BÌNH TÂM – THÁI ĐỘ
CẦN CÓ TRONG CUỘC SỐNG NHIỀU KHỔ ĐAU
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.
Bình tâm là một thái độ rất căn bản và nền tảng cho đời
sống tâm linh, và thái độ này giúp ích rất nhiều cho những ai gặp khổ đau và thử
thách. Thái độ bình tâm này cũng là cung cách hành xử đúng đắn của người có niềm
tin đối với Thiên Chúa, và đối với tha nhân.[1]
Bình thường con người luôn có khuynh hướng cột chặt vào mình
tất cả những gì quý báu. Thật vậy, “chúng ta luôn luôn yêu thích nhiều thứ, và
tin tưởng vào chúng trong liên hệ đến cuộc sống thân xác, và chúng ta cũng đã nếm
thử chúng với cả thích thú lẫn đắng cay. Những thứ đó đã được chôn kỹ trong
tình yêu và trong sự sợ hãi của chúng ta đối với chúng. Chúng ta cần có can đảm
cho một cuộc xuất hành nội tâm mới, để hoá giải sức mạnh lôi cuốn của nhiều thứ,
và giải thoải chúng ta khỏi những nguy hiểm đến từ sự lệ thuộc hay tình trạng
nô lệ”.[2]
Không chỉ cột chặt mình vào những gì quý báu, trong vô thức
hay ý thức con người cũng có khuynh hướng giữ mãi những khổ đau, đặc biệt những
hận thù trong lòng. Người ta vẫn nói đến thái độ nuôi hận thù. Nuôi
hay giữ lại và cột chặt những điều tiêu cực ấy vào mình, thì con người tự mình
đánh mất sự tự do nội tâm. Khi con người không có tự do thật sự trong lòng, thì
khả năng đón nhận những gì cao quý sẽ bị giảm đi, và đôi khi khả năng đó bị tê
liệt. Thay vào đó, con người sống trong lệ thuộc, trong thụ động, trong sợ hãi
đến nỗi luôn luôn ôm chặt những gì mình đang có, và nói khác đi họ tự nhốt mình
trong ốc đảo riêng với nhiều điều tiêu cực.
Chỉ khi nào con người gặp gỡ Thiên Chúa, và can đảm trao cho
Ngài tất cả, thì con người mới gìn giữ được tự do nội tâm. Với một hình ảnh
khác, chỉ khi nào con người thực sự muốn và được rơi vào bàn tay của Thiên
Chúa, thì con người sẽ tìm lại được sự tự do nội tâm, và với sự tự do này họ có
thể gặp gỡ Thiên Chúa và mọi người cách đích thật. Thái độ bình tâm cũng được đề
cập trong Thánh Kinh, như trong lời Thánh Vịnh sau:
Lời Thánh Vịnh này là lời cầu nguyện đơn sơ của tâm hồn có
lòng trông cậy và có thái độ bình tâm sâu thẳm. Sự bình tâm trong sự thinh lặng
và thanh bình của người có niềm tin đang khiêm tốn đứng trước tôn nhan Thiên
Chúa. Thật vậy, trước sau như một, không có bất cứ thế lực và sự dữ nào có thể
lấy mất sự thanh bình và thinh lặng của người bình tâm, của người khiêm tốn và
tin tưởng phó thác hoàn toàn vào Chúa.
Lời cầu nguyện của Thánh Vịnh cũng diễn tả một thái độ khiêm
tốn, một sự tinh ròng của niềm tin tưởng mạnh mẽ. Với sự khiêm tốn, người cầu
nguyện ý thức mình không có thể hiểu thấu được Thiên Chúa và đường lối của
Ngài, nên niềm tin và Lời của Chúa là đủ cho họ. Sự tin tưởng được diễn tả qua
hình ảnh của đứa con thơ trong vòng tay của mẹ. Bỏ tất cả mọi sự, không màng đến
những an ủi trần gian, tháo cởi tất cả mọi thứ thuộc về trần gian với vui buồn,
yếu khoẻ, giàu nghèo, giỏi dốt, và chỉ cần được ấp ủ trong vòng tay Thiên Chúa,
người có niềm tin tìm thấy sự thanh bình, yên tĩnh, hạnh phúc, và đặc biệt được
kết hiệp với Thiên Chúa.
Ngoài ra, Thánh Phao-lô nhắc nhớ: “Thưa anh em, tôi xin
nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có
vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng,
như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng
của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến
đi” (1Cr 7,29-32).
Thánh Phao-lô nhắc nhớ các tín hữu ở Cô-tin-tô về ngày Quang
Lâm của Chúa Giê-su đã rút ngắn thời gian, nói theo nghĩa bóng: chúng ta không
còn có thể sống an nhàn trong thế giới hiện tại như trước kia, khi chúng ta
không thấy xa hơn. Giờ đây, chúng ta hoàn toàn hướng về cái đang đến. Tín hữu sống
trong hiện tại với mọi thực tế của nó, cả niềm vui lẫn nỗi buồn, cả hạnh phúc lẫn
khổ đau, cả giàu sang lẫn nghèo nàn, và cả mạnh khoẻ lẫn yếu đau. Tất cả mọi thứ
đó không phải là đích đến, không được là những điều tín hữu tha thiết và cột chặt
vào mình, mà điều tha thiết nhất đối với tín hữu là cái đến sau khi bộ mặt thế
giới này qua đi. Một hình ảnh của bộ mặt thế giới này qua đi được nhận ra rõ
ràng qua sự chết của con người. Khi đối diện với sự chết, tất cả mọi sự trên trần
gian đều chẳng còn có giá trị gì, lúc đó tín hữu chỉ còn xin được phó thác mọi
sự trong bàn tay Thiên Chúa. “Cuối cùng, trong cái chết mọi sự đều tan biến.
Lúc đó, chúng ta không còn có gì cả. Chúng ta chỉ biết kiên nhẫn để đứng vững
và nói với Chúa rằng: Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con”.[3]
Phó thác trong tay Chúa là chú ý tới cái đến sau sự chết. Đó
là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa, Đấng là Đường là Sự Thật và
là Sự Sống, Đấng là khởi nguyên và là cùng đích. Vì thế, tín hữu không cột chặt
đời mình vào những điều thuộc về thế gian, mà một lòng hướng về Thiên Chúa, hướng
về Đức Kitô. Tín hữu cần là người tự do, không bị bất cứ điều gì của trần gian
chiếm đoạt, mà họ cần được chiếm hữu bởi Chúa Kitô, như chính Thánh Phao-lô,
ngài đã được Chúa Kitô chiếm hữu.
Thái độ bình tâm này cũng được một số nhà thần bí người Đức
đề cập tới, như Meister Eckhart, Johannes Tauler và Heinrich Seuse. Thánh Gioan
Thánh Giá và Thánh I-nhã Thành Loyola cũng đề cập tới.
Thánh I-nhã viết trong sách Linh Thao số 23: “Do đó,
cần phải giữ cho mình được bình tâm đối với mọi thọ tạo trong tất cả những gì nằm
trong sự tự do của ta và không bị cấm, đến nỗi chúng ta không ước muốn sức khỏe
hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết
yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì
dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả”.
Bình tâm với mọi tạo vật và sống trong ý thức không ước muốn
bất cứ điều gì cho bản thân mình. Đó là thái độ thoát ra khỏi con người mình,
khỏi cái tôi ích kỷ của mình, để sống với tự do nội tâm đích thật. “Ai thật sự
tự do trong ý nghĩa này, thì sẽ không đặt những dấu chân đi tìm mình, và không
bị giam hãm vào trong ngục tù của cái tôi. Chỉ có ai tự do thật, mới có thể hỏi
xem, điều gì trong những khả năng của tôi sẽ thực hiện điều tốt hơn. Chỉ có người
tự do mới có nhiều khoảng cách với chính bản thân, đến nỗi người đó không quyết
định theo cảm giác nhất thời hay những tư tưởng nhất thời, mà quyết định theo
những giá trị và chuẩn mực quan trọng”.[4]
Ngoài ra, với thái độ bình tâm người ta không chỉ được tự do
hoàn toàn, mà họ còn tin tưởng cậy trông vào Chúa, và một lòng một dạ tuân theo
thánh ý của Ngài mà thôi. Chính Ngài là nền tảng và nguyên lý của đời sống
chúng ta. Tin tưởng như vậy, thì sự sầu khổ sẽ được thánh hóa và có thể trở
thành lời chúc phúc cho chúng ta, chứ không trở thành sức mạnh tiêu diệt chúng
ta.
Ở đây, chúng ta đọc một chút tâm tình chia sẻ của Karl
Rahner: “Cuối cùng, tất cả những gì chúng ta gặp phải đều có thể trở
nên phúc lành hay là tai họa. Như vậy, điều lúc đầu tưởng như rất khó khăn, tối
tăm và cay đắng, đều có thể trở thành phúc lành lớn cho chúng ta, nếu chúng ta
vượt qua nó một cách tốt đẹp. Nghĩa là trong niềm tin tưởng hoàn toàn vào Chúa
và trong sự bình tâm cùng kiên nhẫn, chúng ta đón nhận điều đó. Cuối cùng, bóng
đêm và mọi sự khó hiểu đều có thể trở nên phúc lành. Nếu như vậy, thì chúng ta
có thể nói rằng, tất cả mọi điều chúng ta gặp phải đều là phúc lành, dù cho đó
là sức khỏe hay bệnh tật, giàu sang hay nghèo khổ, danh vọng hay nhục nhã, sống
lâu hay chết yểu. Tất cả đều có thể trở thành phúc lành. Tuy nhiên, trong lời cầu
xin của mình, chúng ta vẫn được phép cầu nguyện theo ý của mình: ‘Xin hãy
làm cho con được mạnh khỏe và chúc lành cho con được như vậy…’
Dù vậy, lời cầu nguyện sẽ chân thật, nếu chúng ta dù ở trong
sự khác biệt của đời sống thực tế này, nhưng vẫn ý thức, vẫn tin tưởng và vẫn sẵn
sàng đón nhận một tâm tình sống, là tất cả mọi sự, điều này hay điều nọ đều có
thể trao ban cho chúng ta lời chúc phúc. Sự thanh thản cũng như nặng nề, tất cả
đều có thể là lời chúc phúc hay đều có thể trở nên phúc lành. Và ở bất cứ nơi
đâu mà chúng ta cầu xin ơn chúc phúc của Thiên Chúa, ngay cả trong lời cầu xin
về một điều nhất định nào đó, thì chúng ta đang kêu cầu Chúa ban cho chúng ta
ánh sáng và sức mạnh, để đón nhận tất cả mọi sự đến với chúng ta như là sự chúc
phúc của Thiên Chúa, và để chúng ta có thể thánh hóa chúng trở thành phúc lành,
dù điều đó có bất ngờ xảy đến, hay điều đó có nặng nề đến mấy”.[5]
Để kết, chúng ta cùng để lời Thánh Vịnh dưới đây vang vọng
trong tâm hồn, như là lời cầu nguyện với Chúa, lời tự nhắc nhở bản thân đi tìm
Chúa và luôn ý thức ở trong Chúa, Đấng là nguồn mạch của bình tâm, tự do và hạnh
phúc.
(Trích từ Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ. PHÚC THAY.
Suy niệm Tám Mối Phúc Thật. Phần “Phúc thay ai sầu khổ, thì sẽ được Thiên Chúa ủi
an”. NXB. Tôn Giáo 2015).
Nguồn: dongten.net
(12.05.2023)
[1] Tham khảo
trong Lexikon fuer Theologie und
Kirche, KASPER Walter und andere (Hrg.), 4.Band, Herder
Verlag, Freiburg 1995, c.403-404.
[5] RAHNER
K., Praxis des Glaubens,
geistliches Lesebuch, Hrg. Von Karl Lehmann und Albert Rafelt,
Benziger und Herder Verlag, Zürich und Freiburg 1982, t.405-406.