Đức Ông Gioan Maria TRẦN VĂN HIẾN MINH (1918–2003)
Nhà đào tạo mẫu mực và tông đồ nhiệt thành rao giảng Tin Mừng
19/6/1918: Sinh tại Sa Châu, Bùi
Chu
1932-1938: Tiểu Chủng viện Ninh Cường,
Bùi Chu
1938-1946: Du học Rôma
19/3/1944: Thụ phong linh mục tại
Rôma
1945-1946: Tiến sĩ triết học và tiến
sĩ thần học tại Rôma
1946-1950: Cử nhân xã hội học tại
Paris
Tuyên uý Liên
đoàn Công giáo Việt Nam tại Pháp, lập giáo xứ Việt Nam tại Paris
1950-1960: Giáo sư, giám đốc Đại Chủng
viện thánh Tôma, Bùi Chu
1957-1999: Linh mục Đại diện Bùi Chu
tại miền Nam
1960-1967: Giáo sư triết học
tại Đại Chủng viện thánh Giuse, Sài Gòn
1960-1975: Bề trên 2 trường trung học Nguyễn Bá Tòng, Sài Gòn và Gia Định
Giáo sư triết học các trường: Nguyễn Bá
Tòng, Trần Hưng Đạo, Chu Văn An, Trưng Vương và Trường Sơn
Giáo sư Tiểu Chủng viện thánh
Phanxicô, Bùi Chu; thánh Giuse, Sài Gòn
Giám đốc nhà in Nguyễn
Bá Tòng
1963-1975: Đại
diện Đức Tổng Giám mục Sài Gòn tại Hội đồng Liên tôn
Giáo sư Đại học Văn
Khoa, Sài Gòn
1967-1978: Tuyên
uý phong trào Pax Romana
Giáo sư triết học và
thần học tại Đại Chủng viện thánh Giuse Sài Gòn, Giáo Hoàng Học viện Piô X, Đà
Lạt
1971-1977: Thư
ký thường trực HĐGMVN, giám đốc Trung tâm Công giáo
1979-1999: Thành
viên các Uỷ ban nghiên cứu thần học và Uỷ ban Phụng tự của HĐGMVN
1978: Thành
lập Đại chủng viện Đức Ái
1979: Thành
lập Tu hội Gia Đình Mẹ Maria Thăm Viếng
1993: Toà
Thánh ban tặng tước Đức Ông nhân dịp kim khánh linh mục
1993-1998: Đại
diện Đức Giám quản Tổng giáo phận TP.HCM, đặc trách các dòng tu
1999: Nghỉ
hưu
21/10/2003: Từ trần tại trụ sở Bùi Chu, 1B Tôn Thất Tùng, TP.HCM.
1.
Nhà đào tạo và tông đồ rao giảng Tin Mừng qua việc giảng dạy
Năm 1950, sau 13 năm du học tại Rôma và Paris, cha Gioan Maria
Trần Văn Hiến Minh trở về quê hương và phục vụ tại giáo phận Mẹ Bùi Chu. Ngài
được Đức cha Phêrô Phạm Ngọc Chi bổ nhiệm làm giáo sư, phó giám đốc rồi giám
đốc Đại Chủng viện thánh Tôma, Bùi Chu (1950-1960), thường trực Liên Chủng viện
Bắc Việt. Dù trong cương vị nào, cha Gioan cũng hết mình thực thi sứ vụ và
trách nhiệm mà bề trên trao phó, với lòng nhiệt thành và quảng đại. Ngài hăng
say nghiên cứu giảng dạy và cố gắng truyền đạt những kiến thức cũng như kinh
nghiệm cho các môn sinh, nhất là các lãnh vực chuyên môn về triết học và thần
học; đồng thời giữ vai trò liên kết giữa ban giáo sư trong các chủng viện.
Ngài cũng là người đầu tiên khởi xướng việc giảng dạy các môn học
thánh ở Đại Chủng viện bằng Việt ngữ. Bước đầu gặp phải rất nhiều gai góc và khó
khăn từ nhiều phía, nhưng sau khi được Đức Khâm Sứ Toà Thánh tại Việt Nam, John
Dooley, Tổng Giám mục hiệu toà Macra chấp thuận và khích lệ, công việc được
thực hiện một cách dễ dàng hơn, mở đầu cho một nền thần học Việt Nam phát triển
theo chiều hướng mới mang tính hội nhập. Các tác phẩm, các bộ từ điển, từ vựng,
các giáo trình triết học, thần học lần lượt được xuất bản. Riêng bộ giáo khoa
triết học vẫn còn được dùng để giảng dạy trong các chủng viện cho đến ngày nay.
Hiểu như thế chúng ta không lạ gì khi thấy ngài luôn là thành viên của Uỷ ban
Phụng tự và Uỷ ban Thần học của HĐGMVN cho đến những năm cuối đời.
Cha Gioan coi chủng viện như một gia đình mà Chúa trao phó cho
ngài chăm lo đào tạo. Ngài luôn gắn bó và dành tình cảm yêu thương như một
người cha đối với các chủng sinh. Vì thế, chủng viện di dời đi đâu thì ngài đi
đó, từ Quần Phương lên Hà Nội rồi vào Sài Gòn trong biến cố năm 1954.
Năm 1960, khi Toà Thánh thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, các
chủng viện di cư của các giáo phận miền Bắc phải nhập vào các chủng viện địa
phương, cha Gioan được Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Bình đặt làm bề trên trường
trung học Nguyễn Bá Tòng (1960-1975), đồng thời với việc dạy học trong các
chủng viện và đại học. Trong môi trường giáo dục rộng mở hơn, cha Gioan càng tỏ
ra nhiệt tình với sứ vụ giảng dạy, nhất là truyền thụ nền giáo dục Kitô cho các
thế hệ học trò. Dù trong môi trường tu viện, chủng viện hay trường học, công
lập, tư thục và đại học, ngài đều tỏ ra là một nhà đào tạo tài năng và đức độ,
luôn nhiệt thành với sứ vụ truyền bá đức tin và văn hoá.
Ngoài việc giảng dạy nơi trường lớp, cha Gioan còn chú tâm rao
giảng bằng ngòi bút. Cha là giám đốc nhà in Nguyễn Bá Tòng. Cha viết bài cho
báo Đường Sống, báo Sacerdos, báo Xây Dựng. Cha cùng một số đồng nghiệp soạn và
xuất bản bộ Giáo lý Trung học cũng như những tập sách Tín lý toát yếu cho giới
sinh viên và cho các thành viên Pax Romana mà cha đảm nhận vai trò tuyên úy. Cha
cũng giúp soạn thảo hiến pháp cũng như các tài liệu đào tạo cho nhiều dòng tu và
tu hội. Quả thực cha Gioan say sưa với công việc đào tạo và dường như ngài chỉ
muốn chu toàn công việc này mà thôi.
Sau biến cố 30/4/1975, các trường học đều thuộc quyền quản lý của
Nhà nước. Vì thế các linh mục, tu sĩ phải rời khỏi bục giảng. Trong hoàn cảnh
mới này, cha được tình yêu Chúa Giêsu thôi thúc phải “rao giảng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm
4,2). Vì thế, cha đã thích nghi và bắt đầu ngay vào giai đoạn nghiên cứu, giảng
dạy và đào tạo trong âm thầm (1975-2003). Cha mở các lớp giáo lý tân tòng dành
cho người lớn tuổi từng lớp hai hay ba người và rửa tội cho họ. Cha tự nhủ: “Trước đây Chúa sai đi thả lưới bắt cá, lúc
này Chúa sai đi thả câu bắt từng con!” Giai đoạn này, với phép của các đấng
bề trên, cha Gioan âm thầm khai sinh ra Đại Chủng viện Đức Ái và Tu hội Gia
Đình Mẹ Maria Thăm Viếng.
Linh mục Albertô Trần Phúc Nhân, giáo sư Kinh Thánh, đã nói: “Tôi xin nói lên lòng khâm phục một giáo sư
học giả vào hàng tiên phong trong môn triết học và thần học bằng tiếng Việt.
Ngay từ 50 năm trước đây, Đức Ông đã soạn những cuốn tự điển và những bộ sách
giáo khoa tiếng Việt về những môn này, không những giúp ích cho các học viên
thời đó, mà còn mở đường cho những tác phẩm của các tác giả đi sau. Một điểm
khác cũng cần nêu ra, là vai trò của Đức Ông trong việc đào tạo linh mục trong các
Đại Chủng viện trước năm 1975. Sau năm 1975, vai trò này lại càng quan trọng
hơn, nhất là đối với giáo hội miền Bắc. Có thể nói nhiều giáo phận tại Việt Nam,
nhất là giáo phận Bùi Chu, ngày nay vẫn còn đang gặt hái những thành quả do
công lao vất vả của Đức Ông sau năm 1975”.
2.
Nhà đào tạo và tông đồ rao giảng Tin Mừng bằng chính cuộc sống
Trước hết, với tư cách là linh mục, cha Gioan luôn luôn ngay thẳng
trung thành với nguyên tắc đời tu, rất chừng mực trong nếp sống đời thường và
đầy lòng yêu mến. Ấn tượng ban đầu đối với các học trò là sự đúng giờ, luôn
tươi vui và khả ái. Cha Gioan luôn kính trọng và vâng phục các đấng bề trên.
Trong giao tiếp và các mối quan hệ, cha rất nhã nhặn, chín chắn và đĩnh đạc; trong
các phát biểu, ngài chừng mực và luôn lắng nghe; trong đời sống, ngài đơn sơ
khó nghèo, luôn kỷ luật và nề nếp.
Điểm nổi bật nữa là lòng khiêm tốn hiền hậu. Người ta thấy nơi cha
Gioan “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Cha Gioan có “chữ tâm” của nhà giáo dục Kitô, đó là sự
hiền lành và khiêm nhường theo Chúa Giêsu. Cha thật khiêm nhường đơn sơ và hồn
nhiên. Thầy Giuse Phạm Trọng Hoá học trò của cha Gioan ở Đại Chủng viện thánh
Tôma kể: “Có ai nhắc đến bằng Tiến sĩ,
thì cha nói: ‘Bằng Tiến sĩ là chứng chỉ sự dốt nát của mình’ rồi cha giải
thích: ‘Cũng như có lên núi cao, mới thấy trời rộng, thì khi đạt được bằng Tiến
sĩ, sẽ thấy biển học mênh mông’”. Sự khiêm tốn của cha Gioan còn rõ nét
trên bục giảng: với giọng nói bình dị, phân tích đề tài có gốc có ngọn, rõ
ràng, mạch lạc, đầy tính sư phạm. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều này
trong các trước tác của ngài. Linh mục Phêrô Đặng Xuân Thành, giáo sư Thần học
Luân lý, đã chia sẻ: “Tôi đã học nơi ngài
cách thi hành thiên chức sư phạm một cách hết sức căn bản, đó là không khoe chữ
hay lòe kiến thức”.
Cha Gioan ít nói về bản thân và cũng không muốn ai đề cao ngài. Trong
những dịp mừng bổn mạng, mừng ngân khánh, mừng thọ, cha không muốn được người ta
ca tụng. Dịp mừng kim khánh linh mục, năm 1994, các linh mục vui mừng nghe đài
Vatican loan tin Toà Thánh ban tặng tước hiệu Đức Ông cho cha, nhưng thấy cha
vẫn làm thinh, tưởng cha không biết. Khi đến chúc mừng, cha đưa cho xem văn thư
của Toà Thánh do Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ gửi về và nói: “Tước hiệu là chuyện đời. Vả lại nhiều linh
mục còn làm những việc lớn lao hơn mình nhiều”.
Hình ảnh cha Gioan lưu lại nơi người gặp gỡ cha là cặp mắt hiền từ
và nụ cười hồn nhiên. Cha hiền hậu không nặng lời với ai, nhưng hơn hết là sự
thánh thiện và lòng yêu mến Giáo Hội cùng với trái tim rộng mở, bao dung, nhân
ái, sự tận tuỵ và lòng nhiệt thành với sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Cha Gioan rao giảng Tin Mừng bằng tình thương yêu, nhất là tình
cảm trìu mến dành cho các ơn gọi linh mục và các ơn gọi sống đời thánh hiến.
Cha Gioan luôn tỏ ra quý trọng các linh mục và sẵn sàng chia sẻ gánh nặng mục
vụ với anh em linh mục. Trong cương vị đại diện Bùi Chu tại miền
Kể về những kỷ niệm với cha Gioan, các môn sinh của cha kể rất
nhiều. Nhưng kỷ niệm gây ấn tượng nhất với họ là tấm lòng rộng mở, bao dung và
đầy tình thương yêu, được thể hiện qua thái độ lắng nghe và trao đổi. Tuỳ hoàn
cảnh của mỗi người, khi thì cha an ủi, khích lệ; khi thì sửa chữa những sai
lầm, khiếm khuyết; khi thì cha giúp đỡ tinh thần và cả vật chất nữa; cả những người
vì một lý do nào đó phải nhận sự kỷ luật cũng rất cảm phục tấm lòng yêu thương
rộng mở của cha.
3.
Nhà đào tạo và tông đồ rao giảng Tin Mừng bằng những sáng kiến cấp thời
Cuối niên học 1977-1978, Nhà nước buộc Đại Chủng viện Sài Gòn phải
đăng ký lại ban giáo sư và các chủng sinh phải hội đủ các tiêu chuẩn của Nhà
nước. Số đại chủng sinh chừng 230, nhưng chỉ khoảng 50 thầy đủ điều kiện, còn
gần 200 thầy bị loại. Họ bơ vơ tan tác. Trước hoàn cảnh bi đát đó, là nhà đào
tạo, cha Gioan cảm thấy vô cùng xót xa và “chạnh lòng thương”. Cha xin phép Đức
Tổng Giám mục Sài Gòn cho phép thành lập Đại Chủng viện ngoại trú và đã được
Đức Tổng phê chuẩn với sự khích lệ và nhiệt tình giúp đỡ. Vì thế, Đại Chủng
viện Đức Ái được hình thành và phát triển.
Với thời gian, Đại Chủng viện Đức Ái đón tiếp thêm nhiều ơn gọi
mới trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, nhất là các thầy từ giáo phận Mẹ Bùi Chu,
được Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất gửi vào. Năm học 1992-1993, tổng số chủng sinh
của Đại Chủng viện Đức Ái lên tới 130 thầy thuộc nhiều miền của đất nước, nhất
là từ Bùi Chu. Về mặt tu đức, Đại Chủng viện Đức Ái được tổ chức như một Tu hội
đời. Cha Gioan đã mời các linh mục, giáo sư và các nhà đào tạo cộng tác giảng
dạy và huấn luyện các ứng sinh cho chức linh mục. Các nhà đào tạo và giáo sư
Đại Chủng viện Đức Ái lúc bấy giờ hơn kém 30 vị, gồm có nhiều tiến sĩ, cao học,
cử nhân chuyên ngành đã tốt nghiệp ở nước ngoài và các giáo sư đã từng dạy
trong các Đại Chủng viện và Đại học trước 1975. Nhờ sự thánh thiện, đức độ và
uyên bác, nhất là tấm lòng của người mục tử nhìn thấy tương lai của Giáo Hội
tuỳ thuộc rất nhiều nơi chủng viện, nên các giáo sư không ngần ngại nhận lời
giúp Đại Chủng viện Đức Ái. Đây cũng là dịp tốt để giáo phận Bùi Chu nói lời
tri ân đến tất cả các cộng sự viên của Đức Ông Gioan trong việc đào tạo, giúp
đỡ và vun trồng các ơn gọi, mà hôm nay họ đang hiện diện khắp nơi để tiếp nối
công việc rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.
Có lần một nhóm linh mục Đại Chủng viện thánh Tôma về mừng quan
thầy cha Gioan, lúc đó cha đã ngã bệnh, nhưng cha rất vui mừng và nhắc tên từng
người. Cha tâm sự về Đại Chủng viện Đức Ái: “Vẫn
biết rằng Đại Chủng viện nội trú là phương thế huấn luyện tối ưu của Giáo Hội.
Nhưng vì hoàn cảnh không thể mở được, nên chỉ biết làm hết sức, phần còn lại
Chúa sẽ lo. Bây giờ chỉ xin dâng những đau khổ bệnh tật để xin Chúa thánh hiến
họ”.
Cùng với các thế hệ học trò ở khắp nơi ảnh hưởng một “truyền thống
Gioan”, cách riêng với hơn 100 linh mục xuất thân từ Đại Chủng viện Đức Ái, là những
hoa trái mà Chúa gửi đến cho Giáo Hội qua cha Gioan, một nhà đào tạo mẫu mực,
đầy lòng yêu mến, suốt đời hy sinh phục vụ và hăng say rao giảng Tin Mừng trong
các môi trường đào tạo, như khẩu hiệu cha chọn vào đầu đời linh mục: “Chúa
Giêsu Kitô đã thí mạng vì chúng ta, như vậy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng thí
mạng sống vì anh em” (1 Ga 3,16).
Ngài đã an bình lên đường về Nhà Cha ngày 21/10/2003, hưởng thọ 84
tuổi, với 59 năm linh mục và gần ngần ấy năm phục vụ Giáo Hội qua thiên chức sư
phạm đào tạo. Sự ra đi của Đức Ông Gioan để lại bao niềm thương nhớ đến các thế
hệ học trò ở mọi môi trường giáo dục: công, tư, trung học, đại học, chủng viện,
dòng tu...
Nhân Năm Linh Mục, mẫu gương của Đức Ông Gioan góp phần làm sáng
lên hình ảnh người linh mục của Chúa Kitô và cũng là niềm tự hào của toàn thể
Giáo Hội. Những lời của Đức Hồng y Claudio Hummes, Bộ trưởng Bộ Giáo Sĩ, trong
lá thư nhân Năm Linh Mục, thật thích hợp để nói về Đức Ông Gioan Maria Trần Văn
Hiến Minh: “Giáo Hội tự hào về các linh
mục của mình biết bao, Giáo Hội yêu mến họ, trọng kính họ, thán phục họ và nhìn
nhận với lòng biết ơn công việc mục vụ và chứng tá đời sống của họ dường nào. Đúng
vậy, các linh mục thật quan trọng không chỉ vì những gì họ làm, nhưng còn vì những gì họ là
nữa”.