương quan và cuộc sống tình cảm, những việc làm dở dang, những kế hoạch hay dự
án đang ở trên bàn, cả những giấc mơ đang có. Chỉ còn có mỗi một điều là người
nằm xuống trao phó linh hồn của mình cho Chúa Cha ở trên trời, như chính Đức
Ki-tô đã làm: “Phần con, con đến
cùng Cha” (Ga 17,11), và “Lạy
Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Karl Rahner đã suy niệm lời
này như sau: “Đối với những ai đã yêu thế gian và trở nên một với thế gian này,
thì thật là kinh khủng đối với họ, khi họ rơi vào bàn tay của Thiên Chúa. Nhưng
Chúa vẫn kêu lên lạy Cha, con xin
phó thác hồn con trong tay Cha. Nếu có một lời nào đáng để tin, thì
chình là lời này. Lời mà Chúa đã thốt lên trong giây phút đạt tới đích điểm. Có
một Thiên Chúa là Cha. Trong tay Ngài người ta có thể phó thác tất cả mọi sự. Mọi
sự. Thật vậy, mọi sự đều được đón nhận”.[18]
“Trong tay Ngài, Lạy
Cha, con xin phó thác hồn con, con xin phó thác đời con!”. Lời cầu
nguyện của Chúa Giê-su và của chúng ta, mỗi phận người, vang lên trong lúc con
người hãi sợ đứng trước cái chết. Lời cầu nguyện này giúp chúng ta ý thức hơn về
cái sợ của mình. Cái sợ chết, sợ đánh mất tất cả, sợ rơi vào thế giới tăm tối
và vô định sẽ càng lớn hơn, nếu chúng ta không ý thức như Chúa Giê-su, sẵn sàng
để mình rơi vào trong vòng tay nhân hiền và giàu lòng thương xót của Cha trên
trời.
Khi chúng ta cảm nhận, tin tưởng và cậy trông hoàn toàn vào
Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội và là cùng đích, là Đấng luôn thương xót và nâng
niu chúng ta, thì nỗi sợ kia sẽ phải lùi bước. Ngắm nhìn bức tượng Pietà nổi tiếng
của Michelangelo ở đền thờ thánh Phê-rô, chúng ta thấy bàn tay thật dịu dàng, mạnh
mẽ và tràn đầy yêu thương của Mẹ sẵn sàng đón nhận thân xác của Chúa Giê-su, Đấng
như hạt lúa mì rơi vào lòng đất và chết đi. Chúa Giê-su đã đồng ý để mình rơi
vào trong vòng tay của Mẹ mình, người Mẹ của lòng thương xót, và Ngài cũng để
mình rơi vào trong đôi tay của Đấng là nguồn mạch của lòng thương xót, là Chúa
Cha trên trời, Đấng sẽ đón nhận Ngài về với trời cao.
Ở đây, chúng ta đọc lại một
lời tâm tình của Karl Rahner: “Chúa Giê-su ơi, một ngày kia Chúa cũng trao linh
hồn hèn hạ và thân xác khốn khổ của con vào trong tay Cha chứ? Lúc ấy, xin Chúa
đừng đặt trên đĩa cân công lý, nhưng đặt vào trong đôi tay Cha khối nặng đời
con và những tội lỗi nặng nề của con. Con có thể chạy trốn ở đâu, ẩn khuất ở
đâu, ngoài ở bên Chúa – người anh em đã cay đắng chịu mọi khổ hình vì tội con.
Xin hãy nhìn đến con, hôm nay con đến với Chúa, quỳ trước Thánh giá Chúa, và
con hôn đôi chân đã chảy máu vì im lặng bước theo con trên quãng đường quanh
quéo của đời con. Con ôm lấy Thánh giá Chúa, ôi Bạn Tình vĩnh cửu, trái tim của
muôn của muôn trái tim đã bị đâm thủng. Ôi lạy trái tim hết sức kiên nhẫn, trái
tim vô cùng quảng đại. Xin thương xót con. Xin đưa con vào tình yêu Chúa. Và
khi cuộc đời lữ hành của con sắp chấm dứt, khi ngày đã gần tàn, khi bóng tử thần
vây bọc lấy con, thì xin Chúa cũng thốt lên lời sau hết của Chúa: Lạy Cha, con
xin phó thác hồn con trong tay Cha, ôi Chúa Giê-su từ ái!”[19]
Lời của Chúa Giê-su đã đi vào cuộc sống của các tín hữu, những
người con cái của Chúa, và vì thế mẹ Giáo Hội đã dạy con cái mỗi tối về luôn ý
thức cầu nguyện: “Trong tay Ngài, lạy
Chúa, con xin phó thác hồn!” Một lời nguyện thật đẹp và sâu xa biết
bao. Thật đẹp vì lời cầu nguyện này hướng về Cha trên trời; thật sâu xa vì người
cầu nguyện tin tưởng vào Đấng ở trong chiều sâu không thể dò thấu của nhân trần.
Ngài ở trong chiều sâu nhất để với đôi tay dịu dàng và mạnh mẽ hơn cái chết,
Ngài đón nhận tất cả mọi phận người “rơi ra” khỏi vũ trụ này, và Ngài sẽ đưa những
phận người đó về với nguồn mạch của lòng thương xót.
Khi Thiên Chúa dựng nên chúng ta, Ngài biết tên chúng ta,
Ngài ghi khắc từng người chúng ta vào trong bàn tay của Người: “Này Cha đã ghi khắc con trong lòng bàn tay
Cha” (Is 49,16). Tên của chúng ta không bao giờ bị phai nhoà, vì Chúa
đã viết tên chúng ta không bằng những giọt mực dễ phai, mà Ngài viết bằng chính
tình yêu thương. Mà tình yêu thì không bao giờ mất được. Hơn nữa, Chúa không chỉ
viết, chỉ ghi, mà còn khắc tên chúng ta nữa. Khi cho chúng ta bước vào cuộc sống
ở trần gian này, Thiên Chúa khắc sâu từng người chúng ta trong trái tim yêu
thương của Ngài, và khi chúng ta đi ngang qua cái chết để trở về với Chúa, thì
tên của chúng ta đã được Ngài khắc trên tấm bảng của sự sống vĩnh cửu.
Rahner đã xác tín đời sống
vĩnh cửu của con người cách sâu sắc: “Thánh Kinh không hề biết đến bất cứ đời sống
con người nào lại quá tầm thường, đến nỗi con người không có giá trị đủ để trở
thành vĩnh cửu, và đó là sự lạc quan cao cả của Thánh Kinh. Không có gì quá nhiều
đối với Thánh Kinh. Vì mỗi người được Thiên Chúa gọi với tên của mình, và vì mỗi
người hiện hữu trong thời gian và trước sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng phán
xét và cứu độ, nên mỗi người là một con người của vĩnh cửu chứ không chỉ những
thần linh cao cả của lịch sử. Hơn thế nữa, trong thần học Gio-an điều đó trở
nên rõ ràng hơn, khi tính vĩnh cửu ấy đang hiện hữu trong thời gian, và vì thế
vĩnh cửu vượt trên thời gian, chứ không phải là một phần thưởng được ban cho
sau thời gian và thêm vào cho thời gian. Thánh Kinh mô tả nội dung đời sống
vinh phúc của người chết bằng cả ngàn hình ảnh: Như yên nghỉ và bình an, như bữa
tiệc và vinh quang, như sống trong nhà Cha, như vương quốc vĩnh cửu của Vương
Triều Thiên Chúa, như cộng đoàn của mọi người đã đạt đến viên mãn vinh phúc,
như thừa hưởng vinh quang Thiên Chúa, như một ngày không bao giờ có tận cùng,
và như sự thoả mãn không buồn tẻ. Xuyên suốt mọi lời trong Thánh Kinh, ta luôn
luôn ước đoán cùng một điều duy nhất: Thiên Chúa là mầu nhiệm tuyệt đối. Và do
đó, sự viên mãn và gần gũi tuyệt đối với chính Thiên Chúa cũng là một mầu nhiệm
khôn tả, mà ta phải gặp và người quá cố chết đi trong Đức Chúa lại tìm thấy,
như sách Khải Huyền nói. Đó là mầu nhiệm hạnh phúc khôn tả”.[20]
Vì thế, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta tin tưởng và
trông cậy tuyệt đối vào bàn tay của Thiên Chúa, Đấng yêu thương đưa chúng ta
vào cuộc đời và vì yêu thương, Ngài lại đón nhận chúng ta về với Ngài để hưởng
cõi phúc trời cao. Đặc biệt xin Ngài đừng để chúng ta rơi vào hoàn cảnh mất tin
tưởng đến nỗi không chịu rơi vào bàn tay của Thiên Chúa. Vì thế, mong sao chúng
ta luôn ý thức rằng, Chúa ơi, số phận con nằm trong tay Chúa.
Số phận con nằm trong tay của Đấng giàu lòng thương
xót
“Nơi con trú ẩn, chính
là Ngài.
Số phận con ở trong
tay Ngài” (Tv 31,5.16)
Khi đọc những lời Thánh Vịnh này, bạn cảm thấy thế nào? Trên
hành trình cuộc đời, người tín hữu luôn có một nơi trú ẩn. Đó là Thiên Chúa –
Người Cha yêu thương giàu lòng thương xót. Đấng lớn hơn tất cả và luôn gìn giữ
chúng ta. Lời của Chúa Giê-su nói về Cha trên trời là một sứ điệp tràn đầy hy vọng
đối với chúng ta: “Cha tôi, Đấng đã ban
chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa
Cha” (Ga 10,29).
Sự trú ẩn chúng ta cũng tìm thấy nơi Chúa Giê-su, Đấng đã chết
để cứu rỗi chúng ta. Chính Ngài đã nói với chúng ta lời dịu dàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng
nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của
tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh
em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt
11,28-30).
Bên cạnh Chúa Cha, Chúa Giê-su, chúng ta còn tìm thấy sự trú
ẩn nơi Chúa Thánh Thần, Đấng ủi an, chở che, nâng đỡ và hướng dẫn và các tín hữu
luôn được phép cầu khẩn với Ngài:
Nơi trú ẩn mà người tín hữu cũng có thể tìm về cách dễ dàng
là Mẹ Maria. Hình ảnh Pietà nói cho chúng ta biết rằng, Mẹ yêu thương đón nhận
và bồng ẵm Chúa Giê-su như thế nào, thì Mẹ cũng thương xót, bồng bế và che chở
chúng ta như vậy. Thật đẹp, khi mỗi ngôi thánh đường đều có một nơi như là “nhà
nguyện nhỏ” dành cho Mẹ Maria. Nơi đó, các tín hữu có thể tìm về, đến với Mẹ, đốt
lên những ngọn nến hay cầm một cành hoa hồng dâng Mẹ. Trong thinh lặng, đứng –
quỳ- ngồi các tín hữu chiêm ngắm, cầu nguyện và trú ẩn dưới bóng Mẹ.
Một lần, sau ngày Giáng Sinh (ngày 26.12), tôi đã bắt gặp một
phụ nữ ngồi khóc sướt mướt trước bàn thờ Mẹ Hằng Cứu Giúp ở trong nhà thờ, nơi
tôi đang phục vụ. Lúc đó là 23.00 rồi. Tiếng khóc nức nở của chị như là lời cầu
nguyện gởi đến Mẹ, như là một lời tâm sự những gì ẩn chứa trong cõi lòng chị.
Ngồi xa xa, tôi thầm cầu nguyện với Mẹ Maria cho chị. Sau khi chị ra về, tôi
đóng cửa nhà thờ và cảm nhận được ngôi thánh đường của Giáo Xứ có Chúa và có Mẹ
hiện diện thật là nơi trú ẩn cho mọi người, không kể giàu hèn. Cũng dưới bóng Mẹ
Hằng Cứu Giúp này, không ít lần tôi đã thấy những người vô gia cư, trong những
buổi tối của đêm đông lạnh lẽo ở bên ngoài với âm 3 độ, họ đã tìm đến nơi Mẹ,
và trên các ghế băng trước bàn thờ Mẹ họ đã ngủ thật ngon lành. Nhìn họ lòng
tôi vui biết bao. Ôi nơi trú ẩn của đời người, thật dịu dàng và đẹp dường nào!
Lạy Mẹ Maria, xin hãy
giang rộng áo choàng, xin hãy là khiên che và thuẫn đỡ chúng con. Xin cho chúng
con được trú ẩn an toàn dưới áo Mẹ, cho đến khi mọi gió bão qua đi. Lạy Đấng Bảo
Trợ và tốt lành, xin chở che chúng con mãi mãi.
Ôi lạy Mẹ của lòng thương xót, xin hãy giang rộng áo choàng, trong mọi
lúc và trước mọi hiểm nguy, xin gìn giữ chúng con trú ẩn dưới áo Mẹ. Lạy Đấng Bảo
Trợ và tốt lành, xin chở che chúng con mãi mãi.[21]
Mẹ và Chúa luôn sẵn sàng trao ban một nơi ẩn náu cho con cái
và muôn người đang đi tìm một nơi trú ẩn, bởi vì Thiên Chúa – Đấng giàu lòng
xót thương, Đấng nắm vận mạng con người trong tay của Ngài, không bao giờ muốn
con cái bị mất đi.
“Số phận con ở trong
tay Ngài”. Đọc lời này của Thánh Vịnh gia, bạn cảm thấy sao? Với
Valles thì, “con cảm thấy hạnh phúc khi đọc lên những lời này: con tin cậy vào
Người, lạy Gia-vê, con nói: ‘số phận con ở trong tay Chúa’, ‘số phận con ở
trong tay Chúa’. Bất cứ gì xảy đến với con, bất cứ gì cuộc đời mang lại cho
con, dù phong ba bão táp hoặc nước đổ mưa rơi trên cánh đồng cuộc đời con, tất
cả đều nằm trong bàn tay đầy yêu thương của Chúa. Con còn mong ước gì hơn.
Số phận con, phần phúc của con. Hên xui may rủi, những điều
con yêu thích và những điều con gớm ghét, những hoàn cảnh con mong đợi và những
tình huống con lo âu, vui buồn sướng khổ. Tất cả cuộc đời con đều trong tay
Chúa. Chúa làm chủ thời gian; Chúa biết biện pháp, Chúa biết điểm mạnh và điểm
yếu của con; Chúa biết những khát vọng và những giới hạn của con; những hoài
bão và những thực trạng của con. Tất cả đều trong tay Chúa, Chúa yêu thương và
mong muốn những điều thiện hảo cho con. Đối với con, điều may mắn nhất là được
biết số phận – vận mạng con ở trong tay Chúa.
Lạy Chúa, xin cho niềm tin ấy
tăng triển trong con và làm tan biến mọi ưu tư trong cuộc sống của con. Chắc chắn
con vẫn phấn đấu vì vận mệnh của mình; con đâu phải là một người thành đạt hoặc
một nhân vật giỏi giang gì cho lắm, đến độ có thể coi thường và không cần phấn
đấu, nhưng với một khuôn mặt hân hoan và một tâm hồn thanh thản bởi vì vận mạng
con ở trong tay Chúa. Con có thể ngẩng mặt, tươi cười, ca hát vì giờ đây gánh nặng
đã trở nên nhẹ nhàng và chiếc ách đã trở thành êm ái. Con sẽ vẫn phấn đấu nhưng
giờ đây con biết thành quả nằm trong tay Chúa, và như vậy là ở ngoài tầm với và
tâm trí của con. Bình an lại đến với tâm hồn con bởi vì Chúa là Thiên Chúa của
con và số phận con ở trong tay Chúa”.[22]
Những lời tâm tình trên là lời cầu nguyện suy niệm rất chân
thành. Khi chúng ta có thể cầu nguyện như vậy, thì cuộc sống chúng ta sẽ tìm thấy
được an bình, bởi vì cầu nguyện luôn là nơi chốn để mỗi người kín múc được nguồn
an ủi, đỡ nâng và sức mạnh cùng niềm tín thác vào Thiên Chúa.
Sức mạnh của lời cầu nguyện trên hành trình Đức
Tin.
Di ngôn cuối cùng Chúa nói với Chúa Cha là lời cầu nguyện của
trái tim. “Lạy Cha, con xin phó thác
hồn con trong tay Cha”. Lời cầu nguyện sâu lắng nhất của niềm phó thác. Lời
cầu nguyện này của Chúa Giê-su đã đưa lại cho Chúa một sức mạnh vượt qua mọi
đau đớn của thể xác, và mọi nỗi trống vắng của tâm hồn, để kết hiệp với Cha và
đón nhận sức mạnh và tình yêu của Cha.
Sức mạnh của lời cầu nguyện là một điều rất thật mà nhiều
Ki-tô hữu đã trải nghiệm. Thật vậy, trong hành trình sống Đức Tin và phục vụ, bản
thân tôi đã nhiều lần trải nghiệm về ích lợi của việc cầu nguyện. Những khi đứng
trước ngõ cụt của cuộc đời, những lúc dừng bước trước đêm đen của cuộc sống,
lòng nặng trĩu với những âu lo, và đôi khi lòng trống rỗng đến như chẳng còn
khao khát gì trong đời, thì khi bước vào cầu nguyện để gặp Chúa, tâm sự và trải
lòng với Ngài, dâng lên Ngài tất cả mọi thực tế của cuộc sống và tâm trạng của
tâm hồn, sau đó tôi nhận được một sức mạnh mới để vươn lên, để ra khỏi bóng
đêm, để tìm lại được niềm vui sống cùng nguồn an ủi. Cầu nguyện quan trọng biết
bao nhiêu. Cá cần nước để sống thế nào, thì con người cũng cần đến cầu nguyện
như vậy.
Cầu nguyện được ghi khắc trong tim mỗi người và mọi nền văn
minh. Homo orans – con người cầu nguyện, chúng ta cần
nhớ rằng nó là một thái độ nội tâm, trước khi là hàng loạt những cách thực hành
và công thức, một cách sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Trong cầu nguyện,
ở mỗi thời đại của lịch sử, con người tự đặt mình và hoàn cảnh của mình trước
Thiên Chúa, từ Thiên Chúa và trong tương quan với Thiên Chúa, và cảm nghiệm thấy
rằng mình là một tạo vật cần được giúp đỡ, không có khả năng tự mình đạt được tất
cả những gì thích hợp với đời mình và ước vọng của mình. Như Sách Giáo Lý
khẳng định: ‘Trong cầu nguyện, Thiên Chúa trung tín và yêu thương luôn đi bước
trước; phần con người luôn chỉ là đáp lời. Khi Thiên Chúa từ từ tỏ mình ra và mặc
khải cho con người biết về chính họ, thì cầu nguyện được coi như một cuộc trao
đổi lời mời, một diễn trình giao ước. Qua lời nói và hành vi, diễn trình này
thu hút được chú ý của trái tim. Diễn trình này đã được diễn ra trong suốt lịch
sử cứu độ’ (số 2567).
Peter Wust, một triết gia Đức rất có ảnh hưởng trong khoảng
giữa hai thế chiến, nhất là ở các môi trường đại học, đã quay về với đức tin một
cách rất hăng hái và đã không giấu giếm điều đó. Khi rời đại học, ông đã để lại
một lá thư chia tay các sinh viên, không khác nào một di chúc thiêng liêng gởi
cho họ.
“Nếu vào lúc tôi sắp sửa chia tay với các bạn, nếu vào lúc sắp
chia tay vĩnh viễn này, có bạn nào hỏi tôi có chìa khoá thần nào giúp ta mở được
cánh cửa cuối cùng dẫn vào sự minh triết của sự sống, thì tôi xin trả lời rằng
có.
Chìa khóa thần ấy không phải là suy tư, như có lẽ các bạn
đang chờ một triết gia như tôi trả lời, mà là cầu nguyện. Cầu nguyện là bước cuối
cùng đem lại yên tĩnh cho ta, cho ta có một tâm hồn trẻ thơ, làm ta trở thành
khách quan”.
Theo hình ảnh đặc biệt của cha Henri Nouwen, cầu nguyện là
giãn xả, là buông bỏ, là mở tay và ngửa tay ra đón nhận. Ta cầu nguyện trong hy
vọng, vì Thiên Chúa ở gần và muốn làm đầy ta. Ta cần cầu nguyện vì không có
Thiên Chúa, ta sẽ không có căn nguyên và cô đơn, và cuộc sống ta thiếu chiều
sâu. Ta cầu nguyện trong kinh hãi, vì Thiên Chúa là Tạo Hoá, còn ta chỉ là thọ
tạo, là công trình của tay Người.
Như thế, hành trình Đức Tin của mỗi tín hữu là hành trình cầu
nguyện. Và người tín hữu luôn kín múc được sức mạnh từ việc cầu nguyện, nhất là
khi rơi vào trong những hoàn cảnh tế nhị nhất, như phải đối diện với bệnh hoạn,
gặp phải khổ đau và đứng trước cái chết. Chúa Giê-su cũng đã trải nghiệm các khổ
đau của con người chúng ta, và trong những lúc đó Ngài luôn hướng về Cha để cầu
nguyện với Cha, nhờ đó mà Ngài đã vượt qua được biết bao nhiêu thách đố, bao
cám dỗ và khổ đau. Trong bảy di ngôn Ngài nói trên Thánh Giá, chúng ta đã thấy
Chúa cầu nguyện với Cha cách đặc biệt: “Lạy Cha, xin tha cho chúng”; “Ê-lôi, Ê-lôi, la-ma xa-bác-tha-ni!’ Nghĩa
là: ‘Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” và “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay
Cha”.
Là người những tín hữu theo bước Chúa Giê-su, ước gì chúng
ta luôn ý thức như lời Thánh Vịnh gia nói:
Thánh Phao-lô cũng nhắc nhớ: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng, hãy tạ ơn
trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức
Kitô Giêsu.” (1Tx 5,16-18).
Như thế, trong cầu nguyện người tín hữu luôn tìm được sức mạnh và niềm vui cho cuộc sống. Nói khác đi, ở bên Chúa người tín hữu luôn tìm thấy hoan lạc, vì chính Chúa ban mọi ân sủng và niềm vui cần thiết cho hành trình dương thế của chúng ta. Ở đây, chúng ta đọc lời cầu nguyện của Raymond Lulle, một tu sĩ sống trong thời trung cổ (1235-1315):
“Đã đặt bao niềm vui trong tâm hồn
Thì xin Ngài cho toả khắp toàn thân
Để mắt mũi, chân tay và miệng lưỡi
Toát lên cả một niềm vui thánh thiện.
Mỗi phút giây tưởng niệm và chiêm ngắm
Suốt đời đời và sống mãi thiên thu
Lòng con lại tràn ngập niềm vui ấy
Như đại dương tràn trề nước bao la.
Đã nai nịt gọn gàng trên lưng ngựa
Thì sợ gì thù ngoài với thù trong
Đã vui tươi trào dâng ngùn ngụt
Thì lo gì nóng giận với đau buồn.
Ôi niềm vui Chúa đã ban cho
Thật lớn lao và mãnh liệt vô bờ
Lớn hơn núi Thái sơn vời vợi
Sắt thép nào dũng mạnh cho cam.
Ôi lạy Chúa, khôn ngoan, nhân hậu
Niềm vui này là bởi Chúa ban cho
Sao con dám cậy mình như đá?
Chưa kịp hết vui, đá đã tan tành.
Niềm vui này, sức mạnh kia là của Chúa
Chẳng ích gì nếu đòi cướp công lao
Lạy Tạo Hoá, lạy chúa tể con thờ
Xin cúi nhận Ngài là chủ
muôn ơn”[23].
Lạy Cha, con xin phó
thác hồn con trong tay Cha. Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã nói cho
chúng con di ngôn cuối cùng này. Xin cho chúng con biết bắt chước Chúa, là mỗi
tối biết dâng lời cầu nguyện ngắn ngủi đó với Cha trên trời. Nhờ đó chúng con
luôn biết phó thác cuộc sống của chúng con cho Cha, và luôn biết sống làm vui
lòng Cha, cũng giống như Chúa đã phó thác mạng sống cho Chúa Cha và làm đẹp
lòng Người. Thật là một ngày tràn ngập niềm vui sướng khi chúng con được nhìn thấy
dung nhan Ngài và được vào nước Trời để nhận lấy phần thưởng thiêng liêng—chính
là cuộc sống vĩnh cửu và tình yêu của Ngài và Chúa Cha. Amen”
Bài tập sống sứ điệp cuối cùng của Chúa Giê-su trên
Thánh Giá.
Hội Thánh, trong giờ kinh Tối, dạy chúng ta đọc lại mỗi buổi
tối trước khi ngủ: con xin phó thác hồn con trong tay Cha. “Xin tỏa ánh tôn
nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ… Lạy Chúa,
cao cả thay tấm lòng nhân hậu, Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài và thi thố trước mặt
phàm nhân cho ai tìm đến Ngài nương náu”.
Nguồn: dongten.net
(08.4.2023)
[2] HAMMAN
A.G., Abrégé de la prière chrétienne,
Kinh Nguyện Ki-tô giáo, Desclée, Paris 1987, phần Lời tựa.
[3] HAMMAN
A.G., Abrégé de la prière chrétienne,
Kinh Nguyện Ki-tô giáo, phần một, chương III, Đức Giê-su cầu nguyện.
[5] HAMMAN
A.G., Abrégé de la prière chrétienne,
Kinh Nguyện Ki-tô giáo, phần một, chương III, Đức Giê-su cầu nguyện.
[7] Đức
Bênêđictô XVI, bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện ban hành trong
buổi triều yết chung ngày Thứ Tư mùng 15 tháng 2 năm 2012.
[17] RATZINGER
J., Einfuehrung in das Christentum, t.248. Tham khảo bản tiếng Việt với tựa đề Đức Tin Ki-tô Giáo, hôm qua và
hôm nay, do Lm. Athanasiô Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng
Lam chuyển ngữ, Đà-lạt 2010.
[20] RAHNER
K., Grundkurs des Glaubens, 5. Aufl., Herder Verlag, Freiburg 1976, t.423. Tham khảo bản
tiếng Việt với tựa đề Những nền tảng Đức Tin Ki-tô, tập hai: Ki-tô học, do Nguyễn Luật Khoa OFM. biên dịch.
[21] X.
Das katholische Gesangbuch Gotteslob, Katholische
Bibelanstalt, Stuttgart 1975, unter der Nummer 595.
[23] Trích bởi
HAMMAN A.G., Abrégé de la prière chrétienne, Kinh Nguyện
Ki-tô giáo, phần phụ lục: Một số bản văn để giúp cầu nguyện.