Diễn từ Mê-li-tô của thánh Phaolô (Cv 20, 17-38)
CANH TÂN ĐỜI SỐNG LINH MỤC THEO GƯƠNG THÁNH PHAO-LÔ
Tác giả: Linh mục Mỹ Sơn, Gp. Long Xuyên
Soạn từ sách: After Some Years: Reflections on the Ministry of the Priest của Đức Hồng y Carlo Maria Martini
WGPLX (01.03.2021) -Trong các bài sau đây, chúng ta sẽ cùng nhau suy tư và chiêm niệm về đề tài “Canh tân đời sống linh mục theo gương thánh Phaolô”. Tuy là những bài suy niệm dành riêng cho linh mục, nhưng cũng hữu ích để canh tân đời sống thiêng liêng cho bất cứ ai muốn đọc và suy niệm.
Chúng ta cùng suy gẫm sách Công Vụ Tông Đồ, chương 20, câu 17-38. Đây là “di chúc mục vụ” của thánh Phao-lô. Trong bản văn trên, thánh Tông Đồ nói với các kỳ mục Ê-phê-sô về kinh nghiệm ngài đã trải qua trong 3 năm sống với họ: kinh nghiệm về con người, về đời sống linh mục và về mục vụ. Chúng ta tin rằng diễn từ Mi-lê-tô này (viết năm 58) là một tổng hợp 20 năm tác vụ của thánh Phao-lô. Trong chương 20 này, ngài chỉ xem xét lại những gì đã hoàn thành trong thời gian ba năm ở Ê-phê-sô. Tuy nhiên, ba năm đó tượng trưng cho toàn bộ hoạt động tông đồ của ngài.
Ba năm mục vụ tông đồ của thánh Phao-lô ở Ê-phê-sô cũng có thể tượng trưng cho thời gian làm việc tông đồ của mỗi người chúng ta. Thời gian đó có thể là 1-5 năm hoặc lâu hơn nữa. Đây là dịp thuận tiện để chúng ta nhìn lại chặng đường đã qua và chuẩn bị cho một giai đoạn mới.
Nhờ tìm hiểu và suy gẫm về “Di chúc mục vụ” của thánh Phaolô do ĐHY Martini triển khai trong cuốn: “Linh mục một vài năm sau… Suy gẫm về tác vụ linh mục”, chúng ta có thể “Canh tân đời sống linh mục theo gương thánh Phaolô”.
Linh mục Mỹ Sơn, Long Xuyên
BÀI MỘT: KHÍCH LỆ VÀ AN ỦI
"Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình…
Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến”. (Cv 20, 26.32)
Trong bài này, chúng ta sẽ suy niệm về toàn bộ diễn từ Mi-lê-tô. Chúng ta lưu ý đặc biệt tới hai từ: khích lệ và an ủi. Để hiểu hai từ này, chúng ta sẽ nói đến bối cảnh lịch sử và bối cảnh văn chương của diễn từ. Để kết thúc, chúng ta sẽ nói ngắn gọn về tình huống giáo hội hiện tại.
I) Bối cảnh lịch sử
Giống các tông đồ khác, thánh Phaolô có thói quen kết luận các sứ vụ tông đồ của mình bằng những lời khích lệ và an ủi. Khi chào từ biệt một cộng đoàn mà ngài đã rao giảng ở đó, ngài sẽ nói một bài về sự hiện diện của ngài giữa các tín hữu. Vì thế, ở Mi-lê-tô, ngài mới nói những lời khích lệ mà chúng ta đang suy niệm.
Thánh Phaolô có thói quen kéo dài những lời an ủi, có lễ quá mức cần thiết cho người nghe. Vì thế có lần, trước khi rời Troa vào ngày hôm sau, ngài đã kéo dài bài nói chuyện ở đó đến nửa đêm, đến nỗi một thiếu niên ngã từ cửa sổ trên lầu xuống đất vì ngủ gục. Tuy nhiên, thánh Phao-lô đã cứu sống nó (Cv 20,7-12). Thánh Luca nhấn mạnh đến sự kéo dài của bài nói chuyện. Từ đó, có thể suy ra là các diễn từ an ủi thường rất dài.
Kết luận: sau khi rao giảng Tin Mừng lần đầu, thánh Phao-lô từ biệt cộng đoàn, hoặc trở lại thăm cộng đoàn, thì ngài dùng những lời an ủi, khích lệ để nâng đỡ và củng cố họ.
II) Bối cảnh văn chương
Bây giờ chúng ta tìm hiểu văn cảnh của diễn từ. Đây là một trong những bài nói chuyện khích lệ và an ủi dài nhất của thánh Phaolô. Đây cũng là những lời giã từ hay chào biệt lần cuối cùng; vì thế bản văn được gọi là “di chúc mục vụ” của thánh Phaolô. Trong Cựu ước, có những trang tương tự nói về di chúc của những người hấp hối. Truyền lại di chúc là phong tục rất phổ biến của cả nhân loại. Khi một người sắp bỏ một nơi rất thân yêu -nhất là khi ở ngưỡng cửa cái chết – người đó muốn ký thác kỷ niệm và ý muốn của mình cho những người ở lại. Ngày nay, xã hội chúng ta dè dặt hơn trong vấn đề này; tuy nhiên, trong nhiều gia đình, vẫn còn thói quen tụ họp con cái lại để ký thác cho chúng những lời khuyên nhủ, những lời cuối cùng phát xuất từ con tim của người sắp rời bỏ trần thế.
Ở đây, chỉ xin trích lời của Samuel: “Ông Sa-mu-en nói với toàn thể Ít-ra-en: "Tôi đã dẫn đầu anh em, từ lúc tôi còn trẻ cho đến hôm nay. Này tôi đây. Hãy cáo tội tôi trước mặt ĐỨC CHÚA và trước mặt vị Người đã xức dầu tấn phong: tôi đã lấy bò của ai, lấy lừa của ai? Tôi đã bóc lột ai, áp bức ai? Tôi đã nhận quà đút lót từ tay ai để nhắm mắt làm ngơ cho nó? Tôi sẽ trả lại cho anh em." Họ trả lời: "Ông đã không bóc lột chúng tôi, không áp bức chúng tôi, không lấy cái gì từ tay ai." Ông nói với họ: "Có ĐỨC CHÚA làm chứng trước mặt anh em, và có vị Người đã xức dầu tấn phong cũng làm chứng hôm nay, rằng anh em đã không tìm thấy gì nơi tay tôi." Họ trả lời: "Vâng, có Người làm chứng." (1 Sm 12, 1-5). Trong lời từ biệt các kỳ lão Ê-phê-sô, thánh Phaolô cũng nói ngài không tham lam tiền của, vàng bạc, áo quần của bất cứ ai (Cv 20, 33-34). Tô-bi-a cha cũng nói với Tô-bi-a con những lời cuối cùng như thế, và, nhất là, diễn văn từ biệt của Chúa Giê-su trong Tin Mừng Gioan (Ga 13-17).
Bởi vậy, “di chúc mục vụ” của thánh Phaolô không phải là một bản văn biệt lập, nhưng gắn liền với văn chương của nhiều diễn văn từ biệt khác trong Kinh Thánh. Về phần mình, nhờ khơi gợi lại quá khứ bản thân, những khẳng định về sự chân thực trong đời sống, thánh Phaolô củng cố sợi dây liên kết ngài với các tín hữu và làm cho cộng đồng vững mạnh. Rõ ràng diễn từ của thánh Phaolô ở Mi-lê-tô vẫn luôn có giá trị với tất cả các linh mục và đáng được chúng ta đón nhận và học hỏi.
III) Bối cảnh giáo hội
Câu hỏi đặt ra là những lời khích lệ, an ủi của thánh Tông Đồ đối với các cộng đoàn ki-tô hữu đầu tiên có ý nghĩa gì? Những lời của thánh Phao-lô hiển nhiên cho thấy các tín hữu - cá nhân hay tập thể - đang trong tình thế bấp bênh, nhiều nguy cơ. Sách Công vụ tông đồ cho biết các thành phần trong Giáo Hội sơ khai dễ chia rẽ và đối nghịch nhau đến thế nào. Sự hiệp thông giữa các tín hữu thì mong manh, và nếu có thì không phải là không trải qua nhiều đau khổ, cay đắng và căng thẳng. Chắc chắn, các ki-tô hữu đã trải nghiệm một đời sống đức tin đặc biệt; đó là những giờ phút tuyệt vời. Tuy nhiên, nó không kéo dài bao lâu, và phải không ngừng củng cố sự hiệp thông. Chúng ta hãy nghĩ đến tình thế bấp bênh của chính linh mục chúng ta và các cộng đoàn ki-tô hữu ngày nay đang chìm ngập trong một thế giới ngoại giáo, phù phiếm, tiêu dùng và hưởng thụ, dửng dưng, khô khan hoặc cởi mở với mọi thứ tôn giáo, nhưng lại không sẵn sàng lắng nghe và đón nhận một sứ điệp nào.
IV) Những suy tư
Còn chúng ta thì sao? Ngày nay, người ta nhấn mạnh đến tình trạng bấp bênh của các thế hệ hiện tại. Thanh thiếu niên, người lớn, và cả các linh mục - là những người rất nhiệt tâm và quảng đại, nhưng không bền lâu. Chúng ta mau mệt mỏi nên rất cần trợ giúp.
- Suy tư thứ nhất: theo những gì thánh Phaolô nói, thì các ki-tô hữu đầu tiên thời ngài ở vào một tình thế bấp bênh, đầy nguy cơ. Nếu họ không yếu ớt, thánh Phaolô đã không cần thăm viếng họ lần nữa để an ủi và củng cố họ. Hoàn cảnh hiện tại của chúng ta cũng không hơn gì. Hoàn cảnh đó thế nào? Đâu là những bấp bênh, những nguy cơ?
- Suy tư thứ hai: Đừng ngạc nhiên vì sự bấp bênh đủ loại và đừng tìm “vật tế thần”. Đừng lấy làm lạ khi những người trẻ sau một vài tháng đầy thiện chí, bỗng xì-tốp ngay khi gặp những khó khăn đầu tiên và đặt vấn đề dấn thân như vậy có còn cần hay không. Chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi thấy những đôi vợ chồng trẻ cãi lộn vì những lý do không đâu và đòi ly dị. Điều quan trọng ở đây là tìm cách xử trí vấn đề bấp bênh và mong manh của con người.
- Suy tư thứ ba: vì sự bấp bênh, mong manh, nên khơi gợi và kêu gọi sự dấn thân lần đầu thì không đủ. Cần không ngừng khích lệ và củng cố thanh thiếu niên, những đôi vợ chồng trẻ, những chiến sĩ nhiệt thành, các linh mục, nhất là các linh mục trong những năm đầu đời, vừa mới bắt đầu nhưng cũng mau chóng mệt mỏi vì gặp khó khăn và những thụ động của môi trường. Quan trọng là khích lệ những người đã lập các nhóm tông đồ, chia sẻ mà sau đó, lại đánh mất sự tin tưởng. Cũng vậy, đối với những bạn trẻ có sáng kiến đi thăm những người đau yếu và tật nguyền, nhưng không lâu sau, không còn thấy động lực thuở đầu. Cộng đoàn và con người làm thành cộng đoàn phải không ngừng được khích lệ. Và chính chúng ta cũng cần được khích lệ và củng cố bởi những người khác vì sự nhiệt thành của những ngày đầu chịu chức và niềm vui của một vài ngày tĩnh tâm có lẽ không đủ. Chúng ta hãy học với thánh Phaolô để “chín chắn” từng ngày, và ý thức sâu xa sự bấp bênh, mong manh của con người. Nhờ những khích lệ, cổ vũ, củng cố và an ủi, chúng ta sẽ tiến lên phía trước, nhưng không bao giờ có tham vọng là đã thúc đẩy mau lẹ tiến trình tâm sinh lý một cách giả tạo. Hãy tôn trọng thời gian và sự chậm trễ, hãy nhớ rằng các bậc cha ông và các tông đồ của chúng ta trong đức tin đã rảo qua cũng cùng một con đường và không bao giờ kinh sợ vì những tiến bộ rất chậm chạp của con người.
V) Kết
Cá nhân mỗi người chúng ta hãy suy niệm bản văn của thánh Phaolô để phân định điều chúng ta phải củng cố, để xem xét những bấp bênh riêng mà chúng ta gặp trong đời linh mục của chúng ta, nhất là các linh mục trong những năm đầu đời. Lưu ý đến những yếu đuối mà trước đây chúng ta không có, nhờ cơ cấu vững chắc của chủng viện nâng đỡ.
VI) Câu hỏi gợi ý
1) Người công giáo chúng ta cần sự an ủi, khích lệ nào? Còn tôi, tôi cần được củng cố những điểm nào? Củng cố bởi Chúa, và bởi người khác?
2) Đâu là những lời an ủi tôi đang cần?
BÀI HAI: CỦNG CỐ KHI YẾU ĐUỐI
Chúng ta tiếp tục nói về đặc tính khích lệ trong hoạt động mục vụ và để nhận ra sự phong phú của nó, đầu đề bài suy gẫm sẽ là: củng cố khi bấp bênh; an ủi khi sầu khổ; chữa lành khi yếu đuối. Ở đây, chúng ta sẽ nói tới những bấp bênh, mỏng dòn của xã hội đương thời; kế đó, sẽ trình bày những phương dược Chúa ban để củng cố chính mình và anh em, ngay trong những yếu đuối.
I) Những bấp bênh của thế giới ngày nay
Chúng ta thử nhớ lại những bấp bênh và những bất nhất nơi con người trong thế giới ngày nay. Đây là dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về các nguyên nhân gây ra những bất nhất nằm tận gốc rễ những thiếu sót lớn hay nhỏ mà thường chúng ta không giải thích được lý do tại sao.
1) Nguyên nhân thứ nhất: chúng ta đang sống trong một thời đại mà xã hội có những biến chuyển sâu xa một cách mau lẹ. Tư tưởng, phong tục, cách suy nghĩ, não trạng, và ý thức hệ thay đổi mau lẹ. Tất cả những thay đổi đó gây ra sự rối loạn nào đó vì người ta không còn biết gắn bó với những thói quen nào, hoặc với những điểm qui chiếu nào rõ ràng nữa.
2) Nguyên nhân thứ hai là hệ quả của nguyên nhân thứ nhất: đó là chủ nghĩa đa nguyên được phổ quát hóa. Thực vậy, trong xã hội hiện tại, mỗi người đều nghĩ và biểu lộ như mình muốn. Họ nắm bắt nhiều thông tin, nhiều kiến thức, giúp họ có những suy nghĩ, những nhận định, những cách sống của riêng họ và đòi được mọi người tôn trọng.
3) Nguyên nhân thứ ba: xã hội tiêu thụ. Người ta tìm kiếm của cải vật chất không biết mệt. Khởi đầu chỉ nhằm để thoả mãn nhu cầu nào đó, nhưng từ từ đi đến mức bị lệ thuộc hoàn toàn. Một xã hội đơn giản hơn, khắc khổ hơn, và tiết kiệm hơn sẽ tốt cho sự quân bình đời sống hơn.
4) Nguyên nhân thứ tư: Các phương tiện truyền thông tăng cường tác động của sự biến chuyển xã hội, chủ trương đa nguyên và xu hướng tiêu thụ vì chúng quảng bá và len lỏi vào tận những hang cùng ngõ hẻm hoặc những miền xa xôi hẻo lánh.
5) Nguyên nhân thứ năm: sự phát triển của chủ quan tính, một thứ “ung thư”. Mọi người đều thích dùng những từ như: cá nhân, ý thức, nội tâm, xác tín cá nhân, tính đích thực, tính tự phát, nhạy cảm cá nhân (hay đúng hơn nhiều khi chỉ là tự ái cá nhân), tôn trọng những tình cảm riêng tư. Những giá trị đó đã được vun trồng từ thời cổ đại, thời triết gia Hy lạp Socrate. Nhưng chưa từng trở nên phổ biến trong lãnh vực công cộng như ngày nay. Ai nấy đều gắn chặt với chủ quan tính của riêng mình. Trong các cuộc tranh luận, mỗi người đều dựa trên những gì cá nhân mình cho là tốt hơn, và đi đến mức độ là những ý kiến “thuộc lãnh vực riêng tư” lại được phối hợp khéo léo để gây tiếng vang rộng lớn trong dư luận một đất nước, một vùng, và trên cả thế giới nữa.
II) Phân định sáng suốt
Chúng ta cần Chúa ban cho sự phân định sáng suốt.
1) Giá trị nội tâm đích thực
Trong Ki-tô giáo, các giá trị của “chủ thể” bắt nguồn từ Kinh Thánh: Tân Ước dành nhiều trang để nhấn mạnh đến đặc tính trung tâm của con người, của cá nhân, của ý thức và “con tim”. Khởi đi từ thánh Augustinô, chúng ta đã triển khai một suy tư tích cực và rõ rệt về nội tâm. Tự do nội tâm; tôn trọng mọi người và lương tâm mỗi người; mối quan tâm đến sự gắn bó chặt chẽ giữa tư tưởng, tình cảm và hành động; tính đích thực; sáng kiến cá nhân: đó là những giá trị cực kỳ quan trọng mà chúng ta phải lưu ý trong hoạt động mục vụ. Đàng khác, chính chúng ta cũng thấy mình khó hòa nhập vào những lược đồ có sẵn, hoặc vâng phục những cơ cấu và truyền thống cách tối mặt vì hình như chúng không phát xuất từ tận thâm sâu ý thức của chúng ta một cách tự nhiên. Không thể không tạ ơn Chúa về giá trị nền tảng của nội tâm con người.
2) Giá trị nội tâm giả tạo.
Kế đến, sẽ dễ dàng hơn để lột mặt nạ những hàng giả của tính nội tâm và sự phát triển bệnh hoạn của ý thức chủ quan biểu lộ ra khi người ta xâm phạm tiêu chuẩn đạo đức hay khi người ta muốn phát triển rực rỡ để lấy cớ phớt lờ luật lệ. Dù vậy, không dễ phân biệt những giá trị thực sự khỏi những thái độ giả hiệu xâm nhập những ai muốn tăng trưởng trong đời sống thiêng liêng. Đây là những cám dỗ có tính chất giống như những cám dỗ của các ký lục và biệt phái trong Tin Mừng. Đó cũng là những cám dỗ đối với chúng ta khi chúng ta muốn rèn luyện mình và dấn thân phục vụ những giá trị cao cả.
Chúng ta có thể nói đến sự phát triển bệnh hoạn của chủ quan tính khi ý thức đi tới mức độ trở nên “duy ngã” (solipsiste), nghĩa là khi nó coi mình như tiêu chuẩn duy nhất cho hành động. Chúng ta gặp hình thức quen thuộc nhất của sự lệch lạc này khi cá nhân coi những suy nghĩ và tình cảm của mình như giá trị duy nhất, một tiêu chuẩn chắc như đinh đóng cột, một thẩm quyền xét xử không thể tranh cãi. Chủ quan tính lệch lạc này làm người ta chỉ đi tìm sự gắn bó hợp lý với những tình cảm và cảm xúc riêng tư. Đối với những cam kết đã hứa, những lời đã nói, người ta dễ dàng từ chối: “Tôi không còn muốn điều đó nữa!” Đức tin, Giáo Hội, thánh lễ không còn ý nghĩa gì đối với tôi! Tôi đã cắt đứt tình cảm với người đó vì anh ta, cô ta không còn hợp với tôi nữa.
Điều đáng lưu ý là những phản ứng trên lại được coi là những tiêu chuẩn chính đáng. Ngày nay, tính nhạy cảm cá nhân trở thành một tiêu chuẩn được coi là chính đáng và có tính quyết định, trước mọi qui chiếu về các giá trị và hoàn cảnh xung quanh. Ví dụ, người ta nói: “Tôi đã sống 10 năm hạnh phúc với vợ tôi (hay với chồng tôi); nhưng từ nay trở đi, cuộc sống đó không có ý nghĩa gì trong cuộc sống tôi nữa; mối tương quan của chúng tôi không còn tự nhiên, mới mẻ nữa”. Đây là những thái độ đơn giản hóa, những hợp pháp hóa nông cạn diễn dịch sự phát triển bệnh hoạn của lương tâm cá nhân được đặt lên hàng tối thượng. Và một khi đó là lương tâm của một nhóm, một tập thể thì sự trệch đường còn nguy hiểm và tai hại lớn hơn nhiều.
Khi phân tích những khủng hoảng khác nhau hiện nay trong gia đình, nơi hàng ngũ linh mục, tu sĩ nam nữ, người ta thấy tất cả đều qui về “tiêu chuẩn tối thượng” của những tình cảm cá nhân. Tình trạng đó xảy ra vì chúng ta lầm lẫn giữa sự phong phú tình cảm và cảm xúc với sự ưu việt của ý thức khách quan đặt nền tảng trên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần nơi mỗi người.
III) Tác vụ ủi an
Chúng ta là “những đứa con của thế kỷ”, sợ rằng một ngày nào đó, thình lình chúng ta bị chinh phục bởi thứ chủ quan tính bá quyền. Nó cản trở chúng ta hướng tới hoặc thực hiện những dấn thân. Bởi vậy, điều quan trọng là biết những phương dược Chúa Thánh Thần dành sẵn để an ủi, củng cố, chữa lành chúng ta và để chúng ta an ủi, củng cố, chữa lành người khác.
1) Chúa Thánh Thần đích thực là Đấng Ủi An loài người. Trong thông điệp Dominum et vivificantem, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết những dòng tuyệt vời về hoạt động củng cố và khích lệ của Chúa Thánh Thần. Quả thực, con người không thể tự mình bảo tồn sự toàn vẹn nội tâm, mà luôn cần ánh sáng và sức mạnh của ân sủng gìn giữ. Thiên Chúa nhân từ ban Thánh Thần để thanh luyện chúng ta khỏi sự nông cạn, hời hợt, hay thay đổi, phóng túng, sai lầm về nội tâm; ngài khôi phục căn tính đích thực và trọn vẹn của chúng ta.
2) Sự an ủi của Chúa Thánh Thần biểu lộ nền tảng của đời sống siêu nhiên là con đường thập giá. Đó là cách Thiên Chúa dùng để an ủi. Đó cũng là cách Chúa Giêsu dùng để an ủi hai môn đệ Emmaus: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24, 25-26). Nhờ trích dẫn Kinh thánh, Chúa Giêsu làm sáng tỏ con đường thập giá của Ngài và lời Ngài giải thích làm lòng nguội lạnh của hai ông bừng cháy lên: các ông nhận được sự an ủi và khích lệ; các ông tìm thấy ý nghĩa mới cho cuộc sống và cho những hi sinh khi biết rằng con đường để chinh phục tự do của chính mình gắn liền với đích đến trong vinh quang và phục sinh. Thánh Phao-lô diễn tả nền tảng siêu nhiên của thập giá như sau: ông củng cố các môn đệ và khích lệ họ vững vàng trong đức tin bởi vì “chúng ta phải trải qua nhiều thử thách để vào Nước Thiên Chúa”. (Cv 14, 22).
3) Sau cùng, để tránh sự kích phát của chủ quan tính, chúng ta cần biết tuân theo những lời dạy và những cử chỉ của Giáo Hội mà không cần luôn phải hỏi chúng có ý nghĩa nào và có tầm quan trọng nào đối với chúng ta. Cảm xúc cá nhân của chúng ta đòi được biết “lý do tại sao” của mỗi cử chỉ trong phụng vụ hoặc mỗi chi tiết của toàn thể thực tại cơ cấu Giáo Hội; nhưng thường thường nó không được thỏa mãn. Đôi khi, ngay cả kinh nghiệm về cầu nguyện cũng cho thấy chủ quan tính thái quá. Luôn cầu xin và không ngớt nhắc đi nhắc lại: “Lạy Chúa, xin dạy con cầu nguyện” không che dấu ước muốn có một cảm nhận giác quan và một kiểm chứng tức khắc cho cuộc đối thoại của chúng ta với Chúa đó sao? Đòi hỏi điều đó có nghĩa là chúng ta tìm kiếm những điều kiện cầu nguyện thỏa mãn cảm giác tính của mình và tự rời xa những hình thức cầu nguyện khác, trong đó, chúng ta khó có thể tìm thấy một kinh nghiệm cá nhân nào. Ở đây, chúng ta chạm trán với căn bệnh thiêng liêng mà ai cũng mắc phải không nhiều thì ít. Chắc chắn là phải dành cả cuộc đời để rao qua con đường thanh luyện mà thánh Gioan Thánh Giá và thánh Tê-rê-xa Avila đã nói tới. Đó là hành trình đi từ cảm giác tính tức khắc đến một khách quan tính tốt và nghiêm túc hơn. Nhờ các cử chỉ và lời đọc phụng vụ, Giáo Hội đảm bảo cho khách quan tính đó và giúp chúng ta đạt tới sự cầu nguyện đúng nghĩa và một đức tin vô điều kiện.
IV) Câu hỏi gợi ý
1) Xem xét lại đâu là những đòi hỏi theo chủ quan tính của tôi từ trước tới nay?
2) Trong đời sống nội tâm, tôi có luôn tìm kiếm những cảm nghiệm cá nhân thái quá không?
3) Tôi có coi những lý do, những chủ trương của cá nhân mình là những tiêu chuẩn đúng và tối thượng trên cả những quyết định của bề trên không?
BÀI BA: THỬ THÁCH VÀ NƯỚC MẮT CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ
Lưu ý: Trước hết, cần nhắc lại 4 giai đoạn của việc đọc lời Chúa (lectio divina): đọc, suy niệm, chiêm niệm và an ủi (lectio, meditatio, contemplatio, consolatio). Việc thứ nhất là hiểu sâu bản văn nhờ việc đọc và tìm hiểu kỹ càng gọi là lectio. Lectio là làm nổi lên những yếu tố quan trọng, và so sánh với những bối cảnh xa xưa hơn hoặc gần cận hơn. Lectio dẫn đến suy niệm (meditatio). Suy niệm là cố gắng suy tư về những giá trị và sứ điệp hiện nay của đoạn văn, để nắm bắt ý nghĩa hiện tại cho chúng ta, cho Giáo Hội và cho xã hội. Suy niệm không dừng lại ở sự hiểu biết cá nhân chủ quan, mà là giai đoạn chuẩn bị cho chiêm niệm (contemplatio) là việc cầu nguyện đúng nghĩa nhất. Lúc này là lúc chúng ta đặt mình trước sự hiện diện của Đấng nói với chúng ta qua Lời Thánh Kinh, nghĩa là đối diện với Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. Trong chiêm niệm, chúng ta sẵn sàng mở lòng đón nhận ân sủng và qui phục ý Chúa. Sau cùng là sự an ủi. Nó là hoa trái của sự khích lệ, củng cố. Dù vậy, chiêm niệm là lúc chính yếu mà Chúa Thánh Thần hiến dâng cho chúng ta như của ăn nội tâm, như dầu xoa dịu và tăng sức. Phải ý thức điều này nếu chúng ta không muốn xin ơn an ủi cách vô ích lúc chúng ta cảm thấy cần, hoặc dưới hình thức trực tiếp là niềm vui và bình an phát xuất từ tình cảm yêu mến Thiên Chúa; hoặc dưới cách thức ít nhạy cảm hơn, nhưng sâu xa và đích thực hơn, mà không có nguy có lẫn lộn ân ban với những tình cảm hoàn toàn con người.
Như đã nói trong phần dẫn nhập, tĩnh tâm cho phép chúng ta tiến trên con đường lectio divina cá nhân – một con đường trên đó, chúng ta hãy hết sức cố gắng dấn thân vào. Chắc chắn, công việc này không giới hạn cứng ngắc vào thời điểm suy niệm, nhưng nó phải kéo dài suốt ngày và hợp nhất mọi hoạt động của chúng ta. Thực vậy, đối với người thực hành lectio divina, sự an ủi đến từ Thiên Chúa - rất quan trọng để lấp đầy khoảng trống cô tịch của mục tử - có thể đến vào những giờ phút khác: ví dụ, trong lễ nghi phụng vụ, lúc thư giãn ngoài trời hoặc khi lần chuỗi. Nên nhớ lectio divina là phương tiện thông thường để trải nghiệm sự hiệp thông mầu nhiệm với Chúa Thánh Thần, một ân huệ củng cố mà Thiên Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần đã được ban cho chúng ta.
***
"Anh em biết, từ ngày đầu tiên đặt chân đến A-xi-a, tôi đã luôn luôn cư xử với anh em thế nào. Khi phục vụ Chúa, tôi đã hết lòng khiêm tốn, đã nhiều lần phải rơi lệ, đã gặp bao thử thách do những âm mưu của người Do-thái. Anh em biết tôi đã không bỏ qua một điều gì có ích cho anh em; trái lại tôi đã giảng cho anh em và dạy anh em ở nơi công cộng cũng như tại chốn tư gia. Tôi đã khuyến cáo cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp phải trở về với Thiên Chúa, và tin vào Đức Giê-su, Chúa chúng ta”.
Chúng ta hãy cùng tìm hiểu và suy tư về những hoàn cảnh khó khăn của thánh Phao-lô, qua đó, cho thấy nhiệt tình phụng sự Chúa của ngài ra sao.
I) Thử thách thứ nhất là nước mắt
Trước hết, hãy suy tư về thử thách thứ nhất là nước mắt. Đây là đề tài chúng ta không quen thuộc mấy, nhưng đối với các thánh thì đó lại là đề tài rất quen thuộc. Trong diễn từ Mi-lê-tô, thánh Phao-lô nói về nước mắt 2 lần ở câu 19 & 31: “Vì vậy anh em phải canh thức, và nhớ rằng, suốt ba năm, ngày đêm tôi đã không ngừng khuyên bảo mỗi người trong anh em, lắm khi phải rơi lệ”. Dường như Phao-lô nhấn mạnh trên điểm này. Nước mắt cũng được nêu lên nhiều lần trong các thư của ngài. Ví dụ trong thư thứ hai Cô-rin-tô (2, 4), thánh Tông đồ ám chỉ đến lá thư trước được viết trong phiền muộn, và con tim thổn thức, giữa bao nhiêu nước mắt. Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê (3, 18), ngài nói tới nước mắt của sứ vụ ngài đảm nhận: Vì, như tôi nói với anh em nhiều lần và hôm nay tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Ki-tô.
Do đó, không phải là không có lý do để chúng ta tự hỏi tại sao thánh Phaolô dành cho nước mắt một tầm quan trọng đến thế và nó có ý nghĩa gì. Hiển nhiên, nước mắt hoàn toàn trái ngược với niềm vui của người mục tử. Niềm vui là thái độ nền tảng của linh mục, giám mục, như được nói trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thessalonica: “Chúng tôi biết nói gì để tạ ơn Thiên Chúa về anh em, vì tất cả niềm vui mà nhờ anh em, tôi có được trước nhan Thiên Chúa chúng ta?” (3, 9). Một mục tử đích thực luôn cảm nhận một niềm vui lớn lao khi được là người đứng đầu một cộng đoàn sốt sắng và đầy đức tin. Người mục tử đó cũng tràn ngập hạnh phúc khi tìm được một con chiên lạc và gặp được đứa con phung phá đang quay gót về nhà. Nước mắt diễn tả nỗi khổ đau đối với một cộng đoàn đang chao đảo, đòi hỏi nhiều nỗ lực củng cố; nước mắt tượng trưng cho sự đau đớn gây ra bởi những người còn bị xa cách, lo âu đối với con chiên lạc mất, lo sợ đối với những người nhiệt tình lúc bắt đầu nhưng chẳng mấy chốc lại chán nản bỏ cuộc. Sự đau khổ của người mục tử có nhiều lý do; và mặc dù nước mắt của chúng ta không phải lúc nào cũng nhìn thấy được, thì sâu thẳm trong con tim của người mục tử luôn bị vây hãm bởi những câu hỏi, những mệt nhọc và khắc khoải. Trách nhiệm đối với người khác càng lớn thì kinh nghiệm về niềm vui và nỗi khổ càng gia tăng. Ai không phải là mục tử, nhưng chỉ là người làm thuê sẽ không thể có tình yêu đích thực đối với đàn chiên, người đó không cảm thấy niềm vui khi đàn chiên khoẻ mạnh và không chảy nước mắt khi sói xuất hiện. Kẻ làm thuê có những đặc điểm của “một viên chức hành chánh” không hoà mình vào những bổn phận được trao.
Tại sao thánh Phaolô nói nhiều đến nước mắt và tại sao câu chuyện của Luca lại nhấn mạnh nhiều đến phương diện này, một phương diện ít được ưa chuộng? Chúng ta có thể nghĩ rằng trong diễn từ Mi-lê-tô, nước mắt được đề cập đến nhiều bởi vì nó diễn tả nhiệt huyết phục vụ, sự âu yếm, trìu mến, sự dấn thân vô điều kiện hơn mọi cách diễn tả khác. Chỉ bằng một từ “nước mắt” thôi, vị Tông Đồ đã nêu ra toàn bộ những tương quan trìu mến được nối kết trong một vài năm; đó là thế giới của những trao đổi tình bạn, của tình cảm sâu xa, đích thực tiến triển giữa thánh Phaolô và các tín hữu. Bây giờ, chúng ta sẽ đưa ra hai kết luận có liên quan đến chúng ta và giúp chúng ta đi từ đọc hiểu sang suy gẫm.
1) Những đau khổ của người mục tử không phải là điều xấu và chúng ta đừng lấy làm lạ. Khi chịu trách nhiệm về người khác, nhất là khi nói về canh thức và phát triển sự tự do, chúng ta luôn gặp nguy cơ bị từ chối. Trong trường hợp bị từ chối, người mục tử đau khổ không phải vì thất bại, nhưng vì người ta đã không đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Nước mắt không diễn tả nỗi cay đắng của người mục tử trước thất bại; trái lại, những giọt nước mắt đó biểu lộ lòng trìu mến dành cho những người đã được trao phó cho ngài và họ đã không hiểu lời mời gọi của Chúa; những giọt nước mắt đó là chứng nhân của sự đau khổ nơi người mục tử vì tình yêu Thiên Chúa đã không được đón nhận.
Trong những lần đi thăm mục vụ, tôi thường nghe lời phàn nàn của những người có trách nhiệm: thanh thiếu niên không đến nhà thờ nữa, những trẻ em biến mất sau thêm sức, gia đình vẫn đứng bên lề … Tôi có cảm tưởng là những lời than phiền trên không liên quan gì đến nước mắt. Chúng thường diễn tả sự cay đắng hoặc hằn học và không đem lại lợi ích gì. Về những than trách của chúng ta, chúng thường là thói quen tự buộc tội, hoặc là đổ tội cho người khác: giáo dân không quan tâm gì hết, họ không biết gì hết, họ luôn do dự trên con đường theo Chúa, v.v.
Đúng ra, trước hết, chúng ta phải khóc than vì người ta đã không đáp lại lời mời gọi của Chúa, vì tình yêu đã không được yêu lại và vì Thiên Chúa, tình yêu vô biên, đã không được nhận biết. Những giọt nước mắt đó mới có tính Tin Mừng, tích cực, và thanh tẩy; chúng xoa dịu những cay đắng cá nhân và những xúc phạm chúng ta gặp phải; chúng giúp làm chủ lại tình thế. Nơi thánh Phaolô, chúng ta không bao giờ gặp những lời đả kích vô ích, nhưng là những phiền trách đầy trìu mến, tin tưởng và khích lệ.
2) Chúng ta không biết những giọt nước mắt của thánh Phao-lô có liên quan đến tội lỗi của ngài không. Nhưng dù sao, các thánh đã khóc tội lỗi của các ngài. Những giọt nước mắt này có ý nghĩa tích cực, bởi vì chúng diễn tả sự thống hối về những nhỏ mọn, những uể oải và những yếu đuối của đời sống sứ vụ và mục tử của chúng ta. Lòng thống hối chân thành sẽ biến thành lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin tha thứ cho con; xin thương xót con; xin giúp con và cứu con”. Mỗi người chúng ta có thể kéo dài lời cầu nguyện này trong suy niệm và thờ lạy.
II) Thử thách thứ hai là hoàn cảnh bên ngoài
Thánh Phao-lô đề cập đến những thử thách thứ hai là hoàn cảnh bên ngoài. Trong quãng thời gian ba năm ở Ê-phê-sô, người ta đã muốn làm hại ngài, tấn công ngài, bôi nhọ và chỉ trích ngài đủ cách. Những sự kiện đó báo cho chúng ta rằng đừng lấy làm lạ, khi thi hành sứ vụ, chúng ta gặp những người chống đối, vu khống, thư nặc danh, v.v. . Những thử thách này không nhất thiết là tiêu cực: trước thánh Phao-lô, chính Chúa Giêsu đã không chịu như vậy sao? Dù sao đi nữa, kinh nghiệm của thánh Phao-lô nhắc chúng ta nhớ rằng không được lầm lẫn những thử thách trên với những mưu đồ ám hại: “Khi phục vụ Chúa, tôi đã hết lòng khiêm tốn, đã nhiều lần phải rơi lệ, đã gặp bao thử thách do những âm mưu của người Do-thái”. Những mưu đồ đó thì xấu xa và đáng kinh tởm. Thánh Phao-lô chống lại chúng vì ngài có thể phân biệt giữa những hành vi cá nhân (gây ra nơi ngài sự phẫn nộ, tức giận, kinh tởm và đánh trả) và sự hiện diện của Chúa khi Người thử thách thánh nhân và quan tâm che chở thánh nhân bằng tình yêu của Người, trên con đường thập giá. Nhờ ơn Chúa, thánh Phao-lô đã có thể phân định ra rằng bàn tay Thiên Chúa dùng những mưu mô loài người: điều đó giúp ngài đối diện với nó, sống với nó một cách thanh thản và tự do, để không bị nó huỷ diệt.
III) Câu hỏi gợi ý
1) “Nước mắt” của tôi biểu lộ sự cay đắng, hằn học, đổ tội cho giáo dân, cho người khác hay biểu lộ sự đau khổ vì người ta đã không đáp lại tình yêu Thiên Chúa?
2) Tôi đã trải qua những thử thách nào trong đời mục tử, đời kitô hữu? Và tôi có coi đó là những phương cách để tôi hiệp thông với đau khổ thập giá của Đức Ki-tô không?
3) Tôi có biết dùng những “nước mắt” và thử thách để lớn lên trong đời sống thiêng liêng và mục vụ không?
BÀI BỐN: THUỘC TRỌN VỀ ĐỨC KITÔ
Bây giờ chúng ta quay trở lại đoạn diễn tả ngắn về những hoạt động của thánh Phao-lô trong phần thứ nhất của diễn từ Mi-lê-tô (c. 18-21). Chắc chắn rằng, suốt ba năm ở Ê-phê-sô, thánh Phao-lô đã làm nhiều việc; tuy nhiên, ngài chỉ nhắc lại những gì đối với ngài hay đối với người khác là quan trọng: Tôi đã phục vụ Chúa, tôi đã rao giảng, dạy dỗ và khích lệ. Những hoạt động này đi đôi với những thái độ nội tâm (tôi đã phục vụ hết sức khiêm tốn và đã rao giảng tất cả và không bỏ qua điều gì). Những thái độ nội tâm chúng ta sẽ suy tư sau. Còn bây giờ, chúng ta xem xét những hoạt động tiêu biểu cho sứ vụ của thánh Phao-lô ở Asia.
I) “Tôi đã phục vụ Thiên Chúa”
1) Giải thích bản văn
Câu này nhấn mạnh đến đặc tính chính yếu của những việc thánh Phao-lô thực hiện. Điều lạ là sự phục vụ này không được diễn tả bằng từ ngữ “diaconie”, mà bằng từ “douleuo” (phục vụ như người nô lệ).
a. Ở đây, chúng ta có thể kể ra những từ ngữ thánh Phao-lô đã sử dụng để nói lên đặc tính sứ mạng của ngài. Ví dụ, ngài dùng từ diakonia, và từ diakonoi. Từ “diaconia” (phục vụ) nói lên bản chất của việc phục vụ, và từ diakonoi (thừa tác viên, tông đồ) nói lên nguồn gốc của việc phục vụ. Các thư quan trọng (1 và 2 Cô-rin-tô, Ê-phê-sô, Colosê, 1 và 2 Ti-mô-thê-ô) đều bắt đầu bằng: Phao-lô người được Đức Ki-tô Giê-su sai đi(tông đồ).
Tuy nhiên, có những lúc thánh Phao-lô coi mình là doulos (nô lệ). Chúng ta gặp từ này ở đầu thư gởi tín hữu Rôma. Thư này đầy tình cảm trìu mến và hi vọng đối với cộng đoàn Rôma: Phao-lô, tôi tớ (nô lệ) của Đức Ki-tô Giê-su. Như vậy, có những lúc, nhất là những giờ phút quan trọng, thánh nhân không dùng từ chỉ bản chất (diakonia), hoặc từ chỉ nhiệm vụ (diakonoi: apôtre), nhưng dùng từ sống động hơn, đó là từ nô lệ (doulos), giúp nắm rõ đời sống nội tâm của ngài hơn.
b. Chắc chắn, từ “nô lệ” gợi lên ý thức hoàn toàn lệ thuộc một người khác.Cha J. Dupont cắt nghĩa rất đúng khi nói rằng “nô lệ” ở đây không có ý nói đến tình cảm lệ thuộc hèn hạ hay nhục nhã, nhưng là một tương quan trọn vẹn: “Tôi hoàn toàn thuộc về Chúa”; tôi không chỉ là một trong những người được sai đi hay một trong những thừa tác viên của Ngài, bởi vì tôi thuộc trọn về Ngài trong toàn bộ con người tôi”. Đó là điều thánh Phao-lô cho chúng ta thấy khi ngài gợi lên những nguồn gốc thâm sâu của sứ vụ ngài.
2) Suy niệm và chiêm niệm.
Bây giờ chúng ta bước sang suy niệm và kế đó là cầu nguyện chiêm niệm. Ở đây, thánh Phao-lô gợi ý cho chúng ta chiêm niệm về đoạn Tin Mừng của thánh Gio-an về người Mục Tử Nhân Lành (Ga 10). Chúa Giêsu, người Mục Tử Nhân Lành, trình bày cho chúng ta 3 điểm căn bản trong mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
a. Trước hết, Thiên Chúa luôn yêu thương chúng tadù chúng ta là người thế nào đi nữa. Điều đó có nghĩa là dù chúng ta tội lỗi, yếu đuối, mỏng dòn, bất lực. Thiên Chúa luôn ở bên chúng ta, Ngài là mục tử của tôi, Ngài săn sóc tôi và cuộc sống của tôi, Ngài không ngừng phục hồi nơi tôi ý nghĩa cuộc đời, Ngài đem đến ý nghĩa cho các hoạt động tản mác, rời rạc và đôi khi xấu xa của tôi.
b. Kế đó, Thiên Chúa yêu thương chúng ta trong Con của Ngài. Chúa Giêsu, Người Mục Tử Nhân Lành, liều mạng sống và hiến dâng mạng sống cho đàn chiên. Tình yêu Thiên Chúa không được diễn dịch bằng một sự chiều lòng nào đó; mà là muốn hiến dâng trọn vẹn.
c. Sau cùng, ơn Chúa thì không bao giờ thay đổi: quá khứ, hiện tại, tương lai luôn vẫn vậy.
Từ đó, chúng ta hiểu ý nghĩa câu trả lời của thánh Phao-lô: Con là nô lệ (tôi tớ) của Ngài, lạy Chúa. Ở Damas, ngài đã nhận ra rằng Thiên Chúa là một Đấng đảo ngược tất cả. Thiên Chúa luôn đứng về phía ngài cho đến chết, dù ngài tội lỗi và phạm thượng. Thiên Chúa là Đấng làm phát sinh nơi lòng người ki-tô hữu khát mong thuộc trọn về Chúa Giêsu. Do đó, chúng ta phải loại bỏ mọi thứ “chủ quan tính” (subjectivisme) có nguy cơ phát triển một cách sai trái và cuối cùng là khép kín chỉ nghĩ đến mình và những tình cảm của mình. Điều quan trọng là nhận biết rằng, trong Đức Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa ở bên tôi và Ngài kêu gọi tôi thuộc trọn về Ngài. Ngài cho tôi biết rằng tôi đã được cứu độ và đang đi trên con đường ngay chính.
“Tôi đã phục vụ Chúa”: đó là câu giàu ý nghĩa. Thánh Phao-lô không ngừng phục vụ Chúa cách công khai vì ngài ý thức sống mối tương quan với Thiên Chúa theo cách thức này, không phải vì những công lao của ngài, nhưng nhờ ân sủng: Đức Ki-tô Giê-su đã chiếm đoạt tôi (Pl 3, 12). Ngài khám phá ra rằng Thiên Chúa tìm ngài, yêu thương ngài, và không ngừng lắng nghe ngài. Đó là lý do tại sao thánh Phao-lô hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa.
Một khi đã hiểu việc phục vụ Chúa là nền tảng kinh nghiệm mục vụ của thánh Phao-lô, chúng ta sẽ dễ hiểu những phương diện khác trong tác vụ của ngài: rao giảng, dạy dỗ công khai và riêng tư, khích lệ. Tất cả những hoạt động này đều nhắm tới sự hoán cải trở về với Thiên Chúa và tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Các hoạt động này đều bắt nguồn trong kinh nghiệm của vị Tông Đồ bởi vì chúng phát xuất từ ý thức thuộc trọn về Đấng đã yêu ngài cho đến chết.
II) Gợi ý cho việc cầu nguyện cá nhân
Giờ đây, chúng ta hãy cầu nguyện:
1) Lạy Chúa, đâu là điều cốt yếu trong tác vụ linh mục con đã lãnh nhận? Những đặc điểm của sứ vụ thánh Phao-lô có phải là nền tảng cho sứ vụ của con? Việc bảo ban, dạy dỗ mang lại niềm vui, nỗi buồn, sự mệt nhọc nào? Những an ủi và khích lệ có là đối tượng con khẩn cầu và đem lại niềm vui cho con không? Linh mục là người sống những thực tại này. Linh mục lớn lên trong đức ái và hệ quả là lớn lên trong đời sống thiêng liêng, nhờ thi hành tác vụ đã lãnh nhận. Mọi hoạt động của linh mục đều dựa trên chọn lựa Đức Ki-tô là Chúa duy nhất. Linh mục đã quyết định dâng hiến cho Chúa trọn vẹn và gắn bó với Chúa trọn đời, lúc sống cũng như khi chết. Con có phục vụ Chúa với niềm vui được thuộc trọn về Ngài không? Không phải những mệt nhọc, những nặng nề, những thất vọng đánh dấu từng ngày đời con là hậu quả của sự yếu kém trong việc dấn thân theo Chúa trọn vẹn đó sao?
2) Ngày nay, khi nói: loan báo, giải thích, làm chứng là muốn nói gì? Chắc chắn sống một đời sống ki-tô hữu không phải là dễ dàng. Như thánh Phao-lô, các hoạt động mục vụ của chúng ta sẽ là suối nguồn niềm vui khi các hoạt động đó thông truyền kinh nghiệm nền tảng của chúng ta cho người khác. Kinh nghiệm nền tảng đó là gì, nếu không phải là sự hiến dâng và thuộc trọn về Đức Ki-tô! Trái lại, con đường chúng ta đi sẽ bấp bênh khi chúng ta không ở trên “tần số đúng” đó. Lúc ấy, chúng ta sẽ bị tràn ngập các vấn đề chúng ta nghĩ là những vấn đề mục vụ, nhưng thực ra, nghĩ như vậy là giả tạo bởi vì vấn đề chính là chúng ta đã không sống như là người thuộc trọn về Đức Ki-tô. Chính đời sống thiêng liêng, mục vụ của chúng ta phải phát sinh từ sự hoán cải, từ sự gắn bó toàn thể con người ta với tình yêu Thiên Chúa nơi Đức Giê-su Ki-tô. Chúa thường dùng sự chán nản, sự thất vọng để giúp chúng ta hiểu rằng mình đang đi sai đường. Trong trường hợp đó, chúng ta luôn có thể trở về với Ngài trong thống hối và cầu nguyện.
3) Trong hoạt động mục vụ khích lệ và an ủi, chúng ta có biết sửa đổi người khác với tình yêu thương, như Thiên Chúa đã làm đối với chúng ta và như thánh Phao-lô đã thực hiện điều đó cách tốt đẹp không?
Trong niềm vui và khiêm tốn, chúng ta cầu xin Đức Nữ Trinh ơn biết an ủi và khích lệ. Nhờ gương sáng của thánh Phao-lô khơi gợi, chúng ta có thể tái lập nơi mình những gì xa rời tấm gương đó, để như ngài, chúng ta phó thác trọn vẹn cho tình yêu vô biên của Thiên Chúa nơi Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
BÀI NĂM: Ý THỨC TÔNG ĐỒ CỦA CHÚNG TA
Chúng ta bắt đầu suy gẫm từ câu 22 về “ý thức tông đồ” của thánh Phao-lô. Chúng ta sẽ theo sát bản văn và tìm hiểu từng câu nói của ngài để hiểu rõ ơn gọi và sự dấn thân không mệt mỏi, không so đo tính toán của ngài. Có những đoạn, những câu cho thấy thánh Phaolô để tình cảm và những xúc động trong lòng lôi cuốn một cách rất tự nhiên.
I) “Và giờ đây tôi lên Giê-ru-sa-lem”
Chúng ta cùng nghe: “Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi” (Cv 20, 22-23).
- Và giờ đây… những từ này diễn tả ý thức của thánh Tông Đồ về những gì ngài đang sống ở đây và lúc này (hic et nunc). Nó cũng gợi lên một điều chắc chắc sắp xảy ra.
- Bị Thần Khí trói buộc… Lời này rất mạnh mẽ cho thấy thánh Tông Đồ bị tình cảm xâm chiếm. Ngài lên Giê-ru-sa-lem mà không biết điều gì sẽ xảy ra, vì thế, ngài lo lắng và sợ hãi. Tuy vậy, ngài vẫn ý thức chắc chắn mình có bổn phận phải hoàn thành ở đó. Đây là đặc tính tự do làm nên những ơn gọi lớn của những người dấn thân trọn đời: sau khi đã phân định, chúng ta chọn lựa và hành động dù gặp những trở ngại và những xáo trộn. Ý thức này không đơn giản chỉ là ý thức của người thi hành mệnh lệnh bề trên, mà còn một điều gì đó sâu xa hơn. Kinh nghiệm cho thấy những chọn lựa nền tảng của cuộc đời không đến từ tính thất thường hoặc do cảm xúc nhất thời thúc đẩy, mà là một khơi gợi nội tâm biết chắc mình được Chúa mời gọi. Những chọn lựa này sau đó có thể đưa đến ơn gọi tu trì hoặc ơn gọi sống giữa đời. Tuy nhiên, khởi đầu của những ơn gọi này bao giờ cũng do ý thức về lời mời gọi. Ví dụ gần nhất về những diễn tả của thánh Phao-lô là chuyện thánh Maximilianô Kolbe đã chết thay cho một người tù trong trại tập trung Quốc xã Đức. Chắc chắn, hành động đó làm cha Kolbe sợ hãi, nhưng ngài cảm thấy được mời gọi hiến dâng như vậy và ý thức rằng mình phải thay thế cho người tù kia.
- Bị Thần Khí trói buộc: Câu này còn có ý nói thánh Tông Đồ thuộc trọn về Chúa, lệ thuộc hoàn toàn vào Đấng đã chết trên thập giá vì ngài; ngài là nô lệ của Chúa Giêsu. Ngài có thể viện ra nhiều lý do để không lên Giê-ru-sa-lem, nhưng ngài cảm thấy được Thần Khí lôi kéo mạnh mẽ. Chúng ta thấy một cảm nhận sâu xa về ơn gọi là một ơn huệ Chúa ban, bởi vì, nếu để tự ý, chúng ta không thể trung thành với lời hứa của mình. Phải được tình yêu Chúa chinh phục mới có thể “được trói buộc”. Thông thường, chúng ta không thể tự trói, nếu làm vậy, nút trói không bao lâu sẽ lỏng ra. Chính Đấng khác cột chúng ta lại. Ở đây, chính Chúa Giêsu đã trói buộc thánh Phaolô. Từ kinh nghiệm chọn lựa tự do của thánh Tông Đồ, chúng ta suy nghĩ về tự do của mình. Trong ơn gọi, không ai ép buộc chúng ta chọn lựa. Trái lại, chính chúng ta cảm thấy mình bị trói buộc vào Chúa bởi Thần Khí. Khi chọn lựa bước theo Chúa dù gặp gian khổ, thử thách, chúng ta như gặp lại chính mình, bởi vì con người chúng ta được tạo nên để hiến dâng chính mình cách tự do. Ơn huệ này không hời hợt, nó cho thấy chúng ta là ai. Nếu từ bỏ nó, chúng ta đánh mất chính mình.
- Tôi lên Giê-ru-sa-lem: Thánh Phaolô hiến dâng trọn vẹn cuộc sống cho Chúa qua cuộc đi lên Giê-ru-sa-lem. Chuyến đi đầy nguy cơ, nhưng ngài chấp nhận vì Đức Ki-tô. Đó còn là chuyến đi của đức bác ái, vì ngài dấn thân bởi tình yêu, để thi hành việc “phục vụ”. Ngài đã quyên tiền để giúp các anh em ở Giê-ru-sa-lem. Chuyến đi này cho phép ngài tôn vinh Giáo Hội của Phê-rô và Gia-cô-bê là Giáo Hội truyền thống và đầu tiên. Đây cũng là dịp ngài biểu lộ sự hiệp thông với các tông đồ. Qua đó, ngài chứng tỏ rằng mình không phải là người rao giảng đơn độc, không phải là người lập một tôn giáo mới. Sau cùng, chuyến di này cũng cho thấy ngài đang theo bước Đức Kitô vì chính Chúa cũng đã cương quyết lên Giê-ru-sa-lem khi đến ngày Người được rước lên trời (Luca 9, 51).
II) “Mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó”
Ở đây, thánh Phaolô ý thức về sự bấp bênh và những đe dọa: Liệu tôi có được đón tiếp không? Anh em ở Giê-ru-sa-lem có chấp nhận số tiền quyên góp vì lòng bác ái của các Giáo Hội khác không? Người Do Thái sẽ đón nhận ngài thế nào? Sứ mạng của ngài có mang lại lợi ích gì không?
Nên lưu ý là thánh Tông Đồ bắt đầu chuyến đi đầy nguy cơ ở độ tuổi mà ngài có thể nghỉ ngơi bình an trong sự kính trọng của mọi người (*Lúc đó, có lẽ ngài 56 hoặc 57 tuổi, độ tuổi vào thời đó là khá cao vì tuổi thọ thấp). Hành động đầy can đảm của ngài làm gương cho chúng ta. Hành động đó cũng đặt ra cho chúng ta những thách thức thực sự bởi vì chúng ta đang sống trong một nền văn hóa với một não trạng tìm kiếm an toàn và chỗ dựa. Khi nhận một trách vụ ví dụ ở một giáo xứ, chúng ta thường hỏi: Tôi ở vị trí nào? Những việc tôi phải làm trong giáo xứ là gì? Hơn nữa, ngày nay, chúng ta thường sợ những nhiệm vụ mới và không xác định rõ ràng. Người thời nay sợ phải vạch ra những con đường mới.
Chắc chắn, đòi hỏi biết rõ nhiệm vụ là điều chính đáng. Nhưng nó cũng biểu lộ tính mỏng dòn của xã hội ngày nay, một xã hội thoái hóa thành xã hội “chức năng” (fonctionnalisme). Các chức năng ngày càng nhiều (trong kinh tế, quốc gia, quân đội, gia đình, v.v.); những chức năng đó sản sinh ra những nhiệm vụ được chia nhỏ thành vô số những phận vụ. Những phận vụ này có những luật riêng của nó và chúng ít liên hệ với nhau. Bởi đó, ai cũng dành ưu tiên để học “luật chơi” nhằm bảo vệ quyền lợi và đặc quyền của mình tốt hơn. Không ai nhận ra rằng xã hội ngày càng phức tạp hơn, và những nguyên tắc lớn về đạo đức biến mất nhường chỗ cho những chức năng vận hành của xã hội. Ai cũng ưu tư làm sao để biết vai trò của mình một cách tỉ mỉ và dự tính cho tương lai. Dĩ nhiên, não trạng đó cũng ảnh hưởng trên linh mục chúng ta. Nó làm chúng ta quên rằng ơn gọi dấn thân trọn vẹn không thể được định nghĩa theo những trách nhiệm rất rõ ràng vì như vậy sẽ có nguy cơ bóp nghẹt con người và ý nghĩa của việc phục vụ Chúa. Chúng ta đừng dập tắt Chúa Thánh Thần nhờ những “lý lẽ” hời hợt bề ngoài. Biết nhiệm vụ chính xác của mình là gì và biết người khác chờ đợi gì nơi chúng ta tới từng chi tiết, có phải là cấp bách thực sự không? (Ví dụ: khi nhiệm vụ hoặc công tác đã được phân chia rõ ràng, chi tiết, chúng ta thường chỉ lo làm xong nhiệm vụ đã được chia. Việc ai nấy làm. Nhà ai nấy lo. Khi làm xong, chúng ta yên trí mình đã hoàn thành nhiệm vụ, mình có quyền nghỉ ngơi, hoặc lo những chuyện riêng của mình. Những việc chung không được phân công, những việc làm mà tình liên đới, hoặc tinh thần dấn thân, phục vụ đòi hỏi, nhiều khi chúng ta không làm vì không được phân công). Suy nghĩ và sống như vậy nên chúng ta dễ đưa ra những lý do na ná như những lý do mà các vị khách được mời đã đưa ra để từ chối trong dụ ngôn Tiệc Cưới Nước Trời. Không phải Chúa Giêsu đã phê phán thái độ từ chối đó sao? Các tương quan của chúng ta với nhiệm vụ phải nhường chỗ cho tính sáng tạo hay sự can đảm hơn là cho những giới hạn chặt chẽ của nhiệm vụ đã được phân công. Sống trong văn hoá xã hội tìm kiếm sự an ổn như xã hội hiện tại, chúng ta càng ngưỡng mộ thái độ của thánh Phaolô, khi quyết định ra đi trong chuyến đi mà không biết điều gì sẽ xảy ra, dù đã cao niên. Ngài ra đi chỉ vì biết rằng đã là tôi tớ Chúa thì ngài luôn sẵn sàng vâng theo những thúc đẩy của Thánh Thần.
Thánh Phaolô không một chút quan tâm đến vai trò của ngài là gì, tương lai của ngài thế nào, người khác chờ đợi gì nơi ngài, những tiêu chuẩn thành công hay thất bại là gì. Thái độ vâng theo những khơi gợi của Thánh Thần nơi thánh Phaolô nhắc nhớ đến thái độ của Abraham, cha của những người tin. Đức tin đòi hỏi chúng ta phải bước ra khỏi những lược đồ định sẵn, những vai trò được xác định rõ ràng, và cả những sự an toàn vốn có nữa; nó đòi chúng ta phải lên đường: “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11, 8). Điều làm nên con người môn đệ đích thực không phải là phận vụ mà là sức mạnh của vâng phục. Abraham đã ra đi mà không biết mình đi đâu; cuộc phiêu lưu đạo đức là cuộc phiêu lưu của đức tin. Ông biết Đấng ra dấu chỉ cho ông, ông biết mình được kêu gọi đi đến một quê hương. Tuy nhiên, ông không biết cuộc hành trình sẽ như thế nào. Không ý thức sâu xa về lời mời gọi, chúng ta không bao giờ vượt qua những nghi ngờ xuất phát từ những nhận thức thực dụng do chính bản tính con người chúng ta.
ĐHY Martini cũng lưu ý tới tinh thần “nghiệp đoàn”. Nghiệp đoàn được lập ra để tranh đấu cho quyền lợi của hội viên, mà đây thường là quyền lợi vật chất, sự thoải mái tiện nghi. Nhiều khi chúng ta cố gắng bảo vệ những quyền lợi “nghiệp đoàn” của linh mục, và đòi hỏi “những khoảng không gian và thời gian” phải có cho linh mục nghỉ ngơi, giải trí, xả stress, v.v. Đây là nhu cầu chính đáng miễn là tránh được hai nguy cơ: 1/ Những đòi hỏi theo tinh thần “nghiệp đoàn”, nghĩa là theo tinh thần thế gian thường có chiều hướng trở nên độc đoán và ích kỷ, chỉ biết đến quyền lợi của mình; 2/ Đánh mất tinh thần dấn thân phục vụ mọi người, nhất là những nơi xa xôi, hẻo lánh, những người nghèo khổ, bệnh tật, hoặc những người khô khan, nguội lạnh, mất đức tin, dù phải đương đầu với xiềng xích và gian truân như thánh Phao-lô nói tới dưới đây.
III) “Tôi chỉ biết …”
Thánh Phaolô chỉ biết một chút về tương lai của ngài: “Tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi” (c.23). Ngài không biết những gì sẽ xảy ra, nhưng chắc chắn xiềng xích và gian truân đang chờ đợi ngài. Xiềng xích chỉ những đau khổ cụ thể: tù đày, tra tấn, cái chết. Gian truân chỉ những thử thách tinh thần: lo âu, cô đơn, sợ hãi, áp lực luân lý và tâm lý. Trong quá khứ, thánh Phaolô đã từng trải qua những thử thách đó: “Thật thế, thưa anh em, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về nỗi gian truân chúng tôi đã gặp bên A-xi-a: chúng tôi đã phải chịu đựng quá mức, quá sức chúng tôi, đến nỗi chúng tôi không còn hy vọng sống nổi” (2 Cr 1, 8). Không thể theo Đấng Chịu Đóng Đinh nếu không tham dự cuộc Khổ Nạn của Người. Như thánh Phaolô, chúng ta phải sẵn sàng yêu mến và đón nhận những trái ý xảy đến khi phục vụ chân lý. Tuy nhiên, trước những thử thách, chúng ta có thể có hai thái độ: một là vẫn theo thúc đẩy của Thánh Thần, hai là theo những tình cảm riêng tư của mình hay những lời khuyên của bạn hữu, người đồng hành để né tránh hết sức có thể. Xung đột về phân định phát xuất từ đó.
IV) “Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì”
Thánh Phao-lô khẳng định lại ý thức tông đồ của ngài: “Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì”. Thánh Tông Đồ nói lại điều ngài đã nói trước đó: Phục vụ Chúa như một tôi tớ và bị Thần Khí trói buộc. Nói như vậy không có nghĩa là ngài không coi mạng sống mình là quan trọng. Ngài chỉ có ý nói rằng mình rất gắn bó với mạng sống nhưng vì một lý tưởng cao đẹp hơn nên ngài sẵn sàng không quan tâm tới nó. Có một bà mắc một căn bệnh bất trị đã nói: “Căn bệnh đó không làm con mất ngủ”. Khi bà ấy nói câu này không có nghĩa là bà không quan tâm đến bất cứ điều gì, nhưng có ý nói đức tin vào Thiên Chúa giúp bà vượt qua mọi thứ xáo trộn.
V) Kết luận
Hãy đối thoại với thánh Phaolô để suy gẫm. Hãy tìm hiểu xem kinh nghiệm của chúng ta có giống với kinh nghiệm của ngài không và lời mời gọi ngài đã nghe và lời mời gọi của chúng ta có gặp nhau trong ơn huệ của Chúa không. Một cách nào đó, chúng ta có thể phản ánh chính mình nơi ngài. Nhưng hình ảnh của ngài cũng biểu lộ qua chúng ta: chúng ta sẽ cảm động nhận ra rằng những động lực thúc đẩy ngài thời Giáo Hội sơ khai cũng là những động lực thúc đẩy chúng ta ngày nay. Nhờ truyền thống để lại, chúng ta có thể đồng nhất mình với ngài. Điều đó giúp chúng ta ý thức về sự kế tục của các môn đệ Đức Ki-tô, thế hệ đi trước đến chúng ta là những thế hệ đi sau. Chúng ta sẽ trải nghiệm niềm vui phục vụ Đức Kitô, trung thành với Người và niềm vui đi loan báo Tin Mừng. Hãy đánh giá ý thức tông đồ của chúng ta dựa trên những gì thánh Phaolô đã trải nghiệm. Hãy vượt qua những thế kỷ chia cắt ngài với chúng ta để uống tận suối nguồn sống động Chúa Giêsu ban tặng.
VI) Câu hỏi gợi ý
Với những gì thánh Phao-lô đã nói, đã làm, chúng ta hãy soi vào tấm gương của Ngài và tự hỏi:
1) Tôi ý thức về ơn gọi linh mục của tôi thế nào? Sâu xa hay hời hợt? Tôi đã và sẽ làm gì để ý thức ơn gọi của tôi ngày một sâu xa, mạnh mẽ hơn?
2) Tôi có “bị trói buộc” bởi Thần Khí trong mọi công việc tông đồ, phục vụ của tôi không? Hay tôi chỉ “bị trói buộc” bởi chính tôi?
3) Tôi sống tinh thần liên đới và dấn thân phục vụ thế nào? Chỉ dừng lại ở những phận vụ được trao hay luôn cố gắng phục vụ hết mình, không so đo, tính toán?
4) Tôi có tinh thần “nghiệp đoàn” không? Và tôi có nhận ra và tránh được tinh thần đó không?
BÀI SÁU: ĐỜI SỐNG LINH MỤC THEO Ý THIÊN CHÚA
Chúng ta đã suy niệm câu 22-23 trong bài trước, bây giờ chúng ta tìm hiểu những câu tiếp theo: “Giờ đây tôi biết rằng: tất cả anh em, những người tôi đã đến thăm để rao giảng Nước Thiên Chúa, anh em sẽ không còn thấy mặt tôi nữa. Vì vậy, hôm nay tôi xin tuyên bố với anh em rằng: nếu có ai trong anh em phải hư mất, thì tôi vô can. Thật tôi đã không bỏ qua điều gì, trái lại đã rao giảng cho anh em tất cả ý định của Thiên Chúa” (Cv 20, 25-27).
I) Những việc phục vụ đặc biệt (diaconies particulières)
Thánh Phao-lô dùng nhiều cách để diễn tả việc phục vụ (diaconie) của ngài. Do đó, trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu nghĩa của từ “diaconie” dưới ánh sáng Kinh Thánh. Như chúng ta biết, Tân ước dùng từ “diaconie” nhiều lần để chỉ những việc phục vụ khác nhau. Đôi khi từ đó dùng để chỉ những sự phục vụ vật chất, ví dụ việc phục vụ bàn ăn. Trong 2 Cr 8, 4 thì từ “diaconie” được dùng để chỉ sự đóng góp tiền bạc giúp đỡ Giáo Hội Giêrusalem: đó là việc phục vụ khá nặng nề và đòi hỏi can đảm. Chúng ta có thể nói rằng Tân ước dùng từ “diaconie” để chỉ những việc phục vụ liên quan đến giá trị đời này (đồ ăn, quần áo, sức khoẻ, nhà cửa). Những việc phục vụ này được thực hiện bởi tình yêu đối với Đức Ki-tô: nơi các Ki-tô hữu, nó phát sinh từ đức tin, nó phản ánh sự năng động của đức tin triển nở trong đức ái. Chúng ta có thể gọi những việc phục vụ này là “những phục vụ bởi đức tin” (diaconies ex fide) (phát xuất từ đức tin). Tuy nhiên, Tân ước cũng nói tới “việc phục vụ đức tin” (diaconie fidei) (về đức tin, của đức tin). Việc phục vụ này phân biệt với những việc phục vụ trên, nhưng không tách rời. Đối tượng của việc phục vụ này là thông truyền đức tin: đó là việc rao giảng và tác vụ mục vụ nói chung qua đó, chúng ta phục vụ Chúa Giêsu và anh chị em; họ là những người lắng nghe và chúng ta hiến tặng họ lời cứu độ. Đó là việc phục vụ với ý nghĩa thiêng liêng và cánh chung; nó liên quan tới những giá trị đời sau.
II) Việc phục vụ của thánh Phaolô
Các nhà chú giải tự hỏi thánh Phaolô ám chỉ đến việc phục vụ nào khi ngài nói ở câu 24: miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn công việc phục vụ (chức vụ) tôi đã nhận từ Chúa Giê-su.
1) Nếu loại bỏ văn cảnh, chúng ta sẽ trả lời đó là việc phục vụ có tính trần thế. Thánh Tông Đồ quyên tiền đem đến Giêrusalem; ngài đã bỏ công sức rất nhiều cho việc quyên góp này, ngay cả liều mất danh dự, trước những cộng đoàn ở Macedonia và Achaia; và ngài ước mong làm cho xong. Ngài giữ tiền và ngài muốn đích thân trao cho Giáo Hội Giêrusalem. Các tín hữu Macedonia và Achaia không giàu có, nhưng vào ngày Chúa Nhật, họ sẵn lòng cùng nhau góp quỹ để giúp những người túng thiếu hơn. Như vậy, họ bắt chước Đức Kitô Đấng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để chúng ta trở nên giàu có (2Cr 8, 9).
2) Nhưng ngoài việc phục vụ vì bác ái, đó cũng là việc phục vụ cho sự hiệp thông. Các cộng đoàn Hy Lạp dường như phát triển mà không nghĩ đến cộng đoàn lâu đời và truyền thống (các cộng đoàn ở Giêrusalem). Thánh Phaolô muốn chứng minh rằng không có sự bất đồng với các cộng đoàn có trước ở Giêrusalem, liên kết với Luật Môsê chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, phần lớn các nhà chú giải đều đồng ý rằng trong diễn từ Mi-lê-tô, chính yếu, thánh Phaolô nói về tác vụ phục vụ của người tông đồ. Thánh Phaolô coi đó là sứ vụ của mình và trong thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, ngài đã bảo vệ sứ vụ đó một cách mạnh mẽ. Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô và trong thư gởi tín hữu Rôma, ngài cũng nhấn mạnh về tác vụ phục vụ của người tông đồ mà ngài đã nhận lãnh từ Chúa. Do đó, đối với ngài, việc phục vụ có tính trần thế là quyên tiền nằm ở vị trí thứ yếu. Thực sự thánh Phaolô nhấn mạnh đến sứ mạng làm chứng cho ân sủng của Thiên Chúa, và công bố Tin Mừng của Lòng thương xót, hơn là việc quyên tiền.
3) Chính Chúa Giêsu đã trao tác vụ phục vụ cho thánh Tông Đồ. Tác vụ đó trở nên một phần của bản thân ngài. Nhưng ngài được Chúa trao phó lúc nào? Chắc hẳn là thánh Phaolô nghĩ đến ơn gọi-hoán cải của ngài, một ơn gọi hoán cải mà ngài luôn nhắc tới khi nói về nguồn gốc sứ mạng của ngài: Chính Chúa Giêsu đã chọn tôi ngay từ khi còn trong lòng mẹ (Gl. 1, 15). Do đó, ngài không bao giờ nhát đảm: Bởi thế, vì Thiên Chúa đoái thương giao cho chúng tôi công việc phục vụ, nên chúng tôi không sờn lòng nản chí (2 Cr 4, 1); nhờ Đức Ki-tô, chúng tôi dám tin tưởng vào Thiên Chúa như vậy. Không phải vì tự chúng tôi, chúng tôi có khả năng để nghĩ rằng mình làm được gì, nhưng khả năng của chúng tôi là do ơn Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải Giao Ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí (2 Cr. 3, 4-6). Để kết luận, thánh Tông Đồ diễn tả ý thức ngài có về tác vụ phục vụ của ngài bằng nhiều cách: phục vụ Chúa như người nô lệ, rao giảng, loan báo ý muốn của Thiên Chúa, khích lệ và công bố Nước Chúa trị đến.
III) Tôi biết rằng anh em sẽ không còn thấy mặt tôi nữa
Bây giờ chúng ta suy gẫm về câu 25: Và bây giờ, tôi biết rằng, anh em sẽ không còn thấy mặt tôi nữa. Câu này biến đổi diễn từ thành một di chúc. Mặc dù chúng ta đều biết, qua đời sống và các bức thư mục vụ, thánh Phaolô còn trở lại Mi-lê-tô lần nữa. Nhưng có những giây phút quan trọng trong cuộc sống, thánh Phaolô hướng cái nhìn đi rất xa. Coi như lần cuối, ngài muốn diễn tả rõ ràng và thông truyền tất cả những gì nằm trong con tim của ngài, không giữ lại gì.
Vì vậy, hôm nay tôi xin tuyên bố với anh em rằng: nếu có ai trong anh em phải hư mất, thì tôi vô can. Người ta vẫn ngạc nhiên về lời khẳng định trên. Lời khẳng định đó không phải là một đánh giá có tính cách luân lý đối với các hoạt động của Phao-lô (*nghĩa là ngài không có lỗi do lơ là việc rao giảng Tin Mừng làm cho người khác hư mất), nhưng là một đánh giá tổng quát của người biết hiến trọn vẹn chính mình cho người khác. Đó là một bằng chứng về tình cảm sâu xa đối với cộng đoàn và từng người. Ở đây, chúng ta nhớ lại bản văn tuyệt vời của Đức Phaolô VI, những suy nghĩ ở ngưỡng cửa cái chết: “Tôi có thể nói rằng tôi đã luôn yêu mến Giáo Hội, tôi tin rằng mình đã sống cho Giáo Hội, mà không cho một cái gì khác. Tôi mong muốn Giáo Hội biết điều đó, tôi mong muốn có can đảm nói với Giáo Hội điều đó, như điều bí mật của con tim. Tôi chỉ có sức mạnh làm điều đó vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời”. Đó là ý thức của người hiến trọn vẹn chính mình cho đến giây phút cuối của cuộc đời.
Trong cầu nguyện, có lẽ chúng ta có thể thoáng nhận ra điều mà thánh Tông đồ muốn nói khi ngài khẳng định đã hiến dâng tất cả. Có lẽ chúng ta hiệp thông với con tim ngài và hiểu rõ sự dịu dàng cùng sự dấn thân trong toàn bộ sứ vụ của ngài. Có thể nói, ngài kiêu hãnh về những gì mình đã thực hiện. Nhưng đó là sự kiêu hãnh của một người cha muốn nói lên rằng: cha đã làm tất cả cho con. Và điều đó được biểu lộ qua câu ẩn dụ: có ai trong anh em hư mất thì tôi vô can. Ở đây, thánh Phaolô nghĩ rằng chắc chắn một số người sẽ hư mất, và ngài cảnh giác các kỳ mục: Các ông có nghĩ đến điều tôi đã nói không?
Từ câu 29, thánh Phaolô cho thấy sự khích lệ còn khẩn thiết hơn: "Phần tôi, tôi biết rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đàn chiên. Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng. Sói mang vẻ ngoài của các mục tử. Ở đây, chúng ta hiểu được sự an tâm của ngài: ngài ý thức mình không có lỗi vì sự hư mất của bất cứ ai. Còn chúng ta, nếu xét mình, chúng ta phải đấm ngực thú nhận mình luôn có lỗi đối với những người Chúa trao phó cho chúng ta để săn sóc mục vụ. Hãy nghĩ tới những người đang rời xa Giáo Hội cách này hay cách khác trong cộng đoàn của chúng ta (trẻ em, thanh thiếu niên, người chết không được lãnh nhận các bí tích, người lớn bỏ đạo). Thử hỏi chúng ta có thể mạnh dạn nói “vô can” như thánh Phaolô khi chúng ta chưa làm hết trách nhiệm của mình không?
Thánh Phao-lô đã thực hiện mọi sự vì ngài đã loan báo ý định của Thiên Chúa. Ngài lặp lại 2 lần câu: "… tất cả anh em, những người tôi đã đến thăm để rao giảng Nước Thiên Chúa, … Thật tôi đã không bỏ qua điều gì, trái lại đã rao giảng cho anh em tất cả ý định của Thiên Chúa”. Qua câu nói này, chúng ta thấy trung tâm lời thánh Phao-lô rao giảng là Đức Giêsu Ki-tô, là Đấng Phục sinh và là Chúa (Kyrios).
Câu nói trên của thánh Phao-lô biểu lộ sự sẵn sàng bên trong của ngài, đồng thời cũng nói về những hoàn cảnh bên ngoài: trong sự khiêm tốn rất mực và không chần chừ tránh né. Ngài can đảm rao giảng chống lại mọi toan tính bỏ cuộc. Nhưng điều đáng lưu ý là câu: “tất cả ý định của Thiên Chúa”. Thành ngữ này chắc chắn là nói quá vì một phần ý định này vẫn chưa được mặc khải. Tuy nhiên, chúng ta nên lưu ý tới từ “cho anh em”. Điều này có nghĩa là thánh Phaolô đã rao giảng cho các kỳ mục tất cả ý định của Thiên Chúa có liên quan đến họ; rao giảng cho họ mọi điều về tác vụ họ đã lãnh nhận.
IV) Trách nhiệm của các kỳ mục
Có thể kết luận rằng trách nhiệm quan trọng mà thánh Phaolô không bỏ qua, chính là toàn bộ sự khích lệ luân lý rút ra từ Tin Mừng dành cho các kỳ mục. Sự khích lệ luân lý đó có thể thấy qua lời khuyên trong các thư mục vụ của thánh Tông Đồ, như trong 1 Tm 3, 2-3: “Vậy giám quản phải là người không ai chê trách được, chỉ có một đời vợ, tiết độ, chừng mực, nhã nhặn, hiếu khách, có khả năng giảng dạy; người ấy không được nghiện rượu, không được hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, không hay gây sự, không ham tiền…” Ở đây, nói đến các giám quản của cộng đoàn (ngày nay là linh mục đoàn). Thánh Phao-lô tiếp tục khuyên Ti-mô-thê-ô: “… Còn những chuyện hoang đường nhảm nhí của bà già, thì hãy loại bỏ. Hãy luyện tập sống đạo đức; vì luyện tập thân thể thì lợi ích chẳng là bao, còn lòng đạo đức thì lợi ích mọi bề” (1Tm 4, 7-8). “Trong khi chờ tôi đến, hãy chuyên cần đọc Sách Thánh trong các buổi họp, …Anh hãy thận trọng trong cách ăn nết ở và trong lời giảng dạy. Hãy kiên trì trong việc đó. Vì làm như vậy, anh sẽ cứu được chính mình, lại còn cứu được những người nghe anh giảng dạy” (1 Tm 4, 13-16). Thánh Phaolô đã khuyên nhủ cẩn thận, đầy tình thương đối với Ti-mô-thê-ô. Ngài ý thức mình không trốn tránh trách nhiệm: ngài không chiều theo sự thông thái của các kỳ mục bằng những hệ tư tưởng cao sâu, nhưng nhắc cho họ mọi chi tiết thuộc ý định của Thiên Chúa về đời sống họ. Và dĩ nhiên, những chi tiết đó cũng biểu lộ ý định của Thiên Chúa về đời sống chúng ta. Những lời khuyên trên phát xuất từ con tim của thánh Phaolô, tôi tớ của Đức Ki-tô, người rao giảng Chúa Giêsu và mầu nhiệm phục sinh của Người và những lời khuyên nhủ đó diễn dịch đức tin cách cụ thể cho đời sống và kỷ luật hàng ngày (cầu nguyện, giữ gìn các giác quan, giở giấc, trung thực, giữ sức khoẻ nhưng không quá chú trọng đến gánh nặng của sự mệt nhọc). Đời sống và sứ vụ của thánh Phaolô là kiểu mẫu cho hàng linh mục chúng ta, vì đó là sự diễn dịch cụ thể Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.
V) Câu hỏi gợi ý
1) Việc phục vụ tông đồ, tức việc rao giảng Tin Mừng về ân sủng và lòng thương xót của Chúa nơi tôi thế nào? Ưu tiên hàng đầu hay tôi đang lơ là và xem là thứ yếu?
2) Tôi có nói được với cộng đoàn giáo xứ tôi phục vụ, hay gia đình, lớp học, hội đoàn, v.v. tôi phục vụ như thánh Phao-lô: “Tôi đã làm tất cả cho anh chị em” không? Tôi có thể an tâm như thánh Phao-lô khi nói: “Nếu có ai trong anh em phải hư mất thì tôi vô can” không?
3) Tôi giữ “kỷ luật hàng ngày” của đời sống linh mục, hay của đời sống người công giáo thế nào, để chính đời sống của tôi cũng là lời rao giảng Tin Mừng về ân sủng và lòng thương xót của Chúa?
BÀI BẢY: TỈNH THỨC
Chúng ta sang phần thứ ba của diễn từ Mi-lê-tô: huấn thị cho các kỳ mục, hay đúng hơn là sự khích lệ (c. 28-31): "Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình. Phần tôi, tôi biết rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đàn chiên. Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng. Vì vậy anh em phải canh thức, và nhớ rằng, suốt ba năm, ngày đêm tôi đã không ngừng khuyên bảo mỗi người trong anh em, lắm khi phải rơi lệ”. Trong bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu các kỳ mục Ê-phê-sô là ai; tỉnh thức theo Tân Ước là gì, và chúng ta cần tỉnh thức đề phòng những gì.
I) Các kỳ mục Ê-phê-sô là ai?
Khi nói đến các kỳ mục là chúng ta nói đến những người hữu trách. Đó là những giáo dân, phần lớn có gia đình và lao động kiếm sống, ở độ tuổi 35-40. Có thể so sánh họ với hội đồng mục vụ giáo xứ của chúng ta hiện nay. Chỉ một vài người trong số họ là những người rao giảng Tin Mừng (évangélistes) toàn thời gian hoặc rày đây mai đó. Họ dành một vài năm để phục vụ cộng đoàn. Hoặc họ nghiên cứu Kinh thánh và các cộng đoàn lo cho họ. Tuy nhiên, cách chính thức, đó là các linh mục mà người ta cũng gọi là kỳ mục (épiscopes); họ thay phiên nhau chủ toạ lễ tạ ơn khi thánh Tông Đồ vắng mặt; họ rửa tội; điều hành các lớp giáo lý và lo cho những người trở lại đạo. Có người trong họ lãnh trách nhiệm về hành chánh; có người thì lo xem xét những trường hợp hôn nhân khó khăn. Họ khuyên bảo và lo cho cộng đoàn được bình an khi có những tranh chấp. Họ họp nhau theo định kỳ để xem xét các vấn đề chính yếu. Vào thời đó, các tông đồ còn sống, nên cộng đoàn là loại cộng đoàn tông đồ, chứ không phải cộng đoàn có giám mục. Khi thánh Tông Đồ không ở đó, họ viết để trình bày cho ngài những trường hợp quan trọng nhất, hoặc họ hỏi ý kiến trực tiếp như ở Mi-lê-tô.
Để được gọi, ứng viên vào hàng kỳ mục phải có đời sống thiêng liêng và đạo đức thích hợp: một cảm nhận tình yêu huynh đệ trên mức trung bình, luôn sẵn sàng phục vụ (từ bỏ thời gian tự do, kể cả công việc đang làm …), một cảm nhận nhanh nhạy về những tương quan con người với nhau để có thể gia nhập nhóm – hợp nhất với thánh Tông Đồ - và để xây dựng và duy trì tinh thần huynh đệ trong cộng đoàn. Người ta không đòi làm việc toàn thời gian, hay phải độc thân. Thánh Phaolô không ngừng qui chiếu về kỳ mục đoàn, bởi vì chính ngài đã thiết lập, viếng thăm, củng cố và khích lệ cộng đoàn. Sau khi các tông đồ ra đi, khuôn mặt của giám mục sẽ nắm vai trò quan trọng: được chọn trong số các kỳ mục, giám mục sẽ thi hành quyền bính đặc biệt của các tông đồ.
Giáo Hội ngày càng đông các tín hữu. Sự đông đảo đó giải thích tại sao lại có các Giáo Hội giám mục, các giáo phận hoặc các miền đặc biệt. Được hợp thành bởi “tình huynh đệ” ngày càng đông, các giáo hội hiện nay có các linh mục được phong chức phục vụ. Cương vị xã hội của các “kỳ mục” hay “giám mục (épiscope)” đã thay đổi theo lịch sử. Từ khoảng 15 thế kỷ, các vị này thi hành một tác vụ thường đòi hỏi và bao gồm những trách nhiệm lớn hơn những trách nhiệm của các kỳ mục tiên khởi của cộng đoàn Ê-phê-sô. Vào thời đó, các kỳ mục vẫn là giáo dân, dù trong thâm tâm họ, họ được kêu gọi theo Đức Kitô cách triệt để. Vai trò và địa vị các kỳ mục được thành hình vào thế kỷ thứ III và thứ IV, theo nhịp tiến triển của Giáo Hội và những đòi hỏi gia tăng của việc thờ phượng, của cơ cấu tổ chức và sự gặp gỡ các nền văn hoá.
Sự thánh hiến đời sống linh mục ngày càng giống với sự thánh hiến của các tông đồ là những vị được mời gọi bỏ hết mọi sự để theo Chúa Kitô. Các vị ngày càng ít giống với các kỳ mục ở Ê-phê-sô. Có thể nói, chúng ta ở cùng phía với thánh Phaolô, Phêrô, Luca, Sila và Ti-mô-thê-ô, nghĩa là phía các vị hiến dâng xác và hồn cho việc phúc âm hoá và phục vụ cộng đoàn. Dần dần, linh mục chấp nhận hình tượng đời sống thiêng liêng của những người trở thành môn đệ Chúa Giêsu và được mời gọi theo Chúa Kitô, bỏ lại lưới cá và gia đình. Dĩ nhiên, tất cả những điều đó có những đường nét và mức độ khác nhau tuỳ theo những điều kiện xã hội trong tiến trình lịch sử của Giáo Hội. Điều kiện của đời sống chúng ta khác trước, nhưng chắc chắn nhiều đòi hỏi hơn khi so sánh với linh mục đoàn tiên khởi.
II) Tỉnh thức trong Tân ước là gì?
Sự khích lệ các kỳ mục Ê-phê-sô chứa đựng một từ chìa khóa: Hãy tỉnh thức (c. 28.31). Chúng ta hãy xem xét ngắn gọn ý nghĩa chung của sự tỉnh thức và điều nó muốn diễn tả trong Tân Ước.
1) Trong Tân ước, có nhiều từ chỉ tỉnh thức với nhiều nghĩa khác nhau. Riêng từ “hãy tỉnh thức” trong câu 31 dịch từ hy lạp gregorette, nghĩa là “hãy thức tỉnh” hay “trong tình trạng thức tỉnh” của người đã ngủ. Từ này được dùng nhiều trong Tân Ước. Chúng ta tỉnh thức vì nhiều lý do: - Tỉnh thức vì sợ hãi: người chủ sợ kẻ trộm đến nên tỉnh thức. Cũng vậy, người đầy tớ tỉnh thức vì sợ chủ về bất ngờ bắt gặp mình đang mê ngủ vì say sưa với bạn bè; -Tỉnh thức vì mong ước: Cô dâu tỉnh thức đợi chú rể: đó là điều đã được gợi lên trong sách Diễm ca và trong dụ ngôn mười trinh nữ. Khi đợi chú rể, người ta đốt đèn sáng. Đó là sự tỉnh thức của sự mong ước: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!” Đó cũng là sự tỉnh thức trong phụng vụ: “Chúng con chờ đợi Chúa trở lại”. - Sau cùng là tỉnh thức vì tình bạn mà Chúa Giêsu đã mời gọi các tông đồ.
2) Tân ước dùng nhiều nghĩa khác nhau về tỉnh thức cho thấy tầm quan trọng của thái độ này. Phải tỉnh thức, bởi vì nếu mê ngủ về đàng thiêng liêng, chúng ta sẽ mau chóng bị ma quỉ, tội lỗi, tà dâm kéo đến, và nhục dục cám dỗ, trí tưởng và tò mò sẽ xuất hiện. Một số trong chúng ta sa ngã bất ngờ bởi vì, khi đã cầu nguyện, chúng ta tin rằng mình vững mạnh, mà quên đi sự mỏng dòn, yếu đuối luôn đi liền với bản tính con người chúng ta. Chúa đòi hỏi chúng ta cầu nguyện để cái chết không bất ngờ đến khi chúng ta ở trong tình trạng tội lỗi, để khẩn cầu cho Nước Thiên Chúa đến trên thế gian và ngày trở lại của Chúa chúng ta, để đồng hành với Chúa Giêsu trong những giờ phút cầu nguyện lâu giờ khi hấp hối; nhờ đó chúng ta được thanh luyện khỏi những ước muốn tội lỗi hão huyền.
3) Tỉnh thức mong chờ Chúa đến, theo Kinh Thánh, đó là thái độ tiêu biểu của con người Phúc âm, của người không dừng lại ở những an toàn hiện tại nhưng hướng tới tương lai. Vì lý do đó, Tân Ước diễn tả sự tỉnh thức bằng những từ khác, ngoài hai từ mà thánh Phao-lô dùng trong bản văn chúng ta đang suy niệm. Đặc biệt, trong những diễn từ cánh chung của các Tin Mừng nhất lãm. Ở đây, chúng ta có thể nói đến Mc 13, 33 và tt, trong đoạn này, “tỉnh thức” được dịch bằng từ hy lạp có nghĩa là “chiến đấu chống lại sự buồn ngủ”. Hơn nữa, khuyến khích tỉnh thức thường đi liền với lời mời gọi cầu nguyện liên tục, không ngừng. Cũng cần nói thêm, lời nhắc nhở “hãy tiết độ” cũng nằm trong thái độ tỉnh thức, bởi vì rượu làm người ta mê ngủ và ra tối tăm.
III) Chúng ta tỉnh thức đề phòng những gì?
Ngày nay, chúng ta sống trong một thế giới không còn ý thức về việc Chúa lại đến, trong khi các ki-tô hữu tiên khởi lại tin rằng ngày Chúa trở lại đã rất gần. Đúng hơn, thời đại chúng ta chỉ sợ chiến tranh hoặc tai họa hạt nhân có thể huỷ diệt nhân loại. Vì thế, nhiều người, nhất là giới trẻ muốn chiến đấu chống lại những xung đột trên thế giới và chống lại việc chạy đua vũ trang. Đó là sự diễn dịch có tính thế tục của sự tỉnh thức, trong khi hi vọng của Tân Ước là sự chờ đợi vị Hôn Phu sẽ đến. Đối với con người, sợ hãi sự kết thúc là một thái độ hiện sinh thường xuyên; nhưng chúng ta phải diễn dịch sự sợ hãi đó cách đúng đắn và thanh tẩy nó. Lịch sử sẽ có một kết thúc; những thực tại của thế giới này sẽ biến đổi. Nhưng đối với linh mục chúng ta, tỉnh thức Phúc âm phải được diễn dịch cụ thể thế nào?
1) Trước hết, chúng ta cần tỉnh thức để thắng vượt lối sống cá nhân cực đoan.
TK XVI-XVII, phương Tây khám phá ra giá trị của “cái tôi”. Có thể nói đến sự trỗi dậy của “cái tôi” từ trước tới nay bị xoá nhoà bởi “cái chúng tôi”. Sự trỗi dậy đó nếu hiểu theo nghĩa là tự do, trách nhiệm và trưởng thành của “cái tôi” thì rất tốt. Tuy nhiên, theo thời gian, “cái tôi” đó ngày càng được chú trọng quá mức biến thành một thứ chủ nghĩa cá nhân cực đoan. “Cái tôi” ngày càng tách rời khỏi “cái chúng tôi”. “Cái tôi” trở thành quan trọng nhất. “Cái tôi” là trung tâm mọi sự. “Cái tôi” trổi vượt hơn mọi người. “Cái tôi” hoàn hảo, không một khiếm khuyết. Nói tóm lại “Cái tôi” là tất cả. Một khi đã có “Cái tôi” như thế, chúng ta trở thành một người có lối sống cá nhân cực đoan nhất. Nguy hiểm hơn là sự đề cao thái quá “Cái tôi” thường được che dấu sau những lời nói và thái độ hết sức khiêm tốn, hết sức phục vụ. Là linh mục, sống trong bầu khí của chủ nghĩa cá nhân cực đoan, chúng ta cần tỉnh thức thắng vượt lối sống cá nhân cực đoan của “Cái tôi”. Đó là sự tỉnh thức thường xuyên, luôn kèm theo một đời sống cầu nguyện liên lỉ, cùng với sự xét mình chân thành trước nhan Chúa, cũng như can đảm lắng nghe và ngay cả nếm vị đắng của những góp ý thẳng thắn. Thắng vượt “Cái tôi” của lối sống cá nhân thái quá, chúng ta mới có thể sống liên đới, vị tha, yêu thương và chấp nhận lẫn nhau. Chấp nhận trong đời sống chung giữa anh em linh mục cùng phục vụ một giáo xứ, một cộng đoàn; chấp nhận giáo dân trong tôn trọng, yêu thương và tha thứ. Thật đáng buồn nếu chính chúng ta, những người tông đồ của Chúa, lại chỉ nghĩ đến mình, gia đình mình, người thân và bạn hữu của mình.
2) Kế đó, chúng ta cần tỉnh thức để thắng vượt lối sống cực đoan về thời gian.
Ngày nay, tiêu chuẩn của xã hội là cái gì cũng phải nhanh. Càng nhanh càng tốt. có lần đi Metro (xe điện ngầm) ở Paris, một em bé độ 7 tuổi nói: 1’28”. Em bé có ý nói về thời gian từ trạm vừa rời tới trạm kế đó. Em tính từng giây. Nghĩa là đối với em, càng nhanh càng tốt. Không nói đâu xa, điện thoại di động chúng ta gọi nghe cũng trong xu hướng đó. Chú dế đời sau luôn nhanh hơn những chú dế đời trước. Hiệu quả kinh tế, hành chánh, v.v. đều được đánh giá bằng thời gian nhanh hay chậm. Làm chậm, cho sản phẩm ra thị trường chậm chỉ có chết trong thời buổi cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
Từ lãnh vực kinh tế, xã hội, quan niệm thời gian lấn sang lãnh vực tôn giáo. Cụ nào làm lễ nhanh, giảng ngắn được ưa thích. Cụ nào lề mề, dài dòng sẽ bị chê bai và tránh né. Về đời sống thiêng liêng cũng vậy, chúng ta muốn chính mình, giáo xứ và giáo dân phải mau lẹ đổi mới. Có thể nói, con người chúng ta ngày nay bị lôi cuốn bởi cái “tức khắc”, “tức thời”. Trong khi đó, Kinh Thánh không ngừng nói đến sự kiên trì, sự nhẫn nại, sự chờ đợi. Là mục tử, chúng ta đến với người khác với tình yêu phục vụ, mà tình yêu phục vụ đòi hỏi sự nhẫn nại và thời gian. Không thể có cái tức khắc cho sự đổi thay một con người. Người tông đồ phải cố gắng sống và giúp mọi người sống nhịp điệu tôn trọng bản tính con người, nghĩa là hãy coi thời gian là bạn, chứ không phải kẻ thù phải chinh phục.
Một khía cạnh khác cần lưu tâm, đó là nhiệt tâm tông đồ muốn làm mọi sự không để một khoảng trống thời gian nào. Đây cũng là cách gián tiếp chúng ta muốn chinh phục thời gian, muốn làm thật nhiều trong một khoảng thời gian ngắn nhất. Đây cũng có thể là mặt trái của sự kiêu căng cho rằng mình có thể làm mọi sự, giải quyết mọi sự. Cần tìm kiếm thời gian thinh lặng trong cầu nguyện. Cần tách rời khỏi môi trường đang sống để suy nghĩ, nhìn lại chính mình và những hoạt động tông đồ của mình.
Ngược lại với nhiệt tâm tông đồ như muốn chinh phục thời gian, một thái độ khác cũng cần tránh đó là phí phạm thời gian. Có lẽ linh mục chúng ta thường rơi vào thái độ này. Thời gian rảnh rỗi quá nhiều vì nhiều lúc chúng ta không biết làm gì. Ở không sẽ dẫn đến lười biếng. Lười biếng lại đưa đến bê trễ bổn phận. Đầu óc chúng ta trở nên mụ mẫm, không còn suy nghĩ được, đọc một đoạn Tin Mừng nhiều khi chúng ta không biết nói gì, nên một là lấy bài giảng cũ ra giảng lại, hai là vào internet tìm kiếm và tải xuống; thế là xong bổn phận. Tệ hơn nữa, vì lười biếng, dần dà chúng ta sẽ chỉ uể oải làm những cái tối thiểu của bổn phận. Tận dụng thời gian Chúa ban và không vội chinh phục thời gian bằng mọi giá, đó là thái độ trung dung và đó là sự “tiết độ”, một nhân đức trong 4 nhân đức nền tảng là khôn ngoan, can đảm, công bình và tiết độ.
3) Cuối cùng, chúng ta cần tỉnh thức để thắng vượt lối sống hướng hạ, dành ưu tiên cho những sự đời này.
Lối sống này được biểu lộ qua 3 khía cạnh:
- Người thời nay không còn nhận biết có một Thiên Chúa là Cha yêu thương, sáng tạo và cứu chuộc. Họ theo một thứ chủ nghĩa nhân bản vô thần. Quan tâm, giúp đỡ, dấn thân trong những hoạt động nhân đạo vì tình người là đủ; không cần một Đấng Linh Thiêng Siêu Việt nào. Tuy nhiên, một lối sống nhân bản vô thần không mở ra với Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu và thương xót rất dễ lạc hướng. Có khi người ta chỉ giúp đỡ những người cùng một niềm tin, cùng một lối sống, cùng một dân tộc, cùng một nền văn minh. Có khi người ta chỉ giúp đỡ những khía cạnh giới hạn tự đặt ra mà không giúp đỡ toàn diện con người, v.v.
- Không tin có Thiên Chúa thì cũng không tin có đời sau, hoặc niềm tin vào đời sau rất mờ nhạt. Hậu quả là gì? Những người này đánh mất niềm hi vọng thực sự. Họ đánh mất hi vọng bởi vì phải chết. Cái chết là điều chắc chắn nhất, không ai tránh được. Chính vì không tin vào đời sau vĩnh cửu, đánh mất niềm hi vọng hạnh phúc, mà thời đại chúng ta là thời đại đáng thương, một thời đại trong đó con người làm mồi cho mọi thứ trào lưu nhất thời, thay đổi, và nhất là làm mồi cho stress dẫn đến rất nhiều trường hợp tự tử của giới trẻ.
- Hậu quả của sự không tin có Thiên Chúa, không tin có đời sau là gì? Đó là lối sống hưởng thụ tối đa, và buông thả tình dục. Người ta tìm mọi cách để hưởng thụ. Người ta tôn thờ những thần tượng khác thay cho Thiên Chúa. Ai đam mê kỹ thuật, tín đồ công nghệ thì tôn thờ Iphone, Ipad. Ai đam mê bóng đá thì tôn thờ thần tượng Messi, Ronando… Ai đam mê sang trọng, de luxe thì sắm xe Roll-Royce; mặc đồ hàng hiệu Nhật Ý… Ngoài ra, trên tivi và các phương tiện thông tin, người ta đề cao tự do tình dục. Lối sống thác loạn của một bộ phận giới trẻ qua những viên thuốc lắc, những quán bar nhảy múa, ăn chơi thâu đêm suốt sáng là một minh hoạ. Lối sống này là hậu quả nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ cho sự không tin có Thiên Chúa, có đời sau,
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tỉnh thức, đừng đi theo thế gian mà ngủ mê khi Chúa đến.
IV) Câu hỏi gợi ý
1) Chúng ta có luôn “tỉnh thức” không? Và chúng ta có luôn cầu nguyện không?
2) Chúng ta có tỉnh thức để nhận ra lối sống đôi khi quá cá nhân của chúng ta không? Đâu là những cách sống quá cá nhân chúng ta thường thể hiện trong đời sống hàng ngày?
3) Chúng ta có tỉnh thức để nhận ra cách mình nghĩ và dùng thời giờ thế nào không? Và đâu là những dấu hiệu không ổn trong cách nghĩ và dùng thời giờ của chúng ta?
4) Lối sống của chúng ta là lối sống hướng về Thiên Chúa, về niềm tin đời sau hay vẫn mang nặng tính cách trần thế?
BÀI TÁM: GẮN BÓ VỚI ĐỨC KITÔ VÀ VỚI GIÁO HỘI
Bây giờ chúng ta suy nghĩ về những hoàn cảnh đặc biệt cần tỉnh thức. Dựa vào những khích lệ của thánh Phao-lô, chúng ta đặt một số câu hỏi sau: a/ Các kỳ mục Ê-phê-sô, chịu trách nhiệm về cộng đoàn, phải tỉnh thức lo cho ai? b/ Vì lý do gì họ phải tỉnh thức? c/ Và tỉnh thức thế nào?
I) Các kỳ mục Ê-phê-sô phải tỉnh thức lo cho ai?
“Hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên”
Thánh Phaolô không khuyên các kỳ mục lo cho chính mình hoặc chỉ lo cho đoàn chiên. Ngài không quá lý tưởng: cứ săn sóc bản thân và đoàn chiên sẽ được gìn giữ cẩn thận, hoặc cứ săn sóc đoàn chiên thật tốt và như thế, anh em đã săn sóc chính mình. Biện chứng ở đây không thể đảo ngược: mình và đoàn chiên. Một linh mục không cầu nguyện, không có thời gian đọc và lo lắng cho đời sống thiêng liêng của mình, không thể viện dẫn lý do là phải lo cho đoàn chiên. Làm như vậy, người ấy chỉ canh thức cho đoàn chiên mà không canh thức cho chính mình. Ngược lại, linh mục cũng không thể không quan tâm đến đoàn chiên vì phải dành cả ngày để cầu nguyện, đọc Kinh Thánh hay học thần học. Làm như vậy, linh mục chỉ canh thức cho mình mà không cho đoàn chiên. Hai thực tại song hành với nhau, làm phong phú lẫn nhau và bổ túc cho nhau nhưng không bao giờ lẫn lộn với nhau. Chúng ta dễ mắc lỗi khi muốn tìm phương pháp giải quyết khác bằng cách loại bỏ tính lưỡng cực mà thánh Phao-lô nhấn mạnh. Chúng ta phải chấp nhận nó và kiên nhẫn sống với nó trong lúc vẫn đi tìm sự quân bình đúng đắn. Đó là cách thế duy nhất: chúng ta phục vụ cộng đoàn khi săn sóc chính mình và ngược lại, chúng ta sẽ săn sóc chính chúng ta khi phục vụ cộng đoàn. Hãy cẩn thận lo cho chính mình và đoàn chiên (c.28): hãy tỉnh thức lo cho chính chúng ta và đồng thời lo cho những người Chúa trao phó cho chúng ta.
Trong bài đọc KINH SÁCH Thứ hai tuần XXIV TN, thánh Augustinô nói về bổn phận đúp này. Thánh nhân nói các mục tử là những người được Chúa thương đặt vào vị trí coi sóc đoàn chiên, chứ không vì công trạng của các ngài. Vì thế, thánh nhân nhấn mạnh đến bổn phận vừa phải lo cho mình là một Ki-tô hữu, vừa phải lo cho đoàn chiên vì là người đứng đầu. Thánh nhân viết: “Có nhiều người Ki-tô hữu mà không phải là người đứng đầu: họ đến với Thiên Chúa qua một con đường có khi dễ dàng hơn và có lẽ thuận lợi hơn, vì mang ít hành lý hơn. Còn chúng tôi, nguyên một chuyện là Ki-tô hữu, chúng tôi đã phải trả lẽ với Thiên Chúa về đời sống của mình rồi, huống chi chúng tôi lại là người đứng đầu, nên còn phải trả lẽ với Thiên Chúa về công việc quản lý của mình nữa”.
II) Tại sao phải tỉnh thức?
Có hai lý do thúc đẩy thánh Phaolô khuyên phải tỉnh thức. Lý do thứ nhất là tầm quan trọng của chỗ mà Thiên Chúa chỉ định cho các kỳ mục: anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình” (c. 28). Ở đây, rõ ràng thánh Phao-lô qui chiếu về cuộc khổ nạn và cái chết cứu độ của Chúa Giêsu, về tình yêu Thiên Chúa, Đấng đã dấn thân đến chết vì chúng ta, vì đoàn chiên mà giữa đoàn chiên đó Chúa Thánh Thần đã đặt các kỳ mục. Chỗ của các kỳ mục là vị trí lãnh đạo để chăm lo cho đoàn chiên Thiên Chúa Ba Ngôi đã trao phó cho họ.
Lý do thứ hai là những hiểm hoạ cận kề, hiểm hoạ đó là những sai lạc xuất hiện trong cộng đoàn: Phần tôi, tôi biết rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào giữa anh em, chúng không tha đàn chiên. Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng (c.29-30). Sự ra đi mà thánh Phao-lô ám chỉ ở đây có lẽ là cái chết của ngài, một sự ra đi không bao giờ trở lại. Động từ đột nhập nhấn mạnh đến giây phút hiện tại và những sói dữ không tha cho đoàn chiên. Ở đây, thánh Phao-lô hình như sợ rằng những con sói khủng khiếp đó không chỉ tấn công các kỳ mục, là những người chín chắn và được chuẩn bị tốt hơn, mà còn tấn công những tín hữu đơn sơ và yếu đuối nữa. Sự cảnh báo rất nghiêm trọng được thánh Tông đồ nhấn mạnh: giữa anh em. Như vậy, sẽ có những sự tấn công đến từ bên ngoài; có những người sẽ đến làm cho anh em đau khổ. Nhưng từ giữa anh em, sẽ xuất hiện những người nói những điều xấu xa: từ giữa anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc.
Theo bản văn, có thể giả thiết rằng có hai loại người giảng dạy sự sai lạc. Trước hết là những tiến sĩ giả, là những người học thức, có khả năng diễn tả theo một biện chứng lôi cuốn. Họ lôi kéo sự chú ý, khơi gợi mối quan tâm và tò mò; quần chúng nghe họ. Kế đó là những người lãnh đạo giả: đó là những người có tư cách và có khả năng ăn nói; họ có khuynh hướng thống trị và thi hành quyền lực tinh thần trên người khác. Bản năng này còn nguy hiểm hơn bản năng thống trị về mặt vật chất; nó suy đồi và tinh tế hơn.
Có thể nói, sau những lạc quan và tin tưởng trong những lá thư đầu tiên, vào cuối đời, thánh Tông đồ trở nên bất an và lo âu khi thừa nhận sự hiện diện của lầm lạc đang tàn phá vườn nho ngài đã bỏ bao nhiêu công lao trồng tỉa, vun xới. Những lời cảnh báo của thánh Phaolô không chỉ nói với các kỳ mục Ê-phê-sô ngày xưa, mà còn nói với chúng ta ngày nay vì ngài viết cho Giáo Hội thuộc mọi thời.
Còn chúng ta thì sao?
a) Trước hết, lời cảnh báo của thánh Phaolô nhắc chúng ta phải coi chừng chính mình, đừng để mình ngày một xa rời chỗ Chúa đã chỉ định cho ta là lo cho đoàn chiên Chúa đã trao phó cho chúng ta. Chúng ta xa rời chỗ Chúa chỉ định cho chúng ta khi thay vì chăm sóc đoàn chiên, chúng ta chỉ lo chăm sóc mình, gia đình mình, những người thân của mình. Tiên tri Ê-dê-ki-el đã tuyên sấm hạch tội các mục tử chăn dắt Is-ra-el như sau:
“Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng: Hỡi con người, hãy tuyên sấm hạch tội các mục tử chăn dắt Ít-ra-en, hãy tuyên sấm. Hãy nói với chúng, với các mục tử đó: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, chúng tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm. Vì thế, hỡi các mục tử, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA. Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng -, bởi chiên của Ta bị cướp phá và biến thành mồi cho mọi dã thú vì thiếu mục tử, bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta, nên hỡi các mục tử, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta ; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên, và các mục tử sẽ không còn lo cho mình. Ta sẽ giải thoát các chiên của Ta khỏi miệng chúng, để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa. Quả thật, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm” (Ed 37, 1-11).
Chúng ta cũng xa rời chỗ Chúa chỉ định cho chúng ta khi thay vì lo cho đoàn chiên được tăng trưởng đời sống thiêng liêng, chúng ta lại quá lo xây dựng cơ sở vật chất, thường xuyên đi vắng, lơ là với bổn phận ban các bí tích, nhất là thánh lễ, giải tội, xức dầu; nhiều khi chỉ làm chiếu lệ, cho qua, rất ít tâm tình đạo đức. Ngoài ra, chúng ta cũng xa rời chỗ Chúa chỉ định cho chúng ta khi thay vì quan tâm yêu thương từng con chiên trong đàn, chúng ta lại chỉ quan tâm, yêu thương đặc biệt một số rất ít, còn đại đa số thì hầu như dửng dưng (*Nhiều khi chúng ta nói về những người bỏ đạo, lạc đạo trong giáo xứ như ai đó không liên quan tới mình), v.v.
b) Lời cảnh báo của thánh Phaolô cũng nhắc chúng ta phải coi chừng một điều khác, đó là mỗi người chúng ta đều có thể trở nên một tiến sĩ giả, một lãnh đạo giả, muốn thống trị thay vì phục vụ, lôi kéo người khác về mình và dùng người khác như dụng cụ để biểu lộ sự kiêu căng, hoặc nâng cao uy tín, ảnh hưởng, hoặc giành phần đúng, phần phải cho mình. Kế đó, bản văn của thánh Phaolô giúp chúng ta hiểu hơn về những giáo lý trái ngược với đức tin chân thật. Các nhà chú giải đã đưa ra nhiều giả thuyết, hầu như tất cả đều được gợi lên từ những ám chỉ của các lá thư viết trong tù. Những lá thư viết cho các tín hữu Ê-phê-sô và Cô-lô-sê cung cấp những yếu tố về các sai lầm lan tràn ở Ê-phê-sô và Tiểu Á. Nhưng các lá thư của thánh Gioan cũng gợi lên những chủ đề sai lạc đó, và vị tông đồ này đưa ra những đe doạ và cảnh báo rõ ràng về chúng. Ngoài ra, trong văn chương ki-tô giáo cổ, người ta còn tham khảo các lá thư của thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-ki-a và của thánh I-rê-nê. Các lá thư này là một nguồn kiến thức rất quí giá, và chúng ta sững sờ bởi rất nhiều người lạc giáo và những giáo lý sai lạc hiện diện vào thời đó.
Linh mục là người lãnh đạo cộng đoàn, được nhận lãnh đặc ân biết tổng hợp. Nên các ngài phải quan tâm đến mọi sự, phải bảo vệ chính mình và đoàn chiên, loại trừ mọi sai lạc ngay từ đầu.
III) Tỉnh thức đề phòng thế nào?
Vì vậy anh em phải canh thức, và nhớ rằng, suốt ba năm, ngày đêm tôi đã không ngừng khuyên bảo mỗi người trong anh em, lắm khi phải rơi lệ (c. 31). Thánh Tông đồ dặn dò nên tình thức luôn và ai nấy đều phải tỉnh thức. Tỉnh thức đề phòng cách nào?
1) Tỉnh thức tuân giữ kỷ luật đời sống
Để giúp hiểu rõ hơn sự khích lệ cuối cùng của diễn từ Mi-lê-tô, chúng ta nhờ đến hai bản văn cổ cũng chứa đựng những “lệnh truyền” cho các kỳ mục. “Trong khi chờ tôi đến, hãy chuyên cần đọc Sách Thánh trong các buổi họp, chuyên cần khuyên nhủ và dạy dỗ. Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh… Anh hãy thận trọng trong cách ăn nết ở và trong lời giảng dạy; hãy kiên trì trong việc đó. Vì làm như vậy, anh sẽ cứu được chính mình, lại còn cứu được những người nghe anh giảng dạy” (1 Tm 4, 13-16). Và chúng ta có thể diễn dịch cụ thể: hãy chuyên cần suy gẫm mỗi ngày, đặc biệt là đọc Sách Thánh; hãy lưu tâm đến việc linh hướng, xưng tội, và những giây phút thinh lặng sa mạc… nghĩa là hãy tuân giữ kỷ luật đời sống linh mục. Đừng quên rằng đời sống thiêng liêng là thức ăn nuôi sống sự phân định sáng suốt. Ở đây, chúng ta để ý tới 3 từ thánh Phao-lô dùng: thận trọng, kiên trì và chuyên cần. Ba từ này diễn tả sự quan trọng của việc rèn luyện đời sống thiêng liêng để có thể tỉnh thức đề phòng. Đề phòng điều gì?
- Trước hết là đề phòng chủ trương sống bình thường. Có lẽ khá nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng: “Tôi không có tham vọng. Tôi chỉ muốn sống như một người bình thường”. Nếu hiểu đây là chủ trương không quá tìm kiếm danh vọng, địa vị, uy tín; không ham muốn hư danh thái quá thì rất tốt. Tuy nhiên, nếu đó là chủ trương sống bình thường, vừa đủ trong đời sống thiêng liêng và phục vụ thì không tốt chút nào. Vì sao? Bởi vì không mấy chốc, chủ trương sống bình thường sẽ thoái hoá, lôi kéo chúng ta đi xuống, làm chúng ta sống tầm thường, trì trệ, tệ hại. Ai cũng biết, con đường của đời sống thiêng liêng và phục vụ giống như lội dòng nước ngược. Không nỗ lực tiến tới lập tức sẽ bị đẩy lùi. Không thể có sự an nhàn, nghỉ ngơi, bình thường ở đây. Bởi đó, chúng ta cần không ngừng nỗ lực vượt khỏi chính mình, vượt khỏi những cái bình thường, vừa đủ. Có vậy, chúng ta mới tiến bước trên con đường thánh thiện và phục vụ như Đức Ki-tô.
- Kế đó là đề phòng thói kiêu căng. Não trạng kiêu căng đó hình thành và thể hiện thế nào? Trước hết phải kể đến ý thức tiềm ẩn, nhưng rất sâu xa, cho mình thuộc về một tầng lớp ưu tú, có một địa vị, uy thế đặc biệt, thuộc về thế giới thần linh, thiêng liêng, vượt xa trên những gì thuộc lãnh vực trần thế. Ý thức sâu xa này cộng hưởng với một nguyên mẫu tiềm tàng từ xa xưa của hàng giáo sĩ: Giáo Hội là mẹ, linh mục là cha, giáo dân là con cái. Bị những sức mạnh tâm lý này trói buộc, linh mục chúng ta dễ đồng hoá mình với căn tính linh mục một cách thái quá mà quên đi căn tính nền tảng: mình cũng là một kitô hữu như những kitô hữu khác nhờ bí tích rửa tội. Vì thế, nhiều khi chúng ta đòi phải được kính trọng, phải được vâng nghe cách đặc biệt. Bất cứ ai làm trái ý, kẻ đó đáng bị lên án. Hơn nữa, chúng ta sẽ cho mình quyền xét xử người khác mà không ai có quyền góp ý hay nhận xét về mình. Nguy hiểm hơn, chúng ta sẽ ngày càng qui hướng mọi người và mọi sự về mình, trong khi đúng ra, là tông đồ, mục tử thay mặt Chúa, chúng ta phải qui hướng, phải dẫn đưa người khác đến với Ngài. Cuối cùng, sự tự cao thường gắn liền với tự ái, nên chúng ta rất dễ bị tổn thương, rất dễ đi đến ganh tị. Ý thức tự cao thuộc tầng lớp ưu tú của hàng ngũ linh mục có thể càng phát triển theo năm tháng và chức vụ trong Giáo Hội. Nếu không có sự phân định thường xuyên nhờ ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta dễ đi đến sự đánh giá sai lạc về bản thân, về bề trên, về anh em linh mục và giáo dân. Những đánh giá sai lạc đó, thường theo hướng vị kỷ và đề cao bản thân, nên dễ qui lỗi cho người khác, để rồi cảm thấy mình bị cư xử tàn tệ, bất công và rơi vào tâm trạng chán nản, cay đắng, chua chát, thất vọng và buông xuôi[1].
Tất cả những sức mạnh tâm lý trên có khi hoạt động trên tầng ý thức, có khi trong tiềm thức. Tuy không phải bao giờ chúng cũng điều khiển mọi thái độ và cách hành xử của chúng ta, nhưng tác động và ảnh hưởng của chúng quả là không nhỏ, nhất là khi chúng ta lơ là, không nhận ra và không thường xuyên luyện tập đức khiêm nhường, sự từ bỏ và phục vụ cách nhưng không vì tình yêu đối với Chúa và mọi người.
2) Gắn bó với Đức Ki-tô và Giáo Hội.
Ngoài ra, thánh Phao-lô còn tha thiết khuyên Ti-mô-thê-ô: “Trước mặt Thiên Chúa và Đức Ki-tô Giê-su, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường. Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh” (2 Tm 4, 1-5). Những lời này giải thích cho sự khích lệ của thánh Phaolô trong bản văn công vụ tông đồ chúng ta đang suy gẫm. Thánh Phaolô đưa ra rất nhiều lời khuyên trong những lần khích lệ đặc biệt. Chúng ta có thể diễn dịch như sau: các sai lạc – ít là ở mầm mống – xuất hiện vào mọi thời và trong mọi văn hoá; bởi đó, quan trọng là gắn bó mật thiết với Đức Kitô và Giáo Hội. Đó là hai qui chiếu nền tảng để luôn trung thành với ơn gọi phục vụ trong chức linh mục, ngoài phương thế giữ kỷ luật đời sống linh mục. Chúng ta đừng để mình bị loá mắt hay lạc đường bởi những diễn từ bề ngoài có vẻ đạo đức, nhưng ít chính đáng, nông cạn và lạc hướng.
- Gắn bó với Đức Kitô. Một điều hoàn toàn có tính quyết định, đó là biết tỉnh thức bằng tình yêu tha thiết, trong cầu nguyện cá nhân liên lỉ, trong thờ lạy. Nhờ đó, chúng ta có một cảm quan thuộc về Đức Kitô. Sự an ủi khi cầu nguyện giúp chúng ta nếm trải cảm quan đó. Luôn tập trung vào Đức Kitô là phương thuốc tốt nhất chữa trị những hình thức trung gian giả tạo hoặc thêm thắt thái quá. Lectio divina sẽ giúp chúng ta điều đó và hỗ trợ chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu trong biệt tính (singularité) và viên mãn của thiên tính ngụ trong Người một cách hữu hình. Thiên Chúa được ban cho chúng ta trong Chúa Giêsu và chỉ Thiên Chúa là đủ cho chúng ta.
- Gắn bó với Giáo Hội. Chúng ta phải yêu mến Giáo Hội địa phương, thành phần của Giáo Hội hoàn vũ, cộng đoàn của chúng ta, linh mục đoàn của chúng ta. Thánh Phaolô khích lệ chúng ta tránh xa những người loè đôi mắt chúng ta để lôi kéo chúng ta theo những con đường cứu độ khác và đi trệch đường xa Giáo Hội. Thánh Tông Đồ mời gọi chúng ta sẵn lòng đón nhận mọi nâng đỡ mà Giáo Hội đề nghị. Hãy yêu mến sự hiệp thông của linh mục đoàn trong tính mộc mạc của nó, bởi vì đó là sự hiệp thông vững chắc và lâu bền, có khả năng nuôi dưỡng đời sống ta thường xuyên.
Sự hiệp thông này nhắc chúng ta về tình huynh đệ thiêng liêng trong linh mục đoàn. Chúng ta cần luôn quan tâm đến nhau và cầu nguyện cho nhau. Sống yêu thương nhau chân thành, biểu lộ qua sự khiêm tốn, tôn trọng nhau, như lời thánh Phaolô: “Thương mến nhau với tình huynh đệ. Coi người khác trọng hơn mình” (Rm 13, 10); qua sự kiên nhẫn chịu đựng lẫn nhau, và sẵn sàng góp ý cho nhau cách tế nhị nhưng thẳng thắn; qua sự bao dung, độ lượng và cố làm hết sức để giúp nhau có cơ hội và thời gian sửa đổi. Cố tránh mọi thành kiến; dẹp bỏ tính tự ái, và nhất là không bao giờ giận ghét, thù hằn anh em; tuyệt đối không khi nào tìm cách trả thù, triệt hạ vì người anh em đó không hợp với ta, hoặc chống đối ta.
Đây là những nhắc nhở quan trọng, bởi vì thánh Phaolô xác quyết rằng không chỉ phẩm chất tốt của phục vụ là đủ, mà còn phải là người của Giáo Hội, qua tình thương yêu huynh đệ trong linh mục đoàn; và là người của Đức Ki-tô qua mối tương quan đích thực với Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin đến trợ giúp chúng con. Amen.
IV/ Câu hỏi gợi ý
1) Là linh mục, người lãnh đạo cộng đoàn, tôi có ý thức chỗ Chúa chỉ định cho tôi không? Tôi có dành hết thời giở, sức lực và tâm hồn để lo đoàn chiên không?
2) Là Ki-tô hữu, tôi có lo cho chính mình sống thánh thiện nhờ tuân giữ các giới răn, nhất là giới răn yêu thương, và nhờ việc tham gia phục vụ cộng đoàn không?
3) Tôi đang an nhàn trong cái bình thường đã trở nên tầm thường, trì trệ của đời sống mục vụ tông đồ hay tôi luôn nỗ lực vượt lên để đời sống thiêng liêng và phục vụ tông đồ của tôi ngày một tăng trưởng?
4) Tôi có khiêm tốn sẵn sàng đón nhận những góp ý xây dựng của người khác không?
5) Tôi có cảm quan nhạy bén, sâu xa, mạnh mẽ mình là người của Giáo Hội, của linh mục đoàn giáo phận và của Đức Ki-tô chưa? Nếu chưa, thì tại sao và tôi cần làm gì?
BÀI CUỐI: MẦU NHIỆM GIÁO HỘI TRONG ĐỜI SỐNG VÀ TÁC VỤ LINH MỤC
"Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến.
"Vàng bạc hay quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham. Chính anh em biết rõ : những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận."
Nói thế rồi, ông Phao-lô cùng với tất cả các anh em quỳ gối xuống cầu nguyện. Ai nấy oà lên khóc và ôm cổ ông mà hôn. Họ đau đớn nhất vì lời ông vừa nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu.” (Cv 20, 32-36)
Chúng ta cùng suy gẫm những lời cuối cùng của thánh Phao-lô để kết thúc tuần tĩnh tâm.
I) “Tôi xin phó thác anh em cho Chúa”
Theo thói quen, khi kết thúc tuần tĩnh tâm, vị giảng phòng thường đưa ra những lời khuyên và đề nghị những “quyết tâm”. Việc này có thực sự là cần thiết và quan trọng không? Trước hết, chúng ta phải xác tín rằng mỗi người phải dựa vào những gì đã nảy sinh từ sâu thẳm trong ý thức và trong tâm hồn cầu nguyện của mình. Hơn nữa, thánh Phaolô nói rất rõ: tôi xin phó thác anh em cho Chúa. Những lời này nhắc lại lời Chúa Giêsu thưa với Cha Ngài trên thập giá: Lạy Cha, con phó dâng linh hồn con trong tay Cha (Tv 31, c. 6). Chúa Giêsu phó dâng mạng sống mình trong tay Chúa Cha. Đó cũng là phản ứng của thánh Phaolô mỗi khi ngài rời bỏ một cộng đoàn. Ví dụ chương 14 sách Công vụ tông đồ nói đến thái độ của Phaolô lúc ngài sắp trảy đi Pamphylia, sau khi đã an ủi và khích lệ các môn đệ ở Lystra, Icônia và An-ti-ô-ki-a: Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay, cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin (c. 23). Nhờ đó, thánh Phaolô tự giải thoát khỏi lo âu, mà chính chúng ta đôi khi cũng cảm thấy, về những người chúng ta đã yêu mến và giúp đỡ. Thường chúng ta có nguy cơ cản trở họ, trong khi họ cần đi theo con đường riêng của chính họ và hoàn toàn tự do hành động.
Giáo Hội thời hậu-tông-đồ khai sinh lúc mà các Tông Đồ can đảm tách ra, tin tưởng phó thác cho những người kế nhiệm. Không thể có mục vụ ki-tô giáo đích thực mà không đề cao tự do. Một linh mục được bổ nhiệm một chức vụ mới không thể nói rằng giáo dân trước đây được trao cho ngài không thể “tự giải thoát được” nếu họ không gọi phôn, không viết thư hoặc không đến thăm ngài. Tự tách ra không phải là dửng dưng, nhưng là một diễn tả của đức tin: tôi xin phó thác anh em cho Chúa vì từ nay Chúa sẽ dẫn dắt anh em. Điều đó tốt hơn là tôi làm hoặc có thể sẽ làm cho anh em. Đó là đức tin trong tình phụ tử tông đồ đích thực. Còn chúng ta, chúng ta thường muốn níu kéo những người đã được Chúa trao cho chúng ta trước đây với ý muốn tốt lành: họ vẫn cần tôi nâng đỡ. Nhưng chúng ta hãy tự hỏi: họ cần tôi thực sự hay tôi vẫn muốn duy trì ảnh hưởng, địa vị của tôi trong lòng họ?
II) “… Và cho lời ân sủng của Người”
Lời thánh Phaolô nói thêm có một ý nghĩa rõ ràng. Ngài không trao phó lời ân sủng cho các kỳ mục, ngược lại, ngài trao các ông cho lời ân sủng. Điều đó có ý nghĩa gì? Câu trên nhắc lại câu thánh Tông đồ nói trong Công vụ tông đồ: “Tin Mừng về ân sủng” mà ngài là người làm chứng (20, 24). Đó cũng là lời đầu tiên Chúa Giêsu công bố khi Người loan báo Giao Ước Mới: Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe” Và mọi người đều tán thành lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người (Lc 4, 21-22). Đó là công bố lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi: dù tôi thế nào đi nữa, Thiên Chúa vẫn đứng bên tôi, Người bênh vực tôi ngay ở đây và lúc này. Lời được hoàn thành bởi vì lời có quyền năng cứu độ hữu hiệu cho bất cứ ai tin. Lời đã là lời hứa đang được thực hiện.
Chúng ta có thể nói rằng thánh Phaolô trả lời trực tiếp cho câu hỏi canh cánh trong lòng các kỳ mục Ê-phê-sô là họ có thể tiến bộ khi thánh Tông Đồ vắng mặt không, hay làm thế nào họ có thể chống lại những “loài sói dữ” và làm thế nào họ đạt tới việc truyền bá lời ân sủng mà họ mới chỉ hiểu được phần nào. Lời không được trao phó cho các kỳ mục; Lời tác động nơi họ để làm cho họ trở nên những thừa tác viên của Tân Ước, những tôi tớ của Thánh Thần, Đấng làm cho sống, chứ không phải là chữ viết chết. Sức mạnh đó đến từ Thiên Chúa, dù chúng ta nhận nó trong những bình sành (xem 2 Cr 4, 7). Lời ân sủng mang chúng ta đi, giải phóng chúng ta và đổ đầy lòng chúng ta. Lời đó ở trong chúng ta, chỉ cần chúng ta chuẩn bị chỗ cho nó, đón nhận nó trong tâm trí và trong lòng ta. Lời ân sủng hứa với chúng ta rằng Chúa là Đấng Thương Xót đối với các linh mục chúng ta.
Lời Chúa là thế đó. Nó không phải là một loại mặc khải huyền bí, nhưng là một ân ban hữu hiệu có sức biến đổi và giúp chúng ta hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi. Hãy phó thác chúng ta cho lời ân sủng và hãy chắc chắn rằng không bao giờ bất trung với lời đó. Đó là thái độ chính yếu và thường xuyên của chúng ta. Đó là con tim của sự hoán cải nền tảng và đạo đức của chúng ta. Sức mạnh của ân sủng ở cạnh tôi, nâng đỡ tôi dù tôi tội lỗi, yếu đuối và mỏng dòn.
III) Quyền năng của ân sủng
Để các kỳ mục đừng hồ nghi về lời ân sủng, thánh Phaolô giải thích rằng: "Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến”. Ở đây, chúng ta lưu ý đến mối quan tâm chính yếu của linh mục là gì? Là làm thế nào để xây dựng cộng đoàn. Chúng ta sẽ xây dựng cộng đoàn một cách đích thực hay chỉ xây dựng bằng tranh, bằng gỗ, bằng đá rời rạc sẽ sập ngay trong cơn địa chấn đầu tiên của trận động đất là những khó khăn, thử thách, bách hại? Thánh Tông Đồ nhắc nhở rằng Lời có quyền năng xây dựng một cộng đoàn, cộng đoàn đó là khởi đầu phần gia tài của những người được cứu, là sự bảo đảm đời sống vĩnh cửu và là sự thực hiện những lời hứa về những của cải thời Thiên Sai.
Lời kết thư gởi tín hữu Rôma có thể cung cấp cho tuần tĩnh tâm của chúng ta một kết luận phong phú: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giêsu Kitô. A-men.” (Rm 16, 25-27).
Sau khi đã suy tư và chiêm niệm, chúng ta thường sợ quên đi những gì Chúa giúp chúng ta hiểu và lại đắm chìm vào thói quen hàng ngày. Nhưng sức mạnh của Thiên Chúa, Đấng khơi gợi trong những ngày này sẽ tiếp tục nâng đỡ chúng ta. Sự dấn thân trung thành của chúng ta không cần phải được lên chương trình; chúng ta lãnh nhận nó từ chính Thiên Chúa trong hi vọng, ân sủng và lòng thương xót. Người kitô hữu được khích lệ bởi đức tin và hi vọng. Đức tin và hi vọng chuẩn bị cho họ hiến dâng trọn vẹn chính mình.
IV) Khó nghèo phúc âm của linh mục
1) Kế đó, thánh Phaolô nói lại những đề tài đã đề cập trước đây, bởi vì đó là những đề tài rất quan trọng đối với ngài. Đây là một loại tự thú, như mọi người vẫn làm trong các chúc thư, chúng ta thấy điều đó ngay từ lúc đầu: tiền bạc, hay quần áo, tôi không lấy của ai (c. 33). Đây quả là một lời cam kết không dính bén. Có nghĩa là, trong sứ vụ của mình, thánh Phaolô không tìm kiếm gì cho mình dù là vật chất hay tinh thần. Ngài thực hành sự khó nghèo phúc âm trong sứ mạng mục vụ. Đây không phải là tìm kiếm thực hành khổ chế nghiêm ngặt, vì chính đời sống linh mục đã bao gồm nhiều cực nhọc, đúng hơn, đây là không cho phép mình được dính bén với bất cứ cái gì.
Ví dụ, chúng ta đều biết, sự không dính bén của cải vật chất thì dễ dàng lúc đầu, nhờ nhiệt tình và niềm vui của bước khởi đầu đáp trả lời mời gọi. Nhưng năm tháng qua đi, xuất hiện những khả năng ưu tiên trực tiếp hay gián tiếp làm cho chúng ta giữ tiền bạc đôi khi quá mức mà ta cần, do nhu cầu ngay lập tức hoặc tương lai. Tuy nhiên, chính khi nguy cơ niềm hi vọng, sự không dính bén và tin tưởng suy yếu, chính khi xuất hiện sự mệt mỏi và sợ hãi bệnh tật, chính lúc ấy, sự siêu thoát trở nên cần thiết và đòi can đảm hơn, đồng thời trở nên sự thi hành nhân đức thực sự. Cám ơn Chúa vì những mẫu gương tuyệt vời và anh hùng về sự từ bỏ. Hãy nghĩ tới biết bao linh mục sống đàng hoàng, nhưng không bao giờ thu tích của cải cho mình hay cho người khác. Gương mẫu về đời sống theo Tin Mừng đó, giáo dân nhận ra ngay ý nghĩa của nó; họ hiểu rằng tính khả tín của linh mục, của giám mục, của người tông đồ nằm ở đó. Vả lại, sự từ bỏ thiêng liêng thuộc về con tim. Như thánh Phaolô gợi ý, sự từ bỏ đó là của một người“nô lệ” cho Chúa, của một người bị xiềng xích và chịu đựng nhiều nỗi gian truân. Chắc chắn, ở đây, chúng ta không nói tới tình yêu thực sự dành cho những người đã được Đức Kitô trao phó cho chúng ta. Đúng hơn, chúng ta nghĩ tới libido dominandi thiêng liêng (khát mong thống trị thiêng liêng) mà chúng ta phải cẩn thận canh chừng. Thống trị thiêng liêng làm chúng ta gắn bó với người khác để bù trừ sự thiếu thốn tình cảm hoặc một thiếu thốn nào đó. Khởi đầu, chúng ta có thể dễ dàng sửa thái độ đó. Nhưng một khi đã đâm rễ sâu vào tâm hồn và được biểu lộ khéo léo, nó xúc phạm trầm trọng đến người khác và hình ảnh linh mục. Thực vậy, lúc đó, chúng ta sẽ tìm cách thống trị người khác, và cuối cùng, tìm thoả mãn nhu cầu cá nhân, phục vụ chính mình.
2) Những lời sau đây của thánh Tông đồ cũng quan trọng không kém: Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp (c. 34). Cộng đoàn Ê-phê-sô còn non trẻ; có nhiều vấn đề và vẫn luôn hoài nghi. Vì thế, thánh Phaolô không muốn bắt ngân sách vừa lập được phải chịu chi phí; và ngài đã tìm cách tự lo cho mình bằng cách làm việc, dù điều đó có làm cho ngài mệt mỏi thêm. Chúng ta có thể thấy điều này nơi một vài linh mục và cần đánh giá từng trường hợp một, với tiêu chuẩn là ích lợi của sứ vụ và cộng đoàn. Dù sao, các cộng đoàn cũng có bổn phận phải lo đời sống vật chất cho các linh mục. Thánh Phaolô nói trong 1 Cr 9, 14: Ai rao giảng Tin Mừng phải có thể sống bằng Tin Mừng. Nhưng chúng ta phải luôn quan tâm đến việc này, đó là báo cáo cho cộng đoàn của cải mà họ dâng tặng. Làm được như vậy, chúng ta sẽ thi hành sứ vụ trong tự do, khi sống nghèo khó như thánh Phaolô đã làm gương.
3) Rồi thánh Phaolô mở rộng tầm nhìn khi nói thêm: Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế (c. 35 a). Một số nhà chú giải nghĩ rằng “người đau yếu” là những người nghèo. Thánh Phaolô dệt lều không những để sống mà còn để giúp người nghèo trong cộng đoàn. Một số nhà chú giải khác thì nghĩ rằng đây là “những người non yếu trong đức tin”. Trong Giáo Hội Ê-phê-sô có những người trước đây thường lui tới các đền thờ ngoại giáo, ở đó, các sư sãi buôn thần bán thánh. Thánh Phaolô muốn làm việc kiếm sống để chứng tỏ rằng nhiệt tình rao giảng của ngài không đem lại cho ngài một đồng bạc nào. Dù thế nào đi nữa, câu nói của ngài vẫn tuyệt vời. Nó diễn dịch sự không dính bén mà chúng ta vừa đề cập đến và gợi lại lời Chúa Giêsu: cho thì có phúc hơn là nhận (c. 35b).
V) Mối phúc của sự cho đi nhưng không
Câu 35b là một trong những viên ngọc quí của Kinh Thánh: đó là mối phúc của sự cho đi nhưng không. Theo nghĩa đen, câu này có tính cách khơi gợi hơn là những mối phúc khác. Nó không có hình thức ngữ pháp so sánh: phúc cho những ai nghèo khó, … phúc cho những ai hiền lành, … Cho thì có phúc hơn là nhận. Điều khẳng định này làm đảo lộn trật tự quen thuộc của lòng tham nơi con người. Ai cảm nhận sâu xa Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa mới có thể hiểu được những người sống theo lời dạy của mối phúc này. Nếu, Thiên Chúa hiến dâng chính mình, thì thụ tạo được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa sẽ diễn tả hình ảnh đó bằng cách cho đi hơn là nhận lãnh. Diễn từ Mi-lê-tô đạt đến cách diễn tả cao nhất là như vậy.
VI) Ngài cầu nguyện với họ
Nói thế rồi, ông Phao-lô cùng với tất cả các anh em quỳ gối xuống cầu nguyện (c. 36). Chúng ta không biết nội dung của lời cầu nguyện này. Có thể thánh Tông Đồ đã cử hành thánh lễ với các kỳ mục như ngài đã làm trước đó ít lâu ở Troa. Trong trường hợp này, đó sẽ là lời cầu nguyện tạ ơn Chúa Cha. Cũng có thể thánh Tông Đồ cầu xin cho các kỳ mục phục vụ với hết lòng khiêm tốn, xin cho họ can đảm chịu đựng thử thách và gian truân, để lớn lên trong đức tin và hi vọng. Có lẽ thánh Phao-lô cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin cho họ đừng trốn tránh bổn phận rao giảng và giáo huấn các tín hữu, trong riêng tư cũng như cách công khai. Xin hãy làm cho họ biết giúp người khác hoán cải và củng cố đức tin của các tín hữu vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Xin hãy giúp họ đừng dừng bước giữa đường, nhưng tiến đi đến cùng, khi hoàn tất việc phục vụ mà Ngài đã trao phó cho họ. Xin hãy giúp họ làm chứng cho sứ điệp ân sủng của Thiên Chúa”.
Để kết luận, mỗi người chúng ta hãy dâng lên Chúa lời cầu nguyện dựa trên những gì đã suy niệm.
VII) Mầu nhiệm giáo hội
Chúng ta cùng chiêm niệm cảnh tượng những Kỳ lão Ê-phê-sô oà khóc, ôm lấy cổ ông mà hôn rồi đưa ông xuống tận con tàu: “Ai nấy oà lên khóc và ôm cổ ông mà hôn. Họ đau đớn nhất vì lời ông vừa nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu” (c. 37-38). Đây là hình ảnh rực rỡ của Giáo Hội đang hình thành. Để kết luận, xin trích đoạn cuối trong thông điệp Redemptor hominis của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II:
“Khi tham dự vào toàn bộ sự phong phú của mầu nhiệm Cứu chuộc, Giáo Hội trở nên một Giáo Hội của những con người sống động, sống động bởi vì được sức sống bên trong nhờ hoạt động của Thánh Thần chân lý, bởi vì được viếng thăm bởi tình yêu Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào tâm hồn chúng ta. Mục đích của toàn bộ việc phục vụ trong Giáo Hội, dù là tông đồ, mục vụ, linh mục, giám mục, đều để duy trì tương quan sống động của mầu nhiệm Cứu chuộc với tất cả mọi người.
Nếu ý thức về bổn phận này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn Giáo Hội là mẹ theo nghĩa nào, và cũng hiểu rõ hơn, nhất là vào thời đại chúng ta, Giáo Hội đã luôn cần một người Mẹ theo nghĩa nào […] Thực sự, nếu trong thời kỳ khó khăn và chính yếu này của lịch sử Giáo Hội và nhân loại, chúng ta cảm thấy nhu cầu đặc biệt hướng về Đức Kitô, là Chúa của Giáo Hội và của lịch sử nhân loại dựa vào mầu nhiệm Cứu chuộc, chúng ta tin rằng không ai khác có thể giới thiệu chúng ta với Ngài như Mẹ Maria làm trong chiều kích thần linh và nhân loại của mầu nhiệm này. Không ai đã được giới thiệu bởi chính Thiên Chúa như Mẹ Maria […] Đặc tính của tình yêu mẫu tử mà Mẹ Thiên Chúa tỏ lộ trong mầu nhiệm Cứu chuộc và trong đời sống Giáo Hội được diễn tả qua sự kiện là gần gũi con người và toàn bộ cuộc sống của họ. Mầu nhiệm làm Mẹ hệ tại chính ở điểm này. Giáo Hội tôn kính Mẹ với lòng thương mến và hi vọng một cách đặc biệt và Giáo Hội mong ước được thấm nhập mầu nhiệm này ngày một sâu xa hơn.
Cũng ở điểm này, Giáo Hội nhận biết con đường của đời sống hàng ngày của mình, mà mọi người góp phần xây dựng nên”[2].
Chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau. Và bởi vì con người là con đường của Giáo Hội, nhờ lời chuyển cầu của Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta, chúng ta hãy cầu xin cho linh mục chúng ta không chỉ có những quan niệm và lý tưởng tông đồ cao đẹp, mà còn biểu lộ chúng trong cách sống và cách “làm Giáo Hội”. Như vậy, chúng ta sẽ tham dự vào mầu nhiệm Giáo Hội-Mẹ.
VIII) Câu hỏi gợi ý
1) Như thánh Phaolô, chúng ta có tin tưởng và phó thác chính chúng ta và cộng đoàn giáo xứ của chúng ta cho Lời ân sủng của Thiên Chúa không?
2) Về tiền của, chúng ta có thái độ nào? Không dính bén và biết cho đi như thánh Phaolô hay càng ngày chúng ta càng tích cóp để đề phòng cho tương lai?
3) Hình ảnh các kỳ mục Ê-phê-sô òa khóc ôm hôn Phao-lô là hình ảnh một Giáo Hội yêu thương nhau, chúng ta có đang xây dựng một Giáo Hội như vậy trong giáo xứ hoặc cộng đoàn chúng ta phụ trách chưa? Nếu chưa, thì chúng ta cần phải làm gì?
Nguồn:giaophanlongxuyen.org
______
[1] Trong cuốn “Những lá thư viết từ sa mạc”, ở chương 15 “cuộc nổi loạn của những người tốt bụng”, Carlo Carretto viết: “Việc tôi chọn chỗ rốt hết trong ơn gọi thực ra không có ý nghĩa gì hết. Điều đáng nói là mỗi ngày trong đời tôi, tôi cố gắng ở lại trong chỗ rốt hết ấy”. Carlô nhắc đến “căn bệnh cho mình là nạn nhân” ví dụ, trong một gia đình, mọi gánh nặng đều đè lên vai người mẹ. Người mẹ hi sinh mọi sự cho chồng con. Nhưng quả tim người mẹ đó có thể dần dần phát triển một khối u của căn bệnh “cho mình là nạn nhân” và đến một lúc bà gào lên: “Đủ rồi! Cho đến nay tôi đã phục vụ các người như một tên đầy tớ, thế mà các người không nhận ra!... Những điều đó xảy ra trong một cộng đoàn thì cơn giông tố càng lớn mạnh hơn nhiều… Rất hiếm khi trong cuộc đời dài lâu, trong rừng rậm nơi chúng ta vật lộn, chúng ta lại không là nạn nhân của một người khác và phải hứng chịu một hành động bất lương, một cú đá, thậm chí một phát súng nữa. Lúc đó, gập người dưới sức nặng của bất công hoặc nằm dài trên giường với nỗi đau khổ của mình, chúng ta bắt đầu nếm những thú vui của nạn nhân chủ nghĩa…” Anh Carlo nhắc đến Thiên Chúa hiến dâng con của Ngài là Đức Giêsu Kitô như một lễ vật. Đức Giêsu đã không kêu gào đòi công lý. Ngài chấp nhận cái chết để thiết lập luật tha thứ, luật của lòng thương xót. Anh viết tiếp: “Phải, cần vượt xa công lý, cho cả tôi nữa. Để chiến thắng chứng hoại thư của chủ nghĩa nạn nhân… như Chúa Giêsu, tôi phải khó nhọc leo ngược lên triền dốc của đau khổ và can đảm đi xuống gặp gỡ anh em tôi…” (“Những lá thư viết từ sa mạc”, Carlo Carretto, trang 193-204). Ở đây, Carlo nói đến những bất công thực sự phải chịu. Còn trường hợp những bất công do chúng ta nghĩ hoặc tưởng tượng, hoặc phóng đại, tuy có khác, nhưng hậu quả vẫn là một.
[2] Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, Thông điệp Redemptor hominis, số 22.