Chiêm
ngắm Thiên Chúa Ba Ngôi
Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
WHĐ, 03-06-2020 – Một Chúa Ba Ngôi luôn là mầu nhiệm lớn
lao và khó hiểu nhất. Lớn lao vì đây là mầu nhiệm trọng tâm nhất của Kitô giáo.
Khó hiểu vì chẳng thể nào giải thích thấu đáo chỉ có một Thiên Chúa nhưng trong
đó lại có ba Ngôi Vị. Ngay cả thánh Augustinô sau khi nỗ lực tìm kiếm để giải
thích về mầu nhiệm này, ngài cũng chấp nhận trong khó hiểu. Với ngài, việc múc
“nước biển đổ vào hang sò”[1]
còn dễ hơn giải thích mầu nhiệm này. Do đó, bài viết dưới đây xin chọn con đường
chiêm ngắm để thấy Thiên Chúa chúng ta thật cao vời, nhưng gần gũi biết bao.
1. Thuở tạo thiên lập địa
Cựu Ước chỉ có một
Thiên Chúa là Giavê duy nhất. Tất cả Kinh Thánh Cựu Ước đều diễn tả một mình
Thiên Chúa làm chủ muôn loài. Dân trong cựu ước không kinh nghiệm về Thiên Chúa
Ba Ngôi. Dù đôi chỗ có nhắc đến “thần khí” hoặc dân đang mong mỏi Đấng Thiên
Sai (Mêsia); nhưng dĩ nhiên, họ không cho rằng đó là Chúa Thánh Thần hoặc Đức
Giêsu. Trong nhãn quan thời cựu ước, ngoài Thiên Chúa không có thần nào khác
quyền năng và cao cả cho bằng. Dân thời ấy cũng không dám và cũng chẳng thắc mắc
về Thiên Chúa có mấy ngôi! Có lần họ muốn biết Thiên Chúa là ai, và qua lần gặp
với Môsê, Thiên Chúa cho dân biết một chút về Ngài: “Ta là Đấng Ta là!” (Xh
3,14).
Điều thú vị là
trong đoạn đầu của sách Sáng Thế, độc giả sẽ ngạc nhiên về cách mô tả trong
công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Sau năm ngày Thiên Chúa tạo nên muôn loài,
ngày thứ Sáu, Thiên Chúa muốn dựng nên một loài giống hình ảnh Thiên Chúa.
“Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống
như chúng ta.” (St 1,26) Thiên Chúa xưng hô trong số nhiều khi chuẩn bị làm một
công trình lớn lao nhất[2].
Đây là một cuộc bàn luận của Ba Ngôi, nếu nhìn từ Tân Ước.
Dĩ nhiên, chúng
ta không thể biết các Ngài bàn luận bao lâu và về những gì. Chúng ta biết chắc
một điều: Thiên Chúa muốn tạo nên con người một cách đặc biệt. Con người này
mang “gen di truyền” của Thiên Chúa. Nghĩa là, con người được thừa hưởng tình
yêu, tự do, hiệp nhất nhiều điều tốt lành từ Thiên Chúa. Các nhà chú giải khẳng
định rằng: chắc chắn Thiên Chúa không bàn luận với các thiên thần, vì các vị
không làm ra con người. Cuộc bàn luận ấy chỉ diễn ra trong Thiên Chúa, Ba Ngôi
trò chuyện với nhau.
Kết quả của cuộc
bàn luận này là các Ngài lấy đất nặn ra con người. Thiên Chúa thổi sinh khí vào
con người. Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Đó là ngày thứ Sáu. Vậy là
công trình sáng tạo muôn loài của Thiên Chúa Ba Ngôi đã hoàn tất. Mọi sự đều tốt
đẹp. Ngày thứ Bảy Thiên Chúa Ba Ngôi “nghỉ ngơi”.
2. Trong công trình cứu độ
Tiếc là con người
đã không tuân giữ lời căn dặn của Thiên Chúa. Họ đã ăn trái cấm và bị Thiên
Chúa đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng. Từ đó về sau là giai đoạn khốn cùng của con
người. Vì Thiên Chúa Ba ngôi là tình yêu, nên các Ngài không bỏ con người.
Thiên Chúa một lần nữa bàn luận để tìm cách cứu con người.
Kinh Thánh không
ghi lại cuộc bàn luận này. Tuy nhiên nếu ai có dịp đọc sách Linh Thao của thánh
I–nhã Loyola, hoặc làm Linh Thao, sẽ bắt gặp cuộc trò chuyện này. Để giúp chiêm
ngắm màu nhiệm nhập thể thánh I–nhã mời chúng ta hình dung Ba Ngôi Thiên Chúa
nhìn xuống trái đất bao la với muôn vàn con người. Họ đang đau khổ lầm than.
Nào là thiên tai chiến tranh, bệnh tật chết chóc; nào là cảnh nghèo đói lầm
than. Trước tình cảnh bi thương đó, Ba Ngôi bàn thảo với nhau để tìm cách cứu độ
con người, loài thụ tạo mà Thiên Chúa đã nắn nót làm nên giống hình ảnh Thiên
Chúa. Vì tội lỗi, nên con người đang phải chịu cảnh đọa đày như thế.
Ba Ngôi Thiên
Chúa quyết định cử Ngôi Hai xuống thế làm người. Vậy là Đức Giêsu được sinh ra
trong một gia đình. Sau ba năm rong ruổi trên mọi nẻo đường để rao giảng Nước
Thiên Chúa, Đức Giêsu phải lên Giêrusalem để đối diện với cái chết. Ba Ngôi đã
dùng phương cách ấy để cứu lấy con người đang lầm than, chết chóc.
Trong hai cuộc
bàn luận trên, chúng ta có thể hiểu thêm về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Cụ thể
Giáo Hội tuyên tín rằng: Chúa Cha sinh ra (natus) Ngôi Con là Đức Giêsu Kitô.
Ngôi Cha không có khởi đầu và kết thúc; Ngài tự Ngài mà có. Ngài là nguồn suối
và nguồn gốc, hay sự khởi đầu của toàn thể thiên tính. Ngài làm ra tất cả mọi sự
nhờ Ngôi Con và Thánh Thần (x. HD tr.1609)[3]. Trong khi
đó, Đức Giêsu Kitô là Con Một duy nhất của Chúa Cha. Ngôi Hai cũng hiện hữu từ
trước muôn đời trong mầu nhiệm thánh thiêng. Người là Đấng trung gian cứu độ. Sau
cùng, Chúa Thánh Thần phát xuất từ Ngôi Cha và Ngôi Con. Ngài là Thần Khí (Tình
Yêu) của Ngôi Cha và Ngôi Con. Còn nhớ trong ngày lễ Ngũ Tuần, Đức Giêsu ban
Chúa Thánh Thần cho các môn đệ và cho Giáo Hội. Hoặc nói đúng hơn, Chúa Thánh
Thần bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. (x. Tuyên tín của Công đồng
Con-tan-ti-nô-pô-li (381) và Khan-kê-đô-ni-a (451)).
Chắc chúng ta
không cần đi vào chi tiết những thuật ngữ chuyên môn nói về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Với truyền thống Giáo Hội và kinh nghiệm đức tin, mỗi người đều nhận thấy trong
công trình cứu chuộc, Thiên Chúa luôn đồng hành với con người. Chúng ta có khi
cầu nguyện với Thiên Chúa trong cương vị là Chúa Cha (Kinh Lạy Cha), trong
cương vị là Chúa Giêsu và có khi chúng ta nài xin ơn Chúa Thánh Thần. Dù cầu
nguyện với Ngôi Vị nào, chúng ta cũng vẫn trò chuyện với một mình Thiên Chúa mà
thôi. Nơi đó, cả Ba Ngôi đều hoạt động và cứu lấy con người.
3. Nơi cuộc đời Đức Giêsu
Có lẽ chúng ta hiểu
Thiên Chúa Ba Ngôi rõ nhất trong những gì Kinh Thánh Tân Ước ghi lại. Ngay từ
biến cố Truyền Tin, chúng ta tuyên xưng: “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Đức
Giêsu xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh.” Rồi trong khi Đức Giêsu chịu
phép rửa tại sông Giođan, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cũng “hiện ra” ban lời:
“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3,13–17). Điều này xuất
hiện lần thứ hai khi Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. “Đây là Con Ta, người
đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9,28–36).
Điều thú vị là Đức
Giêsu hằng ngày đều cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Đức Giêsu và Chúa Cha rất gần
gũi[4].
Lúc này Ngôi Con trong hình hài con người. Vì là người thật, nên Đức Giêsu cần
chạy đến với Thiên Chúa Cha để xin ơn và được hướng dẫn. Có lẽ vì là con người
nên Ngài có lần thấy mình cô đơn, thấy Chúa Cha vắng bóng. Và chính trên thập
giá, Chúa Giêsu khi sắp lìa đời, đã hướng về Chúa Cha và kêu lên: “Lạy Cha, lạy
Cha, sao Cha bỏ con?” (Mc 15,34; Mt 27,46). Tuy vậy, Ngài vẫn hằng vâng lời Cha
để cứu chuộc con người. Nhờ đó sau khi chết, chính Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu
sống lại để mở ra một thời gian của hồng ân cứu độ.
Còn nhớ trong bữa
Tiệc Ly, Đức Giêsu cũng nói nhiều đến Chúa Thánh Thần. Ngài là Đấng an ủi, bào
chữa, nâng đỡ và trợ giúp cho mỗi người. Rồi sau biến cố Phục Sinh, chính Đức
Giêsu đích thân hiện ra với các môn đệ và ban Chúa Thánh Thần cho các ngài. (Ga
20,22). Đó là ngày lễ Ngũ Tuần. Như vậy, Đức Giêsu đã hoàn tất giai đoạn dương
thế và lên trời. Từ đó về sau là giai đoạn hoạt động của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta thật may
mắn vì chính Đức Giêsu mặc khải về Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần! May mắn
vì Thiên Chúa Ba Ngôi, tuy vượt quá tầm hiểu biết của trí khôn ta, nhưng khi
con người đón nhận mặc khải của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, thì họ có thể
hiểu được mầu nhiệm này trong tình yêu và sự chấp nhận của lý trí. Nói cách
khác, chính khi tin yêu nơi Đức Giêsu cũng là tin yêu nơi Chúa Cha và Chúa
Thánh Thần. Đây là lời mời gọi của Đức Giêsu: “Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở
trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy.” Và, “Không ai đến được với Cha mà
không qua Thầy.” (x. Ga 14,1–12).
Tạm Kết
Chúng ta tuyên
xưng Chúa Ba Ngôi mỗi ngày, ít là khi làm dấu thánh giá. Trong ngày lễ Chúa Ba
Ngôi, chúng ta có nhiều thời gian hơn để chiêm ngắm các Ngài. Tuy còn nhiều tranh
cãi và khó hiểu về mầu nhiệm này, nhưng với lòng khiêm tốn, ước gì mỗi người để
Thiên Chúa Ba Ngôi ngự vào tâm hồn mình.
Có Chúa Cha,
chúng ta được tạo dựng và chăm sóc; có Chúa Con, chúng ta được cứu độ và sống lại;
có Chúa Thánh Thần, chúng ta được thánh hóa và sống bình an. Hoặc nói như thánh
Phaolô: “Ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình thương của Thiên Chúa Cha, và ơn
thông hiệp của Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.” (2Cr 13,13).
Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức
Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng
cùng. Amen.
[1] Ngày kia, để bắt đầu viết một thiên khảo luận về Chúa Ba Ngôi,
ngài đã đi dạo trên bờ biển để suy nghĩ và cầu nguyện. Bỗng chốc ngài nhìn thấy
một em bé đang dùng một chiếc vỏ sò múc nước và đổ vào một chiếc lỗ nhỏ trên
bãi cát. Ngài dừng chân và hỏi:
– Em làm gì thế?
Em bé bèn trả lời:
– Tôi muốn tát hết nước biển vào trong chiếc lỗ này.
Thánh nhân mỉm cười và nói:
– Làm sao tát hết được?
Nhưng em bé nghiêm nét mặt và nói:
– Tôi làm việc này còn dễ hơn cái ảo vọng của ngài là muốn trình
bày cặn kẽ về Chúa Ba Ngôi.
Nói đoạn, em bé biến mất. Thánh nhân hiểu rằng đó chính là một
thiên thần được Chúa sai đến để nhắc nhở: trí khôn con người thì quá nhỏ bé để
hiểu về mầu nhiệm này. (Trích lại từ: https://gpcantho.com/cac-bai-suy-niem-le-chua-ba-ngoi/)
[2] St 11,7 Thiên Chúa cũng xưng trong số nhiều. Chỗ khác: “Bấy giờ
tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán: "Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng
ta?"” (Is 6,8).
[3] Heinrich Denzinger, Các Tín Biểu, Định Tín và Tuyên Bố, dịch giả:
Nguyễn Văn Hòa OP, Tôn Giáo, 2019.
[4] “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người
ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy.” (Ga 14 23).