Cha BÔNAVENTURA TRẦN VĂN MÂN (1916–2004)
Vị Tông đồ nhiệt thành và vui tươi của các bệnh nhân phong
1. Cuộc đời
Cha Bônaventura
mà người địa phương thường gọi tắt là “Cố Bôna” hay thân mật hơn nữa là “Ông
Sáu Mân” sinh ngày11 tháng 09 năm 1916, tại giáo xứ Tịnh
Giang, thuộc ngoại ô thị xã Hà Tĩnh. Ngài khấn tạm ngày 03 tháng 08 năm 1940,
khấn trọng ngày 03 tháng 08 năm 1943, thụ phong linh mục ngày 15
tháng 08 năm 1945, qua đời ngày 14 tháng 05 năm 2004, tại Cù Lao
Giêng, hưởng thọ 88 tuổi.
Ngài
sinh trưởng trong một gia đình đạo đức. Thân phụ là một lương y. Ngài là một
trong những người đầu tiên gia nhập Chủng viện Phanxicô tại Thanh
Hóa. Chúa ban cho ngài một trí thông minh trung bình nhưng lại cho ngài biệt
tài vẽ các chân dung và các tranh ảnh tôn giáo.
Đầu
năm 1945, trước lúc đầu hàng Đồng Minh, người Nhật đã tập trung tất cả các thừa
sai cũng như các tu sĩ người Pháp lại một chỗ. Ban lãnh đạo Dòng thấy cộng đoàn
Phan sinh không có người đứng đầu nên đã xin Đức Khâm sứ Tòa Thánh tại Huế cho
phép truyền chức cho thầy Bôna Mân cách âm thầm, vội vã và trước thời hạn.
Kể từ nay cho đến năm 1954 ngoài việc làm bề trên tại chỗ, Cha Bôna tìm
cách ra Bắc, vào Nam, để liên lạc với anh em Phan sinh còn ở lại tại
miền Bắc.
Năm
1954 sau hiệp định đình chiến Genève, ngài tạo điều kiện đưa anh em Phan sinh
từ miền Bắc vào miền
Năm
1958, khi thấy có nhiều người phong cùi tại địa phương không được ai
chăm sóc, cha Bôna đã cùng với các anh em cất một căn nhà lá và bắt đầu chăm
sóc những bệnh nhân đầu tiên. Lúc đầu chỉ có các bệnh nhân vùng An Giang
nhưng chẳng bao lâu sau nhiều bệnh nhân đã từ các tỉnh và
thành phố tại Đồng bằng Sông Cửu Long đến để xin chữa trị. Cái hay nhất là
các bệnh nhân có thể đến trung tâm một cách kín đáo trên những con thuyền nhỏ
mà không bị những người kỳ thị phát hiện và xua đuổi. Từ năm 1958 đến
1975, nếu chỉ tính những bệnh nhân được chữa trị lâu dài, và hầu hết được
lành bệnh thì con số đã tới mức trên dưới 4.900 người với hồ
sơ bệnh lý hiện đang được cất giữ tại Trung tâm.
Sau
năm 1975, cha Bôna đã giao lại cơ sở bài phong cho Nhà Nước, chỉ để lại một vài
nhân viên tiếp tục làm việc. Phần ngài, ngài trở về đời sống nội tâm, thỉnh
thoảng đi thăm viếng các bệnh nhân tại gia và âm thầm giúp đỡ các gia đình
nghèo khó trong khu vực.
Năm
2004, sau hai tháng thọ bệnh, ngài đã được Chúa gọi về. Trong số đông đảo những
người tham dự đám tang có rất nhiều tăng, ni, Phật tử, đại diện các tôn giáo
bạn như Hòa Hảo, Cao Đài, bên cạnh những bệnh nhân đã được chữa lành cũng như
những người đã được ngài giúp đỡ cách này hay cách khác.
2. Vị Tông đồ của Chúa
“Cố Bôna”
đã từng làm bề trên tu viện nhiều khóa. Ngài đã góp phần vào việc đào tạo các
tu sĩ trẻ tại đây. Ngài cũng là vị tuyên úy trung thànhcủa Dòng Chúa Quan
Phòng, nơi ngài được các nữ tu mộ mến vì lòng đạo đức, vì sự khôn ngoan và lối
sống mực thước.
Ngài
sẵn sàng đến dâng lễ tại các giáo xứ Cồn Phước, Rạch Sâu khi các cha sở tại đây
đi vắng hoặc bị ngăn trở.
Đặc
biệt là trong thời kỳ khó khăn nhất và do yêu cầu của cha sở Cù Lao Giêng, ngài
đã đến giúp họ đạo Cồn phía bên kia Sông Tiền. Mỗi chiều thứ bảy ngài bơi
thuyền qua đó để dạy giáo lý rồi ở lại dâng lễ ngày Chúa
nhật đến chiều mới bơi thuyền trở về. Ngài quan tâm đến người nghèo
và đã có công giúp họ giữ lại bãi đất bồi cuối cồn, bị những người từ xa
đến lấn chiếm. Kể từ ngày ngài có mặt tại đó, con em trong họ đạo xem ra chăm
chỉ học hành hơn.
3. Vị
Tông đồ nhiệt thành và vui tươi của các bệnh nhân phong
Chăm
sóc cho người phong hủi đã là một truyền thống trong Dòng Phan sinh. Trong suốt
một thời gian dài, mỗi tháng ba lần vào dịp ngày 10, ngày 20 và ngày cuối
tháng, Chẩn y viện, sau này được gọi là Trung tâm Hansen Cửu
Long, mở cửa đón tiếp các bệnh nhân đến để được chữa trị
và lãnh thuốc miễn phí. Chính thái độ yêu thương, từ tốn,
vui tươi của con người hèn mọn lúc phục vụ đã lôi cuốn các bệnh
nhân. Tư cách linh mục và tư cách của người thầy thuốc hết lòng
phục vụ đã khiến cho nhiều bệnh nhân đặt hết tin tưởng vào ngài, nhờ đó việc
chữa trị lại càng đạt được kết quả cao. Vào những ngày có quá nhiều bệnh nhân, ngài
phải làm việc cả đêm khuya. Dầu vậy ngài vẫn vui vẻ, lâu lâu lại kể chuyện
khôi hài khiến bầu không khí trở nên nhẹ nhàng, dễ chịu. Ngài đã đi đúng
đường hướng của Dòng Phan sinh là qua công tác từ thiện đến với mọi người.
Trong số các bệnh nhân nhiều người đã xin tìm hiểu đạo và theo đạo. Một điểm đặc
biệt nơi cha Bôna, đó là niềm vui. Ngài luôn vui tươi và khôi hài, ngay cả
trong những giờ phút cuối đời rất đau đớn vì bệnh ung thư gan hành hạ.
4. Vị Tông đồ có tinh thần đại kết
An
Giang là vùng đất có nhiều tôn giáo. Thánh địa của anh em Phật giáo Hòa Hảo ở
cách Cù Lao Giêng chẳng bao xa. Ở phía đầu Cù Lao có
Chùa Ông Đạo Nằm thu hút khá nhiều tín đồ và khách hành hương. Ở
giữa Cù Lao có rất nhiều Thánh thất Cao đài. Đối với các bệnh nhân thuộc
các tôn giáo khác, cha Bôna không hề phân biệt đối xử. Đối với các vị lãnh
đạo tôn giáo, cha vẫn một lòng kính trọng và luôn tìm cách gặp gỡ
giao lưu. Chính thái độ khiêm tốn và chân thành của ngài đã làm bớt đi các mối
nghi kị giữa các tôn giáo. Phải thú nhận rằng trong khoảng thời gian trước năm
1954, thời gian chiến tranh, tương quan giữa các tôn giáo đã bị sứt mẻ vì các
lập trường chính trị khác nhau. Điều này vẫn còn mãi trong tâm tư của những
người thuộc các tôn giáo và cha Bôna đã góp phần làm nhẹ bớt các thành kiến ấy.
Về
phía Giáo hội, cha Bôna một lòng yêu mến và quý trọng Đức Giám mục và
các anh em linh mục như Cha thánh Phanxicô đã từng dạy anh em. Cha tỏ ra vui
mừng mỗi lần có các cha tới tĩnh tâm trong tu viện. Còn các anh em linh mục xem
ra cũng yêu thương các anh em Hèn mọn khiến cho tương quan triều và dòng trở
nên tốt đẹp, cũng như sự cộng tác trở nên dễ dàng và có kết quả hơn.