CHÚA BA NGÔI
TRONG ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH
Giuse Phan Quang Trí, O.Carm.
Rôma, 06/06/2020
WHĐ, 06-06-2020 – Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi vẫn còn xa lạ đối với rất nhiều các tín hữu
hôm nay. “Xa lạ” không phải là vì anh chị em giáo dân không biết công thức đức
tin: Một Thiên Chúa duy nhất có ba Ngôi riêng biệt bao gồm Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần. “Xa lạ” là vì có rất nhiều tín hữu chưa hiểu đúng về mối
liên hệ sâu xa giữa mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi với đời sống đức tin của họ.
Nhiều người chưa ý thức được tầm quan trọng của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với vận
mạng và sứ mạng của họ. Chính vì vậy mà kể từ Công Đồng Chung Vaticanô II, nhiều
thần học gia chủ trương trình bày học thuyết Chúa Ba Ngôi bớt dựa trên các luận
chứng lý trí mà thiên về các suy tư linh đạo. Nói cách khác, việc vận dụng
nguyên tắc lý trí để giải trình và biện hộ cho nội dung đức tin đã được các
Giáo Phụ và biết bao thế hệ thần học gia của Hội Thánh thực hiện cách xuất sắc.
Ngày nay, nhiệm vụ cấp bách hơn được đặt ra đối với các giáo huấn của Hội Thánh
là làm sao giúp cho các Kitô Hữu sống đức tin cách hiệu quả nhất. Nghĩa là giúp
cho các Kitô Hữu ngày nay nhận ra rằng học thuyết Chúa Ba Ngôi liên hệ trực tiếp
đến toàn bộ đời sống của Giáo Hội và của bản thân họ. Không phải “hiểu rồi mới
tin”, nhưng là “càng tin thì càng mến Chúa và yêu người hơn.”
Nhân ngày lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta cùng tìm hiểu bài giáo lý về vai
trò của Thiên Chúa Ba Ngôi trong đời sống Giáo Hội do Thánh Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II trình bày trong buổi tiếp kiến chung ngày 14 tháng 6 năm Thánh 2000 [1].
Trong đó Thánh Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng Hội Thánh chính là công trình của
Thiên Chúa Ba Ngôi. Các đặc tính chính của Hội Thánh như ‘duy nhất, thánh thiện,
công giáo và tông truyền’ đều là phản ảnh vẻ huy hoàng siêu việt của Thiên Chúa
Ba Ngôi.
Duy Nhất
Cho dù Giáo Hội do Đức Kitô thiết lập vẫn đang chịu cảnh chia rẽ đáng
tiếc nhưng bản chất của Hội Thánh là duy nhất. Duy nhất vì chỉ có một phép rửa,
một đức tin và một Chúa Thánh Thần. Hiến chế tín lý về Giáo Hội của Công Đồng Chung
Vaticanô II nói rõ, “Giáo Hội phổ quát xuất hiện như ‘một dân tộc hiệp nhất do
sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Lumen Gentium, #4). Không có kiểu mẫu hiệp nhất nào lý tưởng hơn,
hoàn hảo hơn là sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính vì Thiên Chúa Ba
Ngôi là mẫu hình và là cội nguồn cho sự hiệp nhất trong Giáo Hội cho nên Hội
Thánh mãi mãi là duy nhất. Hội Thánh ấy bao gồm tất cả những ai đã lãnh nhận
cùng một phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, bao gồm tất
cả những ai tuyên xưng cùng một niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh và chịu sự tác
động của cùng một Thần Khí (x. Unitatis
redintegratio, #2). Điều này thể hiện rất rõ nơi các cộng đoàn Kitô Hữu
tiên khởi, mọi người hiệp thông với nhau chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy,
siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và liên lỉ cầu nguyện không ngừng (x. Cv 2, 42;
4, 32).
Tính hiệp thông của
Thiên Chúa Ba Ngôi là kiểu mẫu cho Giáo Hội phổ quát thế nào thì cũng sẽ là lý
tưởng cần vươn đến cho mỗi cá nhân Kitô Hữu như thế. Là phần tử của Hội Thánh,
chúng ta vinh hạnh mang trong mình khả năng và sứ mạng “kết nối” mọi người.
Chúng ta mang trên vai trọng trách xây dựng và củng cố tình liên đới gắn kết giữa
mọi thành phần trong xã hội, cộng đoàn và gia đình của chúng ta. Muốn làm tốt
vai trò đó, chúng ta cần kết hợp chính mình với Chúa Cha, với Ngôi Lời, và với
Thần Trí của Thiên Chúa vì chưng chúng ta càng gắn bó mật thiết với Thiên Chúa
Ba Ngôi bao nhiêu thì chúng ta càng lớn mạnh bấy nhiêu trong tình huy đệ hiệp
nhất với anh chị em xung quanh (x. Unitatis
redintegratio, #7).
Thánh Thiện
Khi nói đến đặc
tính thánh thiện của Hội Thánh, Đức Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta tìm về
nguyên nghĩa của thuật ngữ “thánh thiện” trong truyền thống Kinh Thánh. Theo
đó, “thánh” có hàm ý nói đến những gì liên quan đến Thiên Chúa, đấng tuyệt đối
thánh thiện. Một dân tộc, một người, hay một vật nào đó chỉ được xem là “thánh”
khi đã được chính Thiên Chúa “thánh hiến”, nghĩa là được Thiên Chúa chọn làm của
riêng. Giáo Hội là Dân Thánh vì nơi Hội Thánh luôn có sự hiện diện của Thiên
Chúa. Chính Thiên Chúa Ba Ngôi làm cho cộng đoàn đức tin nên tinh tuyền thánh
thiện (x. Ga 17, 17 & 19).
Các cử hành phụng
vụ, đặc biệt là Thánh Lễ, diễn tả sống động nhất sự hiện diện đầy gần gũi thân
tình của Thiên Chúa Ba Ngôi trong tương quan với toàn thể Hội Thánh. Nơi Hy Tế
Tạ Ơn, Hội Thánh xét như Thân Thể nhiệm mầu Chúa Kitô trong sự hiệp nhất với
Chúa Thánh Thần dâng lên Thiên Chúa Cha hy lễ tạ ơn vô cùng cao quý. Thánh Lễ
là tiệc thánh trên trần gian vì quả thực khi tham dự đúng đắn vào các nghi lễ
phụng thờ của Hội Thánh, các tín hữu được diễm phúc nếm trước tiệc thánh tuyệt
hảo trên trời. Chúng ta đừng quên là nhờ Bí Tích Thanh tẩy, chúng ta được thông
dự vào chức tư tế của Đức Kitô. Do đó, chúng ta cần phải sống đúng với chức phận
và ân ban Chúa đã trao cho; đó là tham dự tích cực và sốt sáng các cử hành phụng
vụ và đời sống cầu nguyện của Hội Thánh. Phụng Vụ Thánh còn diễn tả mầu nhiệm
hiệp thông trong Giáo Hội, chính vì vậy mà Thánh Công Đồng Vaticanô II chỉ ra rằng:
tình yêu thương chúng ta dành cho nhau kết hợp với những lời tán dương tung hô
Chúa trong khi cử hành phụng vụ là một trong những cách thế xứng hợp chúng ta
góp phần chu toàn sứ mạng của Hội Thánh nơi trần gian này (x. Lumen Gentium, #51).
Công Giáo
Trong kế hoạch
nhiệm mầu của Thiên Chúa thì bản chất của Hội Thánh là truyền giáo vì Hội Thánh
phát xuất từ sứ mạng của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần. Điều này đã được nói rõ
trong hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân - Lumen
Gentium và sau đó được triển khai đầy đủ hơn trong sắc lệnh Đến Với Muôn
Dân – Ad Gentes. “Thiên Chúa đã quyết
định đi vào lịch sử loài người một cách mới mẻ và dứt khoát bằng cách sai Chúa
Con xuống thế làm người để giải thoát nhân loại khỏi quyền lực tối tăm và ma quỷ
(x. Cl 1, 13; Cv 10, 38), hòa giải thế gian với Người (x. 2 Cr 5, 19) hầu mọi sự
được tái lập (x. Ep 1, 10). Bằng đường lối nhập thể, Chúa Con đã đến làm cho
loài người được thông phần bản tính Thiên Chúa. Để hoàn tất công việc cứu rỗi,
Chúa Thánh Thần đã được phái đến để thực hiện công trình cứu chuộc trong các
tâm hồn và thúc đẩy Giáo Hội bành trướng thêm mãi. Do đó, lãnh nhận sứ mạng từ
Đức Kitô, Giáo Hội vì là “bí tích cứu độ phổ quát”, có bổn phận rao giảng Tin Mừng,
dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, nhờ gương mẫu đời sống, lời giảng dạy và
các bí tích mà dẫn người ta đến đức tin. Giáo Hội phải tiến bước trên con đường
mà Chúa Kitô đã đi là nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến (x. Ad Gentes, #2-5). Tâm điểm đời sống của
Giáo Hội là hoạt động truyền giáo.
Nói tóm lại, vì
Giáo Hội là công trình của Chúa Ba Ngôi nên Giáo Hội mang sứ mạng đến với muôn
dân. Vì Giáo Hội hiện diện và nhắm đến lợi ích các linh hồn nên Giáo Hội có đặc
tính phổ quát. Đối với thế giới và nhân loại hôm nay, mỗi phần tử của Hội thánh
có sứ mạng tiếp xúc và thấm nhập dần dần, như lời Thánh Phaolô Tông Đồ khuyên
nhủ, hầu muôn vật muôn loài đều quy phục cùng một thủ lãnh là Thiên Chúa ba
Ngôi toàn năng (x. 1Cr 15, 25-28).
Tông Truyền
Trước khi Chúa
Kitô Phục Sinh về trời, Người hứa ban Thần Khí và sai các Tông Đồ “đi khắp tứ
phương thiên hạ, làm cho muôn dân trở nên môn đệ và làm phép rửa cho họ nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (x. Mt 28, 19-20). Lệnh truyền này
không chỉ dành riêng cho các Tông Đồ nhưng qua các ngài nối dài đến toàn thể mọi
thành phần Hội Thánh. Sau khi nhận được Chúa Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần,
các Tông Đồ đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng và dấn thân thi hành mệnh lệnh Chúa
Kitô để lại. Các ngài dùng chính mạng sống mình để minh chứng cho muôn dân biết
thế nào là tin. Cuộc đời và lời rao giảng của các Thánh Tông Đồ cũng chính là
di sản vô giá các ngài truyền lại cho các thế hệ Kitô Hữu tiếp theo. Cứ thế, Hội
Thánh Chúa tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng cho đến ngày tận thế. Tông truyền
là đặc tính cao trọng của Hội Thánh nhưng đồng thời cũng là lời nhắc nhở cảnh tỉnh
cho các Kitô Hữu. Chúng ta cần luôn ý thức về sứ mạng làm cho muôn dân hợp đoàn
thành Dân Thiên Chúa duy nhất, thành Thân Thể Chúa Kitô, và nên Đền Thờ sống động
của Chúa Thánh Thần (x. Ad Gentes,
#7).
Để kết luận,
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhắc lại điểm căn bản nhất trong học thuyết về
Giáo Hội của Công Đồng Chung Vaticanô II đó là: Giáo Hội duy nhất, thánh thiện,
công giáo và Tông truyền không những là công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi mà
còn là “bí tích” diễn tả chính xác về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Hội Thánh đích thị
là Dân của Chúa (Cha), là Thân Thể Chúa Kitô và là Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Ba biểu tượng Thánh Kinh chúng ta vừa nhắc đến
cho thấy Hội Thánh mang đậm chiều kích Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu
và Hiệp Nhất. Cho nên tất cả chúng ta, mọi phần tử của Hội Thánh phổ quát, đều
mang trách nhiệm song song; trước là gìn giữ và phát huy tình liên đới hiệp
thông trong lòng Hội Thánh, sau là trở nên nhân tố liên kết mọi người trên thế
giới nên một trong cùng một Phép Rửa và một đức tin. Hiểu về vai trò của Chúa
Ba Ngôi trong đời sống Giáo Hội giúp chúng ta càng vững tin vào quyền năng và
ơn phù trợ của Thiên Chúa. Càng tin, ước mong sao, chúng ta càng thêm mến Chúa
và yêu người hơn.