BỮA ĂN GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
VÀ
BÀN TIỆC THÁNH
Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy, MSV
WHĐ -- Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Thật là ý nghĩa khi
Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể trong một bữa ăn, bởi vì trong bữa ăn người ta
không chỉ ăn cơm, ăn bánh, ăn rau ăn thịt, nhưng người ta còn chia sẻ tâm tình
với nhau. Trong bữa ăn chúng ta có một thời gian chung, một thời gian để gặp gỡ
nhau. Đây là một thời khắc thiêng liêng người ta dành cho nhau, ở bên nhau, sống
với nhau, gạt bỏ mọi lo toan, gạt bỏ mọi tính toán. Từ xa xưa trong bữa ăn gia
đình Việt Nam, chúng ta thấy cả ông bà, cha mẹ, con cháu đều quây quần bên một
cái mâm tròn, đặt giữa một chiếc chiếu vuông hay trên một chiếc phản vuông,
không phân biệt già trẻ lớn bé, các con các cháu đều ngồi quây quần bên cha mẹ,
ông bà. Cả nhà đều có chung một nồi cơm, một chén nước mắm, một tô canh, một
dĩa xào. Mọi người nhường nhịn nhau, có nhiều ăn nhiều, có ít ăn ít. Ăn chung một
nồi cơm, chấm chung một chén nước mắm, múc chung một tô canh, gắp chung một dĩa
xào. Ăn chung với nhau, cùng nhau chia sẻ đắng cay ngọt bùi, cùng nhau để
thương yêu nhau, gạt bỏ mọi ích kỷ, xa cách, tự cao tự đại. Một hình ảnh thật
tuyệt vời của hai bữa ăn: bữa ăn truyền thống gia đình Việt Nam và Bàn Tiệc
Thánh.
1. Ảnh hưởng của bữa ăn gia
đình trên đời sống con người
Đây là một chủ đề được đề cập rất nhiều trên các phương tiện truyền thông đại
chúng ngày nay. Cơ thể của chúng ta thuộc về sinh lý học, nó chỉ hoạt động bình
thường nếu được cung cấp “nhiên liệu” đầy đủ. Việc ăn uống hay bồi dưỡng cảm
xúc thay vì cảm nhận chúng có thể khiến cho quá trình ăn uống của chúng ta bị ảnh
hưởng. Đây là một lý do để giải thích cho việc sử dụng thức ăn theo kiểu tự hại
mình mỗi khi đối mặt với các cảm xúc đau buồn. Ăn uống có thể mang lại những cảm
xúc thoải mái. Tuy nhiên, một phần của sự thoải mái ấy cần phải xuất phát từ
suy nghĩ ban đầu về loại thức ăn, về việc chuẩn bị và nấu nướng, rồi sau đó là
thư giãn và hưởng thụ.
Thức ăn nhanh và quà vặt là những yếu tố phá hoại thói quen ăn uống của
chúng ta. Chúng còn gây ảnh hưởng xấu đến chuyện ăn uống, tác hại đến một trong
những nghi thức tốt đẹp nhất mà chúng ta đang có: dùng bữa cùng nhau. Mỗi người
đều có một hình thức phù hợp nhất cho mình, một công thức riêng để thành công
trong việc ăn uống. Điều quan trọng nhất là phải tìm ra công thức hợp lý nhất để
bảo đảm sức khoẻ và nhu cầu dinh dưỡng. Sự tiết chế là yếu tố trái ngược với
hành vi ăn uống vô độ và cả hai mặt này đều cho thấy mối ám ảnh liên quan đến
thức ăn.
Tuy nhiên, vẫn còn có một yếu tố khác rất quan trọng. Không chỉ những gì
chúng ta ăn mới quan trọng mà ngay cả cách thức chúng ta ăn cũng quan trọng.
Chúng ảnh hưởng đến khả năng tiêu hoá và thưởng thức món ăn của chúng ta. Ăn uống
cùng với gia đình là một nghi thức quan trọng đối với mối quan hệ gắn bó. Đứng ở
dưới bếp để chuẩn bị thức ăn, ta sẽ ngửi được mùi thơm quyến rũ quen thuộc.
Giúp đỡ bố mẹ dọn thức ăn lên bàn sẽ giúp cho không khí gia đình đầm ấm hơn,
con cái cảm thấy mình có ích và là một thành viên thực thụ của gia đình. Ngoài
ra, điều đó còn giúp giáo dục con trẻ biết cách tự chăm sóc cho mình và tham
gia thực hiện các công việc nhà.
Tôi nghĩ rằng nhiều vấn đề trong xã hội sẽ được giải quyết nếu gia đình hay
bạn bè biết dành thời gian để chuẩn bị món ăn rồi sau đó cùng nhau thưởng thức.
Nếu bạn không thể làm điều đó mỗi ngày thì ít nhất một hai lần trong tuần. Hãy
bắt tay vào việc nếu bạn có thể. Nếu biết dành đủ thời gian cùng nhau để thiết
lập thói quen này bạn sẽ thấy lợi ích của nó. Bữa ăn gia đình chính là nơi để
chúng ta học cách xử sự, các kỹ năng xã hội và tình bạn bè.
Rose Kennedy đã tận dụng bữa ăn cùng nhau để huấn luyện các thành viên
trong gia đình trở thành những chính trị gia có tầm cỡ trong thời đại chúng ta,
bằng cách viết một mẩu tin nhỏ về những điều đang được quan tâm lên bảng, yêu cầu
các con trai liếc sơ qua và thảo luận một cách thân mật ngay trong bữa ăn.
Một trong những lý do mà chúng ta học được các kỹ năng xã hội ngay trên bàn
ăn là vì khi đang ăn hay tiêu hoá thì chúng ta có thể tạm thời quên đi các cảm
xúc đang đè nặng. Kết quả là chúng ta học được phép lịch sự và cách thảo luận
sinh động quanh những chủ đề trong ngày.
Ăn tối cùng gia đình cũng là lúc mà chúng ta có thể học hỏi được cách hoà
nhập xã hội, phát triển kỹ năng và cách sống tốt một cách tự nhiên và trên hết
là sự gắn kết giữa các thành viên với nhau. Đây cũng là khoảnh khắc duy nhất
trong ngày mà cha mẹ có thể giữ được mối liên lạc với cuộc sống của con cái và
tìm hiểu xem chúng đang sống như thế nào. Ngoài ra, đây còn là thời điểm để hai
vợ chồng gần gũi với nhau sau một ngày dài xa cách. Bàn ăn chính là nơi chúng
ta học được nghệ thuật sống. Đó chính là định hướng của gia đình, là cơ hội để
có thể tiếp cận với Chúa một cách có ý thức thông qua việc cầu nguyện trước mỗi
bữa ăn[1].
2. Bữa ăn gia đình truyền thống
Việt Nam
2.1 Ý niệm “vuông tròn” theo truyền thống văn hóa Việt Nam
Triết lý chữ Hoà được thể hiện trong sự sắp xếp một mâm cơm của người Việt
Nam. Cả gia đình (ông bà, cha mẹ, con cháu) đều quây quần bên một cái mâm (hình
tròn), đặt giữa chiếc chiếu (hình vuông) hay trên một chiếc phản (hình vuông).
Hình vuông và hình tròn được coi là hai hình hoàn hảo nhất trong các hình.
Thời xưa, những đồng tiền kẽm lưu hành trong triều Nguyễn có hình dáng mang ý
nghĩa của Càn Khôn. Đồng tiền kẽm hình tròn, chính giữa có cái lỗ hình vuông, bốn
góc có bốn chữ nho nằm bên mỗi cạnh hình vuông, còn tiện để xỏ dây xâu vào cho
tiện.
Đồng tiền xưa có hình tròn, bên trong có lỗ hình vuông, có vẻ không “khớp” nhau nhưng vẫn lô-gích. Nếu đem cách nói “vuông, tròn” của người Việt mà dịch nguyên văn ra ngoại ngữ, nhất là các ngôn ngữ Tây Phương, hẳn là rất khó truyền đạt đầy đủ ý nghĩa “sâu sắc” của nó đến người nghe. Đơn giản là người Tây Phương không có chung khái niệm về văn hóa và triết lý với Việt Nam. Đối với họ, khái niệm “vuông tròn” không mang một ý nghĩa hòa hợp, thậm chí còn không thể dung nạp nhau. Về phương diện kỷ hà học, đó là những hình thể khác hẳn nhau. Nếu đặt cạnh nhau chỉ gợi ra ý tương phản, không “khớp” với nhau. Nhưng trong văn hóa Việt Nam, hình vuông và tròn đi đôi trong nhiều trường hợp, chúng gắn liền với nhau để biểu thị cho sự kết hợp thuận lẽ trời, và tạo kết quả tốt lành. Khái niệm vuông tròn dựa trên chứng cứ đầu tiên từ sự tích bánh chưng và bánh giầy.
2.1.1 Ý niệm ‘vuông tròn” theo truyền thống văn
hóa Việt Nam qua sự tích Bánh Giầy Bánh Chưng
Chuyện xưa kể rằng...
Ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý
định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu Xuân, vua họp các hoàng tử lại và bảo: “Con
nào tìm được thức ăn ngon và có ý nghĩa nhất, ta sẽ truyền ngôi cho”. Các
hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng được
ngự trên ngai vàng.
Khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương là Tiết Liêu bản tính hiền hậu,
đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Hoàng tử nghĩ rằng chẳng thà không được làm thái
tử, chứ không đành rời bỏ cha mẹ.
Không muốn rời bỏ cha mẹ, nhưng hoàng tử cũng không dám trái lời vua cha, vẫn
nghĩ tìm của ngon vật lạ để dâng tiến vua cha và hoàng hậu khi kỳ hạn tới. Và
lòng hiếu của hoàng tử đã động tới thần linh.
Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị thần đến bảo: “Này con, vật trong
Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con
nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, tượng trưng Trời và Đất. Hãy
lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng trưng Cha Mẹ sinh thành”.
Tiết Liêu tỉnh dậy và vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời thần dặn, chọn gạo
nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng trưng Đất, bỏ vào chõ chưng chín, gọi là
Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, tượng trưng Trời, gọi là Bánh Giầy.
Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng trưng cha mẹ luôn
yêu thương và đùm bọc con cái.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm. Có đủ sơn hào
hải vị, nhiều món ngon. Hoàng tử Tiết Liêu chỉ có Bánh Giầy và Bánh Chưng. Vua
Hùng lấy làm lạ nên hỏi, Tiết Liêu thuật lại chuyện thần linh báo mộng, đồng thời
giải thích cho vua cha về ý nghĩa của Bánh Giầy và Bánh Chưng. Vua cha nếm thử,
thấy bánh ngon và khen ngợi về ý nghĩa.
Vua cha rất hài lòng bảo hoàng hậu: “Các sơn hào hải vị của các hoàng tử
khác, tuy ngon nhưng duy chỉ một mình ta được hưởng, còn hai thứ Bánh Chưng và
Bánh Giầy, làm bằng gạo của Trời Đất sinh ra, ta chỉ việc phổ biến cách làm là
toàn dân đều được thưởng thức cái ngon có ý nghĩa của bánh”. Thế là vua cha
bèn truyền ngôi cho Tiết Liêu.
Tết năm đó, nhà vua dùng ngay Bánh Chưng Bánh Giầy làm đồ lễ cúng Trời Đất, và cũng truyền dạy cho nhân dân cách làm bánh để dùng trong việc cúng tế. Từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, dân chúng đều làm Bánh Chưng và Bánh Giầy để tế Trời Đất và cúng Tổ Tiên.
2.1.2 Ý niệm “vuông tròn”
còn nói lên nguồn gốc của sự sống
Theo quan niệm cổ, từ Đông sang Tây, người ta vẫn tin rằng trái đất là một
phiến phẳng hình vuông. Còn trời là một cái quả tròn rỗng như cái chuông chụp
lên cái phiến đất hình vuông, trong đó vạn vật gồm cả con người sinh sống. Theo
quan niệm đó, khi ta đi bộ hay đi thuyền, nếu cứ đi mãi, có lúc người ta sẽ tới
cùng trời cuối đất và rơi vào khoảng không vô tận. Trời đất là hai khái niệm đầu
tiên về thế giới quan. Chẳng những thế, trời đất còn mang ý nghĩa của nguồn gốc
sự sống, sinh vật. Những câu nói như “Trời Đất sinh ra ta”, “Ông Trời” vừa nhân
cách hóa hai thực thể tự nhiên vừa hàm ý giải thích nguồn cội con người. Trời
là cha, Đất là mẹ. Gặp nguy biến, lúc đau khổ người ta nghĩ đến hai đấng sinh
thành. Họ kêu lên “Trời Đất ơi!”, hoặc đôi khi cả Trời Đất lẫn cha mẹ “Trời Đất
cha mẹ ơi!” Trong vũ trụ quan của người Á Đông, khái niệm vuông tròn chính là
khái niệm về Trời Đất, về Càn Khôn, về Âm Dương. Trong kiến trúc Đông Phương,
bao giờ cũng là những đường nét pha trộn giữa Âm và Dương. Ngoài những đường thẳng
cần thiết phải có, bao giờ người ta cũng đưa những đường cong, những vòng tròn
vào, để tạo nên một tổng thể hài hòa giữa Âm và Dương. Cái mái ngói cong cong,
cái cửa sổ tròn. Trong kiến trúc Tây Phương ít khi ta gặp những đường nét tròn
như thế. Nhà cửa theo kiến trúc Tây Phương phần lớn có dạng hình hộp là vậy. Dưới
thời phong kiến, những đồng tiền kẽm lưu hành trong triều Nguyễn chẳng hạn có
hình dáng mang ý nghĩa của càn khôn như đã nói ở trên. Cái lỗ vuông là để người
ta xỏ dây xâu thành từng xâu khi cất giữ hoặc mang trong người cho tiện. Mua
bán gì thì cởi đầu dây, lấy ra từng đồng mà chi trả. Khi thiết kế mẫu tiền có
thể người ta đã gửi gắm vào hình thể đồng tiền cái ngụ ý công ơn của triều
đình, tức như cha mẹ, đối với thần dân. Quan đã là cha mẹ dân rồi, nói chi vua.
Hoàng hậu được coi là bậc mẫu nghi thiên hạ, và hai tiếng “con dân” chẳng phải
hàm cái ý đó sao? Ngoài ra, cái hình thể vuông tròn còn chứa đựng sự mong muốn
chúc tụng vương triều sẽ trường cửu như trời đất.
2.2 Bữa ăn gia đình truyền thống Việt Nam
Trong bữa ăn cả nhà đều có chung một nồi cơm, một chén nước nắm, một tô
canh lớn, một vài đĩa xào. Mọi người nhường nhịn nhau mà ăn: “ăn trông nồi, ngồi
trông hướng”, có nhiều thì ăn nhiều, có ít thì ăn ít, ăn chung một nồi cơm, chấm
chung một chén nước nắm, múc chung một tô canh, gắp chung một đĩa xào.
Mỗi khi bất ngờ có một hai người khách tới, cũng được mời ngồi vào; rồi
thêm đũa, thêm bát, mỗi người ăn bớt đi một chút là đâu vào đấy cả. Không có kiểu
chia khẩu phần riêng rẽ (ration) như người Tây Phương. Dụng cụ để và cơm, gắp
rau là đôi đũa cũng rất có ý nghĩa triết lý. Trẻ con phải học tập để “điều hoà”
hai chiếc đũa mới trưởng thành được, cách thức ăn chung như thế mới nói lên được
chữ Hoà trong việc ăn uống. Ăn uống hoà với nhau, chia sẻ ngọt bùi, cay đắng
cùng nhau để mà thương yêu nhau, gạt bỏ được thói ích kỷ, xa cách, tự cao, tự đại. [3]
Người Việt Nam ăn cơm là chủ yếu: Khát vọng vốn có tự ngàn xưa vẫn là no
cơm ấm áo. Bởi giá trị đặc biệt của nó nên hạt gạo được ví là hạt ngọc Trời ban
cho: nhờ Trời mới có cơm ăn áo mặc. Vì thế khi ăn cơm mà để hạt cơm văng vãi xuống
đất thì “tội chết” nhất là không được giẫm lên hạt cơm mà đi.
Cơm là phúc lộc Trời ban: “Trời đánh còn tránh bữa ăn”. Vì thế trong bữa
ăn, dù có bực mình, cha mẹ vẫn nhịn nhục không đánh mắng con cái. Cả nhà ăn uống
sum họp vui vẻ xong đã, sau đó muốn mắng thế nào thì mắng.
Của ăn trời ban là ban chung cho mọi người nên không dành riêng cho ai, mọi người đều được hưởng lộc Trời ban. Vì thế mà có tục lệ mời ăn cơm: trước khi ăn con cháu phải mời cha mẹ, gặp người khách đi qua cũng phải mời: “tiếng chào cao hơn mâm cỗ”. Khách có thể không báo trước, gia chủ có thể không chuẩn bị; nhưng vẫn có thể vào ngồi ăn uống vui vẻ. Giữa hàng xóm láng giềng, thiếu chút mắm muối, chút gia vị, người ta sang xin bên hàng xóm. Có bát canh ngon, có hoa quả đầu mùa, có cơm gạo mới liền đem biếu ông bà cha mẹ để tỏ lòng thảo hiếu:
3. Bàn Tiệc Thánh: bí tích
Thánh Thể, mầu nhiệm hiệp thông
Thánh Thể là bàn tiệc của Chúa, bữa tối của Chúa, tấm bánh bẻ ra, lễ bẻ bánh. Thánh Thể được cử hành dưới hình thức một bữa ăn (Mt 26,26). Thánh Thể là bí tích lễ Vượt Qua của Đức Giêsu, là một mầu nhiệm hiệp thông.
Theo não trạng thời đó, mọi bữa ăn chung là một cử chỉ xây dựng tình huynh
đệ, tạo sự hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau. Thánh Phaolô lấy cảm hứng từ
biểu tượng đó (1Cr 10,16-17) khi bàn về việc dự tiệc cúng. Nước Thiên Chúa là một
bữa tiệc tập họp chung quanh Đức Giêsu. Triều đại ngự đến nơi bản thân Đức
Giêsu khi Thiên Chúa tôn vinh Người trong cái chết. Khi dùng hình ảnh bữa tiệc
để nói về Nước Thiên Chúa, có thế nói con người ngồi vào bàn tiệc khi họ hiệp
thông với lễ Vượt Qua của Đức Giêsu. Sự hiện diện của Đức Giêsu tạo sự hiệp
thông, là bữa tiệc của Giáo Hội, trong đó Đức Giêsu vừa là phòng tiệc vừa là
lương thực.
Thánh Thể là biểu tượng hiện thực của Đức Kitô vượt qua, là nơi tập họp và
là bữa tiệc của cuộc lễ. Vì thế, Thánh Thể là sự hiệp thông.
Các hy tế xưa kia thường kết thúc bằng một bữa ăn. Nhờ hy tế, Trời và Đất nối
kết với nhau. Nhờ bữa ăn hiệp thông, phạm vi linh thánh được nới rộng đến những
người thông hiệp trong cùng một sự thánh hiến.
Nơi Đức Kitô, sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và thế giới trở thành hiện thực.
Người là Chiên Thiên Chúa, được thánh hiến từ đời đời (Ga 10,36) và thánh hiến
cách viên mãn trong cái chết và vinh quang (17,19) và trong Thần Khí của sự phục
sinh. Khi ăn chiên Vượt Qua, con người đi vào giao ước Vượt Qua, cùng với Người
trở nên cùng một của lễ được Thánh Thần thánh hóa (Rm 15,16), gặp gỡ Đức Kitô
trong cái chết và sự phục sinh của Người.
Trong Đức Kitô, hy tế và bữa ăn làm thành một phụng vụ bất khả phân. Người
vừa chịu hiến tế vừa là lương thực, là Chiên Vượt Qua của chúng ta (l Cr 5,7),
là hy tế và bữa ăn của chúng ta. Thánh Thể là bí tích của cuộc Vượt Qua của Đức
Kitô và của sự hiệp thông của chúng ta vào cuộc Vượt qua này. Giáo Hội hiệp
thông với hy tế khi cùng cử hành hy tế với Đức Kitô vì Thánh Thể là sự hiện diện
của hy tế Vượt Qua trong tính hiện thời của hy tế này. Người Kitô hữu cử hành
hy tế bằng việc hiệp thông với hy tế và chỉ có thể hưởng nhờ ơn ích của hy tế bằng
cách thông dự vào.[6]
4. Bánh và rượu trong Bàn Tiệc
Thánh đi vào cuộc sống đời thường
Bánh và rượu mang nhiều ý nghĩa hỗn hợp, cả trong cuộc sống lẫn trong bí
tích Thánh Thể.
Một mặt, bánh có lẽ là biểu tượng đầu tiên của chúng ta về lương thực, sức
khoẻ, dinh dưỡng và đời sống cộng đoàn. Xin cho chúng con lương thực hằng ngày!
Chúng ta hãy cùng nhau bẻ bánh! Bánh là hình tượng cho cuộc sống và sống chung
với nhau.
Ít có cái gì có thể nói về cuộc sống một cách tuyệt vời cho bằng hương vị
chiếc bánh mới. Mùi thơm từ chiếc bánh mới chính là hương vị cuộc sống. Tuy
nhiên, chúng ta cũng có một câu chuyện khác về chiếc bánh. Bánh được làm từ
đâu? Từ lúa mì, từ những hạt riêng lẻ, phải bị nghiền nát để trở nên bột mì, một
thứ mang đặc tính chung, sau đó phải chịu đựng sức nóng của lửa để nướng thành
thứ cho chúng ta hương vị cuộc sống. Giống như thánh Augustinô đã đề cập đến
trong một bài giảng:
“Đúng là chiếc bánh này không phải làm từ chỉ một hạt lúa mì, có phải không
các bạn? Trước khi hợp lại để làm chiếc bánh, các hạt lúa mì đứng riêng lẻ. Trước
khi hoà trộn vào nhau bằng nước, chúng được nghiền nát. Bởi vì nếu trước đó,
chúng không được nghiền nát, sau đó chúng không được làm ẩm thì chúng không
hình thành cái mà chúng ta gọi là bánh... Và sau đó, nếu không có lửa thì chúng
cũng không thành bánh được”. Bánh phải được nướng trong lò với một sức nóng dữ
dội. Lúc đó bánh nói lên được cả niềm vui và cả đau đớn.
Rượu cũng mang trong mình hai ý nghĩa như vậy: một mặt, nó là thức uống
dành cho các bữa tiệc, có lẽ nó là biểu tượng đặc trưng nhất cho những gì liên
quan đến lễ tiệc. Rượu không thể đóng vai trò như một thức uống thiết yếu, một
thực phẩm căn bản. Nó không phải là chất đạm cần thiết cho sức khoẻ, nhưng là
món ăn phụ, nói lên những gì ở bên ngoài các công việc vất vả kiếm sống và duy
trì cuộc sống. Rượu nói lên tình bằng hữu, cộng đoàn, lễ tiệc, niềm vui, tiêu
khiển, chiến thắng. Chúng ta tổ chức mọi lễ tiệc không chỉ với trọn tình yêu mà
còn với rượu.
Tuy nhiên, tương tự như bánh, rượu cũng có nghĩa khác: rượu được làm từ
đâu? Từ những quả nho riêng lẻ bị vắt ép và nước ép đỏ như máu sẽ lên men để trở
nên thức uống nồng ấm và có tính lễ tiệc. Không ngạc nhiên khi Đức Giêsu đã chọn
rượu để đại diện cho máu của Người.
Thật là hữu ích khi chúng ta sống trong tâm trạng có nhiều ý nghĩa này khi
tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Bánh và rượu được dâng lên để cầu xin Thiên Chúa
thánh hoá trở nên máu và thịt của Ngôi Hai Thiên Chúa, và một cách chính xác
bánh và rượu được dâng lên trong nhiều ý nghĩa của nó.
Một mặt, bánh và rượu đại diện cho mọi thứ trong đời sống và thế gian, đó
là: khoẻ mạnh, trẻ trung, xinh đẹp, đầy sức sống, đầy màu sắc. Chúng đại diện
cho sự tốt đẹp của thế gian này; niềm vui của thành công, lễ tiệc, hội hè, và tất
cả những gì mang trong nó nguồn ơn của Thiên Chúa khi Người tạo dựng nên địa cầu
và tuyên bố mọi sự tốt đẹp. Thánh Thể còn cho ta mùi vị của chiếc bánh mới.
Tuy nhiên đó chỉ mới một nửa ý nghĩa. Thánh Thể cũng được dâng lên trong sự
hiến dâng tất cả những gì bị nghiền ép, tan vỡ, đốt cháy vì bạo lực. Rượu, một
cách thích đáng, cũng chính là máu. Tại bàn tiệc Thánh Thể chúng ta dâng lên cả
sức khoẻ, thành công, thất bại và lỗi lầm của thế gian và cầu xin Thiên Chúa hiện
diện với chúng ta trong hiệp nhất đó. Cha Pierre Teilhard de Chardin cũng nhắc
đến điều này một lần: Trong một cách có ý nghĩa, vật chất được thánh hoá mỗi
ngày nói lên sự phát triển của thế gian trong ngày đó - bánh một cách thích hợp
tượng trưng cho những gì được tạo nên bởi thành tựu trong sản xuất, máu rượu là
những gì được tạo nên bởi mất mát trong một quá trình đầy nỗ lực, vắt kiệt sức
lực.
Những gì chúng ta thấy nơi bàn tiệc Thánh Thể: tốt đẹp, niềm vui cuộc sống
cũng như thất bại trong cuộc sống, những nỗi đau là cùng ở trong một tình trạng
căng thẳng như nhau, cái mà chúng ta cần thiết phải dâng lên hằng ngày trong cuộc
sống thường nhật của chúng ta. Chúng ta làm điều đó cách nào đây?
Bằng cách thưởng thức cuộc sống và tất cả những thú vui chính đáng, không tội
lỗi, không chê bai chúng nhân danh Thiên Chúa, chân lý và người nghèo, ngay cả
khi chúng ta đến đứng bên Thập Giá muôn đời của Đức Kitô, là nơi những người bị
gạt ra ngoài, người nghèo, người ốm đau, người khó ưa, người cô đơn, người đói,
người bị chèn ép, người mù tìm thấy nới chốn của họ.
Bánh và rượu có thể mang đến cho chúng ta rất nhiều ý nghĩa. Điều đó có
nghĩa chúng ta phải tôn kính trước vẻ đẹp thiên nhiên, nét duyên dáng của một vận
động viên, năng lượng huyền bí trong âm nhạc, sức mạnh trong bản năng tính dục,
hài hước trong vở hài kịch hay, cảm giác sôi nổi của khoẻ mạnh, hương sắc và điều
thú vị khắp nơi trong cuộc sống, ngay cả khi chúng ta nhận biết và tương trợ với
tất cả những cái bị loại ra, bị gạt bỏ bởi các năng lượng kì diệu này, những
cái mà cuối cùng rồi cũng quay về với khởi nguồn trong Thiên Chúa.
Trong tin mừng Thánh Gioan, nước biến thành rượu, rượu trở thành máu, máu
và nước đều chảy ra từ cạnh sườn Chúa Giêsu. Đó cũng là điều đã diễn ra nơi bàn
tiệc Thánh Thể và trong cuộc sống chúng ta. Nhiệm vụ chúng ta là giữ bánh và rượu
trong tay, nơi bàn tiệc Thánh Thể để chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa.[7]
5. Kết luận: Những nét văn
hóa của bữa ăn gia đình truyền thống Việt Nam, nếu biết trân trọng, sẽ chuẩn bị
chúng ta tham dự Bàn Tiệc Thánh một cách rất có ý nghĩa
Muốn sống, muốn khỏe mạnh thì phải ăn uống cho đầy đủ, thiếu ăn là suy dinh
dưỡng. Mà đặc tính của ăn là phải thường xuyên, đều đặn. Vì thế của ăn Thánh Thể
là của ăn nuôi dưỡng người Kitô hữu, là của ăn đi đường trên con đường dương thế.
Bữa ăn nào cũng có nét văn hóa của nó - văn hóa ẩm thực Việt Nam coi hạt cơm là
phúc lộc trời ban, ăn cơm là sum họp gia đình, là kính trên nhường dưới, là biểu
lộ tấm lòng thành dâng kính của lễ tinh hoa. Đó là những nét đẹp đẽ của văn hóa
trong bữa ăn sẽ giúp chung ta chuẩn bị bữa tiệc Thánh Thể một cách ý thức, trân
trọng và đậm đà bản sắc dân tộc [8] .
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN số 102 (Tháng 9 & 10 năm 2017)
[4] Lm. Luy Phạm Văn Nhượng, BỮA
TIỆC THÁNH THỂ trg. 395 trong sách Thần học về Bí Tích Thánh Thể của ĐGM Phaolô
Bùi văn Đọc và các linh mục khác.
[5] F.x. Durwell, THÁNH THỂ, BÍ TÍCH VƯỢT QUA trg 1151
trong sách Thần học về Bí Tích Thánh Thể của ĐGM Phaolô Bùi văn Đọc và các linh
mục khác
[6] F.x. Durwell, THÁNH THỂ, BÍ TÍCH VƯỢT QUA trg. 152
trong sách Thần học về Bí Tích Thánh Thể của ĐGM Phaolô Bùi văn Đọc và các linh
mục khác,
[8] Lm. Luy Phạm Văn Nhượng, BỮA TIỆC THÁNH THỂ trg. 404 trong sách Thần học về Bí Tích Thánh Thể của ĐGM Phaolô Bùi văn Đọc và các linh mục khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. F.x. Durwell, THÁNH THỂ, BÍ TÍCH VƯỢT QUA trong sách Thần Học về Bí Tích Thánh Thể của ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc và các linh mục khác
2. Lm. Luy Phạm Văn Nhượng, BỮA TIỆC THÁNH THỂ trong sách Thần Học về Bí Tích Thánh Thể của ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc và các linh mục khác
3. Ronald Rolheiser, OMI, Cô Đơn Khi Dời Nhà, Antôn & Đuốc Sáng 2009
4. Tian Dayton, Phép Màu của Lòng Khoan Dung - Biên dịch: Thế Anh, Nhà xuất bản THANH HOÁ 2009
5. Lý minh Tuấn, Triết Lý Chữ Hòa, Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG 2011
6. Thành Văn, Khái niệm “Vuông Tròn” trong văn hóa Việt. Nguồn HTTP://Phale.Vn