CÓ MỘT NỀN VĂN CHƯƠNG TÂM LINH?
Gia Kỳ
I. HỘI THẢO KHOA HỌC
VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ TÂM LINH
Hội thảo khoa học về đề tài Văn học và văn hoá tâm linh diễn ra tại Viện Văn học (Hà Nội) ngày
mùng 7 tháng Ba năm 2014. Cuộc hội thảo do Viện Văn học phối hợp với Khoa Văn học
và Ngôn ngữ (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia
TP.HCM) đồng tổ chức, với mục đích: “Hướng tới việc nghiên cứu văn học trong
không gian văn hóa tâm linh và thúc đẩy các hướng tiếp cận liên ngành trong
khoa học văn học”
Như vậy, có lẽ đây là lần đầu tiên, trên một quy mô lớn, các
vấn đề trước đây kiêng kị như: tâm linh, niềm tin tôn giáo, thế giới vô hình
v.v. được các nhà nghiên cứu văn học và văn hóa đưa ra bàn luận tại một hội thảo
khoa học.
Vậy, thế giới tâm linh là gì?
Trả lời câu hỏi này, PGS-TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện
Văn học, trong diễn văn khai mạc hội thảo, đã đưa ra cái nhìn khái quát, rút từ
những tham luận được gửi về ban tổ chức: “Đó là một thế giới có nhiều bí ẩn mà
khoa học đến nay vẫn chưa thể giải thích hết được. Nhưng về cơ bản, có thể khẳng
định, đây là thế giới gắn liền với niềm tin về những giá trị cao cả, thiêng
liêng. Hướng đến tâm linh, con người kỳ vọng hướng tới những giá trị chân thiện
mỹ”.
Thế giới tâm linh hiện diện ra sao trong không gian văn hóa Việt Nam
nói chung và văn học nói riêng?
Trả lời câu hỏi này, hơn tám mươi bản tham luận đã được các
nhà nghiên cứu văn hóa và văn học gửi về ban tổ chức, nhằm đưa ra những kiến giải
về khía cạnh lịch sử và lí luận. Ban tổ chức đã chọn 48 bản được trình bày tại
cuộc hội thảo, chia thành hai nhóm nội dung: (1) Văn hóa tâm linh trong văn học
dân gian và văn học trung đại Việt Nam, (2) Văn hóa tâm linh trong văn học hiện
đại Việt Nam và văn học nước ngoài.
Về văn hóa tâm linh trong văn học dân gian, có những tham luận
đáng chú ý như: “Đạo Trời” và tín ngưỡng
dân gian qua ca dao (Nguyễn Thị Kim Ngân), Từ huyền thoại về lửa/ mặt trời đến xu hướng giải huyền thoại - Khảo
sát trường hợp truyện kể về Cố Bợ ở Nghệ Tĩnh (Nguyễn Thị Thanh Trâm), Cõi Tục và cõi Thiêng - một hướng tiếp cận
Then Tày (Trường hợp Then Hắt Khoăn, Bình Gia, Lạng Sơn) (Đặng Thế Anh)...
Một số tham luận khá đặc sắc về văn hóa tâm linh qua văn học
trung đại Việt Nam như: Mối quan hệ giữa
văn học và văn hóa tâm linh qua truyện Đinh Tiên Hoàng ký của Vũ Phương Đề
(Phạm Tú Châu), Thiền Đạo và Nghệ thuật
thơ ca thời Lý-Trần (Đoàn Thị Thu Vân), Mộng
mị và ảo giác trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát (Nguyễn Ngọc Quận), Giá trị hiện thực của yếu tố tâm linh trong
văn học trung đại (Lê Thu Yến), Yếu tố
Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong truyện
thơ Nôm có nguồn gốc bản địa Việt Nam (Nguyễn Văn Hoài), Chức năng lễ nghi tâm linh và giá trị văn học
trong Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên (Vũ Thanh)...
Văn hóa tâm linh trong văn học hiện đại Việt Nam, có các
tham luận: Cảm nhận về văn học tâm linh
ngày nay (Đoàn Trọng Huy), Dấu ấn đạo
Thiên Chúa trong Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (Cao Thị Hảo),
Thế giới tâm linh trong thơ Hàn Mặc Tử
(Lê Tiến Dũng), Từ hành vi thực hành nghi
lễ đến tư thế trữ tình trong thơ Hàn Mặc Tử (Nguyễn Thanh Tâm), Lối đi tâm linh trong thơ Hoàng Cầm (Lê
Thị Thanh Tâm), Sự thức tỉnh của tâm linh
từ góc nhìn văn hóa, qua một số tiểu thuyết xuất bản gần đây (Bùi Việt Thắng),
Cảm quan tôn giáo trong văn xuôi Việt Nam
đương đại (Lê Dục Tú), Không gian tâm
linh trong tiểu thuyết về đề tài chiến tranh (Nguyễn Thanh Tú), Đời sống tâm linh của con người trong truyện
Việt Nam sau 1975 (Nguyễn Văn Kha)...
Ngoài ra, nhằm góp phần soi sáng cho đề tài hội thảo khá mới
mẻ đối với giới nghiên cứu VN, ban tổ chức đã đón nhận các tham luận về văn học
nước ngoài: Hiện tượng “ma ám” (mononoke)
trong Truyện Genji và nghệ thuật tự sự của Murasaki Shikibu (Nguyễn Thị Lam
Anh), Thế giới tâm linh trong tiểu thuyết
Phúc Lạc hội của Amy Tan (Trần Tịnh
Vy), “Hành hương” và “Hành giả” trong văn
hóa tâm linh Trung Hoa và trong Tây du ký (Trần Lê Hoa Tranh), Ảnh hưởng Shaman giáo trong thi học Hàn Quốc
(Phan Thu Hiền) Thuyết tạo dựng Chúa
và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa: trường hợp Maxim Gorky (Trần Thị
Phương Phương), Môtip Kitô giáo trong tiểu
thuyết Nghệ nhân và Margarita của M. Bulgakov và Đoạn đầu đài của Ch. Aitmatov trong kỷ nguyên ‘Thượng đế đã chết' (Nguyễn Thị Tuyết), Tính chất thế tục hóa tôn giáo trong tiểu
thuyết Cám dỗ cuối cùng của Chúa của
Nikos Kazantzakis (Trần Huyền Sâm, Phạm Ngọc Lư), Cảm thức tâm linh và những huyền thoại tâm linh trong Văn học châu Mỹ
Latinh hiện đại, qua trường hợp Văn học hiện thực huyền ảo (Lê Ngọc
Phương), Tâm linh và huyền bí sắc dục
trong văn chương (Phan Nhật Chiêu)...
Tổng kết hội thảo, PGS-TS Nguyễn Hữu Sơn, Phó Viện trưởng Viện
Văn học, nêu lên những vấn đề về tâm linh-tôn giáo và văn học đã được các nhà
khoa học đặt ra trong cuộc hội thảo:
- xác định các mối quan hệ thiên
về mô hình lý thuyết tôn giáo và tâm linh, tôn giáo-tâm linh và văn học, vai
trò tôn giáo-tâm linh trong sáng tạo văn học, các khả năng tác động, cải biến của
văn học nghệ thuật đến đời sống tâm linh.
- lý giải mối quan hệ và tác động
qua lại giữa đặc tính văn học và tâm linh, tâm linh và văn học, xác định phẩm
chất tâm linh như một thành tố, một phương diện tinh thần, qua đó nhấn mạnh định
tính văn học của mỗi tác phẩm, tác giả, giai đoạn và mỗi nền văn học dân tộc.
- minh chứng những yếu tố tâm
linh và tôn giáo xuất hiện trong văn học với nhiều quy mô, mức độ tiếp nhận và ảnh
hưởng khác nhau.
- lý giải mối quan hệ văn học và
tâm linh thiên về tư duy nghệ thuật, tức là khảo sát các mối quan hệ từ điểm
nhìn lý thuyết nhân học và liên ngành.
II. VIẾT
VỀ ĐỜI SỐNG TÂM LINH: MỘT THỰC TẾ HIỂN NHIÊN CỦA SÁNG TÁC VĂN HỌC?
Lê Thu Yến, nhà nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, khẳng
định trong tham luận của mình: “Đi sâu vào khai thác chiếm lĩnh đời sống tâm
linh cùng những trạng thái tâm lý tinh thần đầy bí ẩn của con người là điều mà
văn học mọi thời đều quan tâm”.
Tất nhiên nhận định này dễ dàng được đón nhận tại một hội
nghị đã được chuẩn bị công phu (trong một năm) với đề tài được công bố rộng rãi
và không có ý kiến phản đối, ngăn cản. Có thể nói, việc thừa nhận “đời sống tâm
linh cùng những trạng thái tâm lý tinh thần đầy bí ẩn của con người là điều mà
văn học mọi thời đều quan tâm” đang và sẽ mở ra cho giới nghiên cứu hướng khảo
sát và lí giải những sáng tác văn học viết về thế giới tâm linh của con người.
Quả thật, đã qua rồi cái thời coi “tôn giáo là thuốc phiện
mê dân”, và cũng qua luôn cái thời coi sáng tác văn học chỉ đơn thuần là việc
người cầm bút thực thi nghĩa vụ công dân. Thực thi bằng cách minh họa các chủ
trương chính sách. Thực thi bằng ý thức văn học phải phục tùng chính trị. Một sự
phục tùng triệt để đến mức đặt yêu cầu sáng tạo xuống hàng thứ yếu, đồng thời
tuyệt đối hóa yêu cầu chính trị, đến mức lấy chính trị làm thước đo chất lượng
tác phẩm.
Đến nay, giới nghiên cứu văn học dân gian, trung đại và hiện
đại đang từng bước khám phá và lí giải nội dung “thế giới tâm linh” trong văn học.
Thế giới tâm linh rất phong phú và bí ẩn, như ông Trương Đăng Điệp, Viện trưởng
Viện Văn học phát biểu trong diễn văn khai mạc hội thảo. Chính cái thế giới bí ẩn
và vô hình này vẫn luôn tồn tại, hiện diện đồng thời tác động vào thế giới hữu
hình, khả giác, và trở thành nguồn cảm hứng và đề tài sáng tác của người nghệ
sĩ.
Vì thế, nhà nghiên cứu Lê Thu Yến, trong bài ‘Mộng-niềm tin tâm linh trong văn học trung
đại' viết chung với Đàm Anh Thư, phân tích hiện tượng/hình tượng giấc mộng
trong một số tác phẩm văn học trung đại (Truyện Kiều, Lĩnh Nam chích quái, Việt
điện u linh...), cho rằng:
“Những gì hiện ra trong giấc chiêm bao có thể là ảo, có thể
là không thực nhưng bản thân giấc chiêm bao là thực. Văn học trung đại đã mang
vào tác phẩm của mình những giấc chiêm bao, có chiêm bao thấy điều dữ nhưng
cũng có chiêm bao thấy điều lành và quan trọng là những điều lành điều dữ ấy đều
ứng vào cuộc đời thật của những nhân vật. Có lẽ cũng chính vì vậy mà người ta cầu
mộng và mong muốn được ứng mộng. Việc cầu mộng, chờ ứng mộng được họ thực hiện
một cách thành kính ở những đền, miếu linh thiêng. Đời vua Lý Anh Tông, trời đại
hạn, vua đến đền Hai Bà Trưng “lập đàn cầu đảo” (Truyện hai bà Trinh Linh phu nhân họ Trưng - Lĩnh Nam chích quái) Đời
vua Lý Nhân Tông, hai con sông Thần Phù và Tô Lịch chảy lấn vào góc thành, cho
lấp nhiều lần nhưng không được, vua phải thắp hương cầu khấn và lệnh cho viên
quan họ Tăng “nằm ở đàn tràng, chờ ứng mộng” (Truyện lấp sông Thần Phù và Tô Lịch - Lĩnh Nam chích quái). Không
chỉ cầu mộng, chờ ứng mộng, với người xưa lời hứa trong mộng không thể làm
trái, việc trong mộng cần được tra xét. Vị quan chủ khảo trong truyện Tháp báo ân phải lấy đỗ thêm bài của
chàng nho sinh, nhà vua trong truyện Phương
Hoa ra đề thi thử tài Cảnh Yên theo lời thần đã báo mộng: “Ba bài văn sách ra liền/ Thử xem tài cán của
viên thế nào/ Kẻo mà có sứ thiên tào/ Đêm qua trẫm thấy chiêm bao nhỡn tiền”,
chẳng phải họ đều vì cùng một nguyên nhân, một niềm tin đó sao?”.
Như vậy, theo hai tác giả, những giấc chiêm bao được trần
thuật trong văn chương thể hiện niềm tin vào mối liên hệ giữa thế giới vô hình
và hữu hình, tin rằng các vị thần linh, những đấng tiên hiền, tổ phụ... vẫn hiện
diện và can thiệp vào việc và người đương thời. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một
thí dụ khác. Lê Thu Yến và Đàm Anh Thư cho rằng câu chuyện Thúy Kiều trong cả
hai lần tìm đến cái chết đều thấy Đạm Tiên hiện lên trong cơn mê. Lần thứ nhất
Thuý Kiều đã bị Tú bà bắt phải tiếp khách. Nàng nhất quyết không chịu, đã dùng
dao tự vẫn nhưng không chết. Ngất đi, Kiều đã thấy Đạm Tiên trong cơn mê:
“Nào hay chưa hết trần
duyên,
Trong mê dường đã đứng
bên một nàng.
Rỉ rằng: Nhân quả dở
dang,
Đã toan trốn nợ đoạn
trường được sao?
Số còn nặng nợ má đào,
Người dầu muốn quyết
trời nào đã cho.
Hãy xin hết kiếp liễu
bồ,
Sông Tiền đường sẽ hẹn
hò về sau”
(Truyện Kiều, 993-1000)
và lần thứ hai, bị Hồ Tôn Hiến gả bán cho viên thổ quan,
trên đường đi, Kiều gieo mình xuống dòng Tiền
Đường, được vãi Giác Duyên và ngư ông cứu, Kiều lại mộng thấy Đạm Tiên:
“Ngư ông kéo lưới vớt
người,
Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười
chẳng ngoa!
Trên mui lướt mướt áo
là,
Tuy dầm hơi nước chưa
lòa bóng gương.
Giác Duyên nhận thật mặt
nàng,
Nàng còn thiêm thiếp
giấc vàng chưa phai.
Mơ màng phách quế hồn
mai,
Đạm Tiên thoắt đã thấy
người ngày xưa.
Rằng: Tôi đã có lòng
chờ,
Mất công mười mấy năm
thừa ở đây
Chị sao phận mỏng phúc
dày,
Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai!
Tâm thành đã thấu đến
trời,
Bán mình là hiếu cứu
người là nhân.
Một niềm vì nước vì
dân,
Âm công cất một đồng
cân đã già!
Đoạn trường sổ rút tên
ra,
Đoạn trường thơ phải
đưa mà trả nhau.
Còn nhiều hưởng thụ về
lâu,
Duyên xưa tròn trặn
phúc sau dồi dào!”
(Truyện Kiều, 2705-2724)
Theo Lê Thu Yến và Đàm Anh Thư, Đạm Tiên xuất hiện trên đường
số phận của Kiều như một tác động mang tính giải thoát. Hai nhà nghiên cứu đã gọi
tác động này là “cứu lấy phần tâm” của Thúy Kiều (x. bài đã dẫn).
Như vậy, những giấc mộng được miêu tả trong văn chương nhằm
thể hiện sự tồn tại của thế giới vô hình với những con người vô hình đang tác động
vào thế giới hữu hình. Tác động bằng sự nâng đỡ, an ủi, khích lệ, tiên báo hậu
vận của con người hữu hình. Nhờ sự tác động này, con người trong thế giới hữu
hình được thêm sức lực tinh thần để gánh hết số phận đời mình: “Đoạn trường cho
hết kiếp này mới thôi”. Bước sang văn học hiện đại, các nhà nghiên cứu cũng đã
nhận ra, ngay cả nơi những sáng tác thời “xã hội chủ nghĩa”, vẫn có những áng
văn chương hàm chứa tính tâm linh, cảm nghiệm thế giới linh thiêng, và biểu lộ
một niềm tin vào thế giới vô hình, dù giác quan không đón nhận và lí trí chưa
thể lí giải.
Nhà nghiên cứu Lê Thị Thanh Tâm, trong tham luận Lối đi tâm linh trong thơ Hoàng Cầm, đã
đưa ra kiến giải về cảm hứng quê hương “Kinh Bắc” (tức Bắc Ninh) của Hoàng Cầm
trong suốt một đời cầm bút. Bà viết:
“Điều làm người đọc phải suy tư nhiều chính là ở khả năng tâm linh hóa những biến cố tinh thần,
tình cảm ở nhà thơ. Có phải vì khả năng ấy mà những câu chuyện tình dị thường,
diễm lệ, buồn đau riêng của ông cũng trở thành “điển cố” cho chính ông, ở lại
trong lòng người đọc một cách lâu bền bởi những ngôn từ “tha tâm thông” (thấu
lòng người) một cách tự nhiên”.
Phát hiện của Lê Thị Thanh Tâm quả rất đáng kể. Đó là phát
hiện về “khả năng tâm linh hóa những
biến cố tinh thần, tình cảm” của Hoàng Cầm. Nghĩa là, theo nhà nghiên cứu này,
cảm hứng quê hương Kinh Bắc, trong tâm hồn thi sĩ Hoàng Cầm, đã gần như trở
thành một thứ tín ngưỡng. Tín ngưỡng Kinh Bắc. Một Kinh Bắc đã chi phối mọi
rung cảm nghệ thuật. Và định hướng tâm hồn. Để sống. Để viết. Để ngẫm nghĩ, trầm
tư, suy tưởng. Và xét mình.
Giá trị của tâm linh là vậy đó. Đó là giá trị của niềm tin
và tình yêu. Nhờ những giá trị này, con người được mạnh mẽ và an nhiên giữa mọi
bể dâu, được neo đậu vững vàng giữa giông bão cuộc đời. Và quan trọng nhất, được
tiếp tục truyền đi sự sống đã lĩnh nhận từ quê hương, như một con “chuồn chuồn
khiêng nắng sang sông” (bài thơ Đêm Thổ
của Hoàng Cầm).
Quả thật, đọc bài Đêm
Thổ (trong tập Về Kinh Bắc) và
nhiều bài khác của Hoàng Cầm, độc giả không những cảm nhận “khả năng tâm linh hóa những biến cố tinh thần,
tình cảm” của nhà thơ mà còn được khơi gợi sự suy xét bản thân mình trong tương
quan với sự sống trần thế, khơi dậy khả năng nâng mình lên khỏi những phàm hèn,
để thanh thoát và sáng trong hơn:
“Đêm Thổ
Cúi lạy mẹ con trở về
Kinh Bắc
Chiều xưa giẻ quạt voi
lồng
Thân cau cụt vẫy đuôi
mèo trắng mốc
Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông
Đê mười tám khúc
Văn Giang
Chuông Bách môn đổ xô gò má
Mây thành thổi lửa
Nẻo Đông Triều khép mở
gió kỳ lân
Chớp rạch dáng tiên
vén xiêm xõa ngủ
Thoắt chìm
Gấu đẩy đá Thiên thai
Đi đâu
Tràng mày xếch vòng
cung bắn nát chiều mai ráng đỏ
Châu chấu ma vờn cổ yếm xây
Không gặp người quen
hờ
ngõ cũ
Đêm xuống
làm lầu hoang
Trò chuyện gì ai đâu
Mồ tháng giêng mưa
sũng
Đằm ca dao sáo diều
chiều lịm tím lưng trâu
Bưởi Nga My sao Mẹ bắt
đèo bòng”.
Lê Thị Tâm Anh tiếp tục những phát hiện của mình khi đọc
Hoàng Cầm. Phát hiện về cảm hứng tâm linh. Phát hiện đặc điểm “cứu chuộc” của
thế giới tâm linh đối với thế giới hữu hình, trần thế, phàm tục của con người:
“ Viết về Kinh Bắc mà thiếu tâm linh thì làm cách nào để người
ta cảm nhận được Kinh Bắc? Khí chất tâm linh, khả năng “siêu cảm” là vốn trời
cho ở Hoàng Cầm. Tâm linh ở đây không chỉ là câu chuyện của tôn giáo, tín ngưỡng.
Tâm linh gắn với một nền tảng “vô thức tập thể” mà những nghệ sĩ lớn đời nào
cũng tìm ra con đường để “hoạt hóa”. Hoàng Cầm được sinh ra và làm thơ để làm sống
dậy hình hài Kinh Bắc trong tất cả những thăng trầm của nó. Cái dáng nằm
“nghiêng nghiêng” của sông Đuống là kỳ quan tinh thần của nhà thơ để lại cho đời
hơn là một phát hiện mang tính địa lý. Chiếc yếm bay không có mấy chiều sâu nếu
nó không được khắc vào trong những câu thơ “nguồn
sống tuôn thơm nhựa ứa đầy/ một chiều hoảng sợ mấy chiều say”; '“Hương ngát em lồng kín cõi - anh/ Yếm đào
trút lại phía vô linh/ đung đưa gác lửng
nghênh xuân ấy/ đôi núm hồng em nở hết mình” (Hội yếm bay).
Không khí tâm linh trong thơ Hoàng Cầm mang hơi hướng “cứu
chuộc” những cái bị cho là thô xấu, tội lỗi. “Dâng hiến” và “cứu chuộc” là bản
chất sâu xa của mọi niềm tin tôn giáo. Đó là những khái niệm không còn là khái
niệm. Dâng hiến và yêu thương là một. Làm
cho đẹp cũng là cứu chuộc. Hình ảnh nhục cảm mà gợi nên những sự đẹp đẽ thì
chính nó đã cứu chuộc cho những ý nghĩ thấp tối về nó”.
Quả thật, “làm cho đẹp” thế giới này chính là một cách cứu
chuộc thế giới và con người.
Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng, như đã nêu trong nhan đề bản
tham luận của mình Sự thức tỉnh của tâm
linh từ góc nhìn văn hóa, qua một số tiểu thuyết xuất bản gần đây, muốn đi
sâu tìm hiểu cảm hứng tâm linh trong văn xuôi hiện đại.
Bản tham luận của Bùi Việt Thắng giúp độc giả tìm đọc một số
tác phẩm mang cảm hứng tâm linh:
Tác giả Nguyễn Xuân Khánh với Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa. Nguyễn Huy Thiệp và một loạt
truyện ngắn: Những ngọn gió Hua Tát, Muối
của rừng, Chảy đi sông ơi, Tâm hồn mẹ, Con gái thủy thần, Chút thoáng Xuân
Hương, Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt, Thương nhớ đồng quê... Tiểu thuyết Cách trở âm dương của Vũ Huy Anh. Đoàn
Minh Phượng và tiểu thuyết Và khi tro bụi.
Nguyễn Một và tiểu thuyết. Cõi người rung
chuông tận thế của Hồ Anh Thái. Họ vẫn
chưa về, cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Thế Hùng. Nguyễn Đình Tú và Hoang tâm. Tiểu thuyết Chân trần của Thùy Dương...
Một bản liệt kê khá ấn tượng về số lượng tác giả và tác phẩm
hướng vào đề tài tâm linh.
Luận điểm chính trong bản tham luận của Bùi Việt Thắng có thể
tìm thấy trong đoạn ông nhận định về tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế
của Hồ Anh Thái:
“Thế giới hiện thực đời sống, không chỉ là những gì hiện hữu,
hữu hình mà còn là những gì ẩn khuất, vô hình”.
Và trong đoạn cuối bản tham luận, ông dựa vào một câu nói của
nhà văn Pháp André Malraux: “Thế kỉ XXI là thế kỷ của tâm linh” để đưa ra kết
luận:
“Đặc điểm của đời sống tinh thần giàu có tâm linh là ‘khoan
dung', ‘an nhiên', ‘hài hòa', ‘cứu rỗi', ‘thông linh', ‘khai mở'... Năng lực
tâm linh sẽ giúp con người biết lắng nghe tự nhiên, xã hội, con người; thậm chí
có thể ‘nghe' được cả bước đi của lịch sử một cách tinh tế nhất như nhà thơ
Nguyễn Đình Thi đã viết: ‘Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất/ Những buổi ngày xưa vọng
nói về' (Đất nước)”.
Như vậy, khi nghiên cứu văn xuôi hiện đại, Bùi Việt Thắng từ
sự thừa nhận có đời sống tâm linh đã gián tiếp kêu gọi mở cửa, khích lệ và đón
nhận những tác phẩm chia sẻ với độc giả về cảm nghiệm tâm linh, bởi “Năng lực
tâm linh sẽ giúp con người biết lắng nghe tự nhiên, xã hội, con người; thậm chí
có thể ‘nghe' được cả bước đi của lịch sử một cách tinh tế nhất”.
Lý giải cảm hứng tâm linh của người cầm bút, Bùi Việt Thắng
cho rằng đó là do ảnh hưởng của tư tưởng tôn giáo tác động vào tư tưởng của nhà
văn. Ông trích lời nhà văn Hồ Anh Thái trả lời báo chí, cho biết mình tiếp nhận
các nguồn Kinh Thánh Kitô giáo và Triết học Phật giáo khi viết Cõi người rung chuông tận thế:
“Khúc cuối cùng trong Kinh Thánh Tân ước, Thánh Gioan báo
trước cho đồ đệ về ngày phán xử cuối cùng, ngày cái Ác tràn lan sẽ bị trừng phạt,
ngày tận thế của cái Ác. Nhiều năm gần đây, hình như không chỉ cõi người phẫn nộ
với cái Ác mà cả trời đất cũng nổi giận, thiên tai khắp nơi như lời cảnh báo với
con người đang hủy diệt môi trường, hủy hoại cuộc sống và tâm hồn nhau”.
và:
“Triết học Phật giáo không tin vào định mệnh: kẻ làm ác vẫn
còn có cơ hội được giác ngộ, được đón nhận trở lại cõi người, chứ không phải
bao giờ cũng bị trừng phạt”[2].
III. ĐƯỜNG
ĐI ĐẾN THẾ GIỚI TÂM LINH CỦA VĂN CHƯƠNG
Đến đây, có thể thấy, trong thực tế sáng tạo nghệ thuật hiện
nay, phải chăng các nghệ sĩ đang tự vượt qua chính mình, đến với những quan niệm
đa dạng và phong phú về con người và cuộc sống. Có những quan niệm đã tồn tại hằng
mấy ngàn năm. Có những quan niệm nhất thời, nhanh chóng bị đào thải. Có những
quan niệm đến nay vẫn chi phối, tác động, ảnh hưởng, thấm thía. Có những quan
niệm gây náo động, ầm vang, rồi mất hút trong cõi lặng im. Cõi nhân sinh, trong
đó có người viết và người đọc -và cả những người không viết, không đọc- luôn điềm
nhiên, không can thiệp (và cũng chẳng thể can thiệp) vào đời sống tư tưởng của
con người. Con người mặc sức nghĩ. Con người mặc sức đọc. Và cả con người không
muốn nghĩ ngợi và đọc. Cõi nhân gian này đón nhận tất cả. Nghĩa là rất tự do. Bởi
tự do nên tư tưởng tha hồ sinh sôi. Cũng bởi tự do, nên con đường đào thải cũng
đã được dành sẵn. Sinh sôi cái mới và thải hồi những cũ kỹ, chẳng còn sinh lực.
Các nhà văn đương đại đang sống vào thời buổi tha hồ học hỏi,
sàng lọc và tiếp nhận những tư tưởng của loài người. Chỉ có điều, tiếp nhận là
một chuyện, còn thẩm thấu, chuyển hóa thành tư tưởng và quan niệm thẩm mỹ lại
là một chuyện khác.
Bởi chuyển hóa là cả một quá trình, đòi hỏi người nghệ sĩ phải
xác tín và sống những điều xác tín. Đó không phải là sự thuộc lòng những tín điều,
trưng dẫn uyên bác các khái niệm, nhưng là chứng nhân đầy hứng khởi và xác tín
về những tư tưởng mình đã đón nhận. Bằng trọn vẹn hiện hữu của mình. Xác và hồn.
Xúc cảm và lý trí. Ngôn và hành.
Nhiều thế hệ cầm bút Việt Nam đã thể hiện sự chuyển hóa đó.
Một sự chuyển hóa lặng lẽ mà thấm sâu. Như ánh trăng và làn nước nên một trong
đêm rằm trời quang mây tạnh. Như xác và hồn hiệp nhất thành sự sống.
Các thi sĩ Việt Nam thời Lý-Trần là một minh chứng cho sự
dung nạp, chuyển hóa, điều kiện tiên quyết để văn chương đi đến thế giới tâm
linh, sáng tạo nghệ thuật như một sự thực hành và thể hiện Đạo. Trường hợp của
nhà thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ là rất tiêu biểu. Ông tên thật là Trần Tung (hay Trần
Quốc Tung 1230 - 1291), thuộc hoàng tộc nhà Trần, tước hiệu Hưng Ninh Vương, đồng
thời là một thiền sư. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền
và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên
Tử. Thi ca của ông là sự giãi bày tâm thế một con người tự do tuyệt đối, đã đạt
tới cảnh giới giải thoát, siêu vượt mọi giới hạn. Nhưng phẩm chất Thiền nơi con
người Tuệ Trung Thượng Sĩ lại cộng sinh với phẩm chất ẩn sĩ của Đạo gia và Nho
gia, thể hiện một sự dung nạp ba nguồn tư tưởng Phật-Nho-Lão và chuyển hóa
thành tư tưởng và cảm hứng thẩm mĩ độc đáo của riêng ông. Bài thơ Phóng cuồng ngâm cho thấy điều đó. Trích
đoạn:
“Thiên địa diếu vong hề
hà mang mang
Trượng sách ưu du hề
phương ngoại phương
Hoặc cao cao hề vân chi sơn,
Hoặc thâm thâm hề thủy
chi dương
Cơ tắc xan hề hòa là
phạn
Khốn tắc miên hề hà hữu
hương
Hứng thời xuy hề vô khổng
địch
Tĩnh xứ phần hề giải
thoát hương
Quyện tiểu phại hề
hoan hỉ địa
Khát bão xuyết hề tiêu
dao thang (...)
dịch nghĩa:
Ngắm trông trời đất sao mà mênh mông
Chống gậy nhở nhơ ngoài thế gian
Hoặc đến chỗ núi mây cao cao
Hoặc đến chỗ nước biển sâu sâu
Đói thì ăn cơm hòa la
Mệt thì ngủ làng “không có làng”
Khi hứng thì thổi sáo không lỗ
Nơi yên tĩnh thì thắp hương giải thoát
Mệt thì nghỉ tạm ở đất hoan hỉ
Khát thì uống no thang tiêu dao (...)
Đoạn trích cho thấy một Tuệ Trung Thượng Sĩ tràn trề phong
thái tự do tiêu dao, hành xử thuận theo tự nhiên. Không còn phân biệt núi cao rừng
sâu, tất cả chỉ còn là tùy thời tùy tục, đói ăn mệt ngủ. Lẽ sống an nhiên của Đạo
gia hợp nhất với tinh thần vô chấp của Phật giáo, thể hiện sự thẩm thấu và chuyển
hóa nhẹ nhõm các nguồn tư tưởng khác nhau trở thành tư tưởng và cảm hứng thẩm
mĩ của nhà thơ.
Một trường hợp khác: nhà thơ Hàn Mặc Tử. Ông vừa là một nhà
thơ siêu thực, vừa tràn trề cảm hứng tôn giáo. Nói đúng hơn, ông tìm ra phương
thế sử dụng hình tượng nghệ thuật siêu thực để giãi bày những xúc cảm của mình
về Đấng Siêu việt và Cõi Vô hình.
Cảm hứng tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử vẫn được nhiều người
phân tích và chứng minh qua việc chọn ra những ngôn từ nhà đạo, những khái niệm,
hình ảnh đậm chất Kitô giáo (khiến nhiều người cho rằng chỉ như vậy, hoặc chỉ cần
vậy, mới là thơ đạo!). Trong khi đó Hàn Mặc Tử đã chuyển hóa xác tín Kitô giáo
thành sáng tạo nghệ thuật của mình. Ngôn ngữ và hình ảnh thi ca của ông không
phải là sự minh họa thô sơ và vụng về những nội dung nhà đạo, trái lại đã mang
dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ sáng tạo. Niềm tin tâm linh đã đồng nhất, nên
một với tư duy và cảm hứng thẩm mĩ. Nghĩa là, niềm tin không bị giới hạn trong
ngôn từ, khái niệm tôn giáo, mà trở thành linh hồn của ngôn ngữ và hình ảnh thi
ca. Một sự hòa điệu và hợp nhất của thi ca và đức tin. Bài thơ Siêu thoát là một trong rất nhiều ví dụ:
Siêu thoát
Mới hay cõi siêu hình
cao tột bực,
Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao.
Xa lắm rồi, xa lắm,
hãi dường bao!...
Ai tới đó chẳng mê man
thần trí,
Toà châu báu kết bằng
hương kỳ dị
Của tình yêu rung động
lớp hào quang.
Những cù lao trôi nổi
xứ mênh mang, Sẽ quy tụ, thâu về trong một mối, Và tư tưởng không bao giờ chắp
nối Là vì sao? Vì sợ kém thiêng liêng. Trí vô cùng lan nghĩ rộng vô biên Cắt
nghĩa hết những anh hoa huyền bí.
Trời bát ngát không cần
phô triết lý Tợ ánh lai chấp choá những hàng châu Ta hiểu chi áng gió nhiệm mầu
Những hạt lệ của trích tiên đày đọa?
A ha ha! Say sưa chê
chán đã
Ta là ta hay không phải
là ta?
Có gì đâu, cả thế với
cao xa,
Như cội rễ của trăm
nguồn đạo hạnh
Hớp rượu mạnh, máu
càng hăng sức mạnh
Ôi điên rồi! Khoái lạc
đến ngất ngư
Thương là thương lòng
mình giận chưa nư
Hồn vội thoát ra khỏi
bờ trí tuệ.
Bài thơ diễn tả trải nghiệm tinh thần của tác giả về sự hiệp
nhất giữa vô biên và hữu hạn, vô hình và hữu hình: Mới hay cõi siêu hình cao tột bực / Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao
và niềm khát khao của mọi thụ tạo mong được giải thoát khỏi thân phận mong
manh, rồi sẽ bị cái chết đẩy vào hư vô: “Những
cù lao trôi nổi xứ mênh mang, / Sẽ quy tụ, thâu về trong một mối, / Và tư tưởng
không bao giờ chắp nối / Là vì sao? Vì sợ kém thiêng liêng”. Hàn Mặc Tử
không làm thơ giáo lý, nhưng nhờ giáo lý, ông nhìn thấu thân phận con người,
trong đó có ông, một cuộc đời và một tập thơ mang tên “đau thương”.
* * *
Như vậy văn chương về thế giới tâm linh phải là tiếng nói của
con người mà tinh thần và hành động sáng tạo đồng nhất với hành trình cuộc sống
được tâm linh hóa, nghĩa là trải nghiệm thế giới vô hình ngay từ những thực tại
hữu hình của đời sống. Một hành trình chuyển hóa niềm tin vào Đấng Siêu việt và
những giá trị siêu việt thành hiện thực cuộc sống của bản thân người cầm bút.
Đó là cuộc sống xác tín những giá trị siêu việt và diễn tả những giá trị đó bằng
sự phấn đấu thực thi công bằng - bác ái qua những việc hữu hình, trong cõi nhân
sinh.
Vậy đó, những cây bút hiện đại ở nước ta, qua những tác phẩm
viết về tâm linh, dường như chưa bước vào cuộc chuyển hóa này. Văn chương của họ
mới chỉ hiện ra phần xác của chữ nghĩa, khái niệm, còn phần hồn của xác tín
“tâm linh”, “tôn giáo” thì còn mờ nhạt và có phần khiên cưỡng.
Tuy nhiên, cũng phải nhận ra đây là một tín hiệu đáng mừng
cho một nền văn chương vốn bị kềm hãm quá lâu trong một không gian khép kín,
nay đang mở ra đón những luồng gió mới.
Những luồng gió trong cõi nhân sinh. Những luồng gió đến từ
trời cao.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 83 (Tháng 7 &
8 năm 2014)