BÍ TÍCH THÁNH THỂ VÀ ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU
Lm.
Giuse Nguyễn Công Đoan, S.J.
Nhớ và cột mốc giúp trí nhớ
Trong đời sống con người, trí nhớ là yếu tố quan trọng để có thể phát
triển bản thân và quan hệ xã hội, để tạo nên mọi tiến bộ khoa học và kỹ thuật.
Bộ nhớ điện tử ngày nay đã trở nên thiết yếu trong đời sống, nó giúp ích
rất nhiều cho khoa học, giao thông, liên lạc. Người ta đang chạy đua tạo những
bộ nhớ siêu mạnh.
Con người sống trong thời gian và không gian, với bộ nhớ có giới hạn và
tới tuổi nào đó bắt đầu quên, thâm chí mất trí nhớ. Vì thế con người luôn cần đến
những “cột mốc” trong không gian và thời gian để “giúp trí nhớ”, hầu phát triển
bản thân và xã hội.
Tôi sẽ lần lượt gợi vấn đề từ kinh nghiệm làm người, rồi kinh nghiệm của
dân Chúa trong Cựu Ước với rất nhiều cột mốc trong thời gian và không gian để
nhắc nhớ căn tính và mời gọi sống theo căn tình của mình: Bí Tích Thánh Thể
1. “Quê hương nếu
ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”.
Bài hát rất thân thương “Quê hương là chùm khế ngọt…” kết thúc với
một lời thật sâu sắc: “Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành
người”. Những kỷ niệm về thời thơ ấu với những cột mốc nho nhỏ thân thương
ngọt ngào như chùm khế ngọt, êm đềm như tiếng con đò nhỏ khua nước bên sông,
thơ ngây như rượt bướm vàng bay, trên đường từ mái trường làng về mái tranh ấm
áp thân yêu, với hình ảnh mẹ hiền về trên cầu nhỏ, nón lá nghiêng che. Những cột
mốc còn mãi đó để gợi nhớ những kỷ niệm thân thương thời thơ ấu, tạo nên tâm
tính hiền hòa của người Việt Nam ở đồng bằng sông Cửu Long.
Cá nhân, gia đình nào cũng có những ngày kỷ niệm, từ sinh nhật đến ngày
giỗ, ngày cưới, ngày xây nhà, ngày thi đỗ…
Lễ của tập thể, cộng đồng thì có hội; lễ nào cũng có lạc kèm theo.
Dân tộc nào cũng cần những huyền thoại để nhớ cội nguồn xa xưa, bản sắc
dân tộc. Huyền thoại không phải là chuyện bịa đặt, nhưng là một hình thức văn
chương có vẻ đơn sơ nhưng thật sự rất súc tích để thâu tóm cả một dòng lịch sử
lâu dài trong sự hình thành và phát triển của dân tộc. Chúng ta có huyền thoại
mẹ Âu Cơ và Lạc Long Quân để nói về nguồn gốc cao đẹp của dân tộc, có huyền thoại
Vua Hùng dựng nước, huyền thoại thánh Gióng… để nói lên ý chí quật cường bất
khuất của dân tộc và giải thích tại sao chúng ta có thể đánh đuổi bao nhiêu đạo
quân xâm lược ra khỏi quê cha đất tổ. Chúng ta có Đền Hùng, có ngày giỗ tổ Hùng
Vương, có Chi Lăng, có sông Bạch Đằng như những cột mốc thời gian và không gian
để không quên nguồn gốc và bản sắc hào hùng của dân tộc, và nhắc dân ta sống xứng
đáng với Mẹ Âu Cơ, với công dựng nước của vua Hùng, với ý chí quật cường chống
mọi kẻ thù xâm lược , bảo vệ đất nước, quê hương và nòi giống Con Rồng Cháu
Tiên, mấy ngàn năm không để cho bất cứ kẻ xâm lược nào đồng hóa.
2. Cột mốc không gian và thời gian trong Cựu Ước.
Thiên Chúa tạo nên
con người để sống và vươn lên trong tương quan với Ngài, trong thời gian và
không gian. Vì thế trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa cũng tỏ mình ra cho con người
bằng nhiều thể nhiều cách, từ chính công trình tạo dựng đến những giao ước, để
dạy con người vươn lên trên cái thế giới vật chất “phù du” mà Ngài đã tạo lập
như cái nôi, trước khi cho con người xuất hiện trên địa cầu.
Con người bé nhỏ, mỏng giòn nhưng là đỉnh cao của mọi loài thọ tạo, vì
chỉ con người mới có thể sống tương quan liên vị với Thiên Chúa, có thể “nghe”,
“nhìn”, nhận biết, yêu mến và đối thoại với Thiên Chúa, đón nhận và đáp lại
tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người lớn lên vừa như cá nhân, vừa
như cộng đồng, nên Thiên Chúa lập Giao Ước, với những cột mốc ghi
nhớ trong không gian: vật thể và nơi chốn – và trong thời gian: các ngày lễ hội,
để giúp mỗi người và toàn dân của Giao Ước nhớ mình là ai và phải sống thế nào.
Sách Thánh kể cho chúng ta giao ước của Thiên Chúa với
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, ba ông tổ của dân Ít-ra-en. Áp-ra-ham được Thiên
Chúa gọi ra khỏi nhà cha mẹ, khỏi quê cha đất tổ để đến một miền đất mới do
chính Thiên Chúa chọn cho ông và trở thành thủy tổ của một dân được Thiên Chúa
nhận làm dân riêng của Thiên Chúa, được biết và thờ phượng Thiên
Chúa. Áp-ra-ham đáp lời Thiên Chúa, ra đi mà không biết mình đi đâu, chờ Thiên
Chúa dẫn đi từng bước như lời Ngài hứa. Khi tới Si-khem, đến cây sồi Mô-rê ở đất
Ca-na-an thì Thiên Chúa xác nhận: “Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi”.
“Tại đây ông đã lập một bàn thờ để kính Đức Chúa, Đấng đã hiện ra với ông”
(St 12, 1-9; Hr 11, 8). Đó là cột mốc đầu tiên ông
Áp-ra-ham dựng tại miền Đất Hứa.
Bấy nhiêu đã đủ cho ông trở thành “tổ phụ của những kẻ có lòng tin
vào Thiên Chúa” (Rm 4, 11). Nhưng ông còn phải lưu lạc và trải qua nhiều thử
thách nữa. Thử thách cuối cùng là Thiên Chúa truyền cho ông đem đứa con một yêu
dấu là I-xa-ác tới “ngọn núi Thiên Chúa sẽ chỉ cho” và dâng con làm của lễ toàn
thiêu. Mọi lời hứa của Thiên Chúa như bị tan thành khói trong cuộc tế lễ này,
thế mà ông cũng vâng theo.
Phút chót, Thiên Chúa nhận tấm lòng của ông chứ không để ông giết con,
và Thiên Chúa long trọng xác nhận lại lời hứa cho ông thành cha của nhiều dân tộc:
“Đây là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì
ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, 17nên
Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên
nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm
được thành trì của địch. 18Mọi dân tộc trên mặt đất
sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã
vâng lời Ta.” (St 22,
16-18).
3. Giao Ước với dân đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ
Dòng dõi Áp-ra-ham lưu lạc sang Ai Cập và rơi vào thân phận nô lệ. Thiên
Chúa trung thành với giao ước đã lập với Áp-ra-ham nên can thiệp đưa họ ra khỏi
Ai-cập. Thiên Chúa phán với ông Mô-sê:
“Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên
Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp.” Ông Mô-sê che mặt
đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.
7 ĐỨC
CHÚA phán: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã
nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của
chúng. 8Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập,
và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tuôn chảy
sữa và mật, xứ sở của người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút. 9Giờ
đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta ; Ta cũng đã
thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai-cập. 10Bây giờ,
ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con
cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập.”
Thiên Chúa đã can thiệp quyết liệt, khiến Pha-ra-ô buộc lòng phải cho
đám nô lệ ra đi:
Con cái Ít-ra-en nhổ trại rời Ram-xết đi Xúc-cốt,
có khoảng sáu trăm ngàn bộ hành , chỉ kể đàn ông không kể trẻ
con. 38Cả một đám đông hỗn tạp cùng lên với họ,
mang theo chiên cừu, bò dê, họp thành một đàn súc vật đông đảo. (Xh 12, 37-38).
Khi con cái Ít-ra-en và đám đông hỗn tạp tới núi Xi-nai thì Thiên Chúa lập
Giao Ước để nhận tất cả làm dân của Thiên Chúa và ban cho họ Luật Giao Ước để họ
biết sống làm “dân của Thiên Chúa”.
Ông Mô-sê lên gặp Thiên Chúa. Từ trên núi, ĐỨC
CHÚA gọi ông và phán: “Ngươi sẽ nói với nhà Gia-cóp, sẽ thông báo cho
con cái Ít-ra-en thế này: 4Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai-cập
thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim bằng, mà đem đến với Ta. 5Vậy
giờ đây, nếu các ngươi thật sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết
mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta. Vì toàn cõi đất đều là của
Ta. 6Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân
thánh. (Xh 19,
3-6).
Sách Xuất Hành kể tiếp. Thiên Chúa gọi ông Mô-sê lên
núi để phán dạy.
Ông Mô-sê xuống thuật lại cho dân mọi lời của ĐỨC
CHÚA và mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi lời ĐỨC
CHÚA đã phán, chúng tôi sẽ thi hành.” 4Ông Mô-sê chép
lại mọi lời của ĐỨC CHÚA. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn
thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en. 5Rồi
ông sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en dâng những lễ toàn thiêu,
và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế ĐỨC CHÚA. 6Ông Mô-sê lấy
một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. 7Ông
lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì ĐỨC
CHÚA đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo.” 8Bấy giờ,
ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước ĐỨC
CHÚA đã lập với anh em, dựa trên những lời này.” (Xh 24, 3-8)
Ông Mô-sê dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en để là cột mốc
ghi nhớ ngày Thiên Chúa lập giao Ước với họ. Thiên Chúa còn cho một cột mốc di
động khác, đó là hai Bia Đá do Thiên Chúa khắc luật Giao Ước và trao cho ông
Mô-sê, gọi là Bia Chứng Ước, và truyền đặt trong một cái hòm (rương) do Thiên
Chúa ra mẫu, gọi là Hòm Bia Chứng Ước (x. Xh 25, 10-16), để họ
khiêng theo suốt cuộc hành trình vào tận Đất Hứa (x. Gs 3,
14-17).
Thiên Chúa lại truyền lập cột mốc nữa:
Khi toàn dân đã qua sông Gio-đan hết, ĐỨC
CHÚA phán với ông Giô-suê: 2“Hãy chọn mười hai người
trong dân, mỗi chi tộc một người, 3và truyền lệnh này cho họ: từ
nơi này, từ giữa lòng sông Gio-đan, nơi các tư tế đã đặt chân lên, anh em
hãy lấy đi mười hai tảng đá, đem qua sông với anh em và đặt ở nơi anh em dừng lại
nghỉ ngơi đêm nay.” 4Ông Giô-suê gọi mười hai người
ông đã chỉ định trong hàng con cái Ít-ra-en, mỗi chi tộc một người. 5Ông
bảo họ: “Hãy đến trước Hòm Bia ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, tận giữa
lòng sông Gio-đan, và mỗi người vác một tảng đá trên vai, đúng theo số các
chi tộc con cái Ít-ra-en, 6để làm dấu hiệu giữa anh em.
Mai ngày khi con cái anh em hỏi: ‘Những tảng đá này có nghĩa gì đối với
quý vị?’, 7anh em sẽ trả lời: ‘Là vì nước
sông Gio-đan đã bị chặn lại trước Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC
CHÚA ; khi Hòm Bia qua sông Gio-đan, nước sông Gio-đan đã bị
chặn lại ; và các tảng đá này là bia kỷ niệm đối với con
cái Ít-ra-en cho đến muôn đời.’” 8Con
cái Ít-ra-en làm đúng như ông Giô-suê đã truyền: Họ lấy đi
mười hai tảng đá, từ giữa lòng sông Gio-đan, như ĐỨC CHÚA đã
phán với ông Giô-suê, đúng theo số các chi tộc con
cái Ít-ra-en ; họ đem theo qua sông đến nơi họ dừng lại, và đặt ở
đó. 9Rồi ông Giô-suê dựng mười hai tảng đá ở giữa
lòng sông Gio-đan, nơi các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước đã đặt chân lên ;
các tảng đá ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay.
Sau khi chiếm lĩnh Đất Hứa, ông Giô-su-ê triệu tập đại hội toàn dân tại
Si-khem, giữa hai núi Ga-ri-dim và Ê-ban, để toàn dân cam kết công khai cam kết
tuân giữ Luật Giao Ước. [Xin nhắc lại: Si-khem là nơi Thiên Chúa đã hứa với
Áp-ra-ham rằng Ngài sẽ ban dất này cho dòng dõi ông, và ông đã lập bàn thờ như
cột mốc đầu tiên: St 12, 6-7]. Ông Giô-su-ê lập một cột mốc nữa:
Trong ngày ấy, ông Giô-suê thay mặt dân kết giao ước c,
ông đưa ra quy luật và điều luật ở Si-khem. 26Ông Giô-suê viết
những lời đó trong Sách Luật của Thiên Chúa d. Ông lấy một tảng
đá lớn và dựng ở đó, dưới cây sồi đ trong nơi thánh của ĐỨC
CHÚA. 27Ông Giô-suê nói với toàn dân: “Đây, tảng đá
này sẽ làm chứng về những điều chúng ta đã cam đoan, vì nó đã nghe mọi lời ĐỨC
CHÚA phán với chúng ta. Nó sẽ làm chứng về những điều anh em đã cam đoan,
kẻo anh em chối bỏ Thiên Chúa của anh em.” 28Ông Giô-suê giải
tán dân chúng, ai nấy trở về phần đất họ đã nhận làm gia nghiệp. (Gs 24, 25-28)
4. Thoái hóa
Bấy nhiêu cột mốc cố định và Hòm Bia Chứng Ước, như cột mốc di động,
cũng không đủ giữ cho dân trung thành với Giao Ước.
Bấy giờ ông Giô-suê giải tán dân chúng, và con
cái Ít-ra-en ai nấy về nơi mình đã trúng thăm làm gia nghiệp, để chiếm
hữu đất đai. 7Dân đã phục vụ ĐỨC CHÚA suốt thời
ông Giô-suê và suốt thời các kỳ mục là những người sống lâu sau
ông Giô-suê, và đã chứng kiến tất cả những công cuộc vĩ đại ĐỨC
CHÚA đã thực hiện cho Ít-ra-en. 8Ông Giô-suê,
con ông Nun, tôi trung của ĐỨC CHÚA, từ trần, thọ một trăm mười tuổi. 9Người
ta chôn cất ông tại thửa đất ông đã nhận được làm gia nghiệp ở Tim-nát
Khe-rét trong vùng núi Ép-ra-im, phía bắc núi Ga-át. 10Khi
đến lượt cả thế hệ ấy về sum họp với tổ tiên mình, thì xuất hiện một thế hệ kế
tiếp không hề biết ĐỨC CHÚA và những công cuộc Người đã thực hiện
cho Ít-ra-en.
Con cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, và đã
làm tôi các thần Ba-an. 12Họ đã lìa bỏ ĐỨC CHÚA,
Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã đưa họ ra khỏi đất Ai-cập, và họ đã đi
theo các thần ngoại lai trong số các thần của các dân chung quanh. Họ sụp lạy
các thần ấy và chọc giận ĐỨC CHÚA. 13Họ đã lìa bỏ ĐỨC
CHÚA để làm tôi thần Ba-an và các nữ thần Át-tô-rét. (Tl 2, 6-13).
Hòm Bia Chứng Ước thay vì nhắc họ trung thành với Giao Ước, trở thành “đồ
thờ”, và họ coi như “bùa hộ mạng”. Lúc lâm nguy trong cuộc chiến với người
Phi-li-tinh thì họ khiêng Hòm Bia Chứng Ước ra trận để Thiên Chúa chiến đấu
giùm họ. Nhưng
Người Phi-li-tinh giao chiến. Ít-ra-en bị đánh bại
và ai nấy chạy trốn về lều của mình. Đó là một đòn rất đau: về
phía Ít-ra-en có ba mươi ngàn bộ binh tử trận. 11Hòm
Bia Thiên Chúa bị chiếm đoạt, và hai con
ông Ê-li là Khóp-ni và Pin-khát bị giết. (1S 4, 10-11).
Sau này vua Salomon xây Đên Thờ làm nơi Chúa ngự và đặt Hòm Bia Chứng Ước
trong nơi cực thánh. Nhưng rồi chính Salomon cũng không trung thành:
ĐỨC CHÚA nổi giận với vua Sa-lô-môn, vì lòng vua rời
xa ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Đấng đã hiện ra với vua hai lần t, 10và
truyền cho vua là đừng đi theo các thần ngoại, nhưng vua không giữ điều ĐỨC
CHÚA đã truyền.
11ĐỨC
CHÚA phán với vua Sa-lô-môn: “Vì ngươi đã như vậy và đã không giữ
giao ước cũng như các giới răn Ta truyền cho ngươi, thì chắc chắn Ta sẽ giựt lấy
vương quốc ngươi mà trao cho một thuộc hạ của ngươi. (1V 11, 9-11)
Ba trăm năm sau, ngôn sứ Giê-rê-mi-a tố cáo dân:
1Đây là lời ĐỨC
CHÚA phán với ông Giê-rê-mi-a: 2Ngươi hãy đứng ở cửa
Đền Thờ ĐỨC CHÚA và tuyên bố những lời sau đây: Tất cả những người Giu-đa qua
cửa này vào thờ phượng ĐỨC CHÚA, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA. 3ĐỨC
CHÚA các đạo binh là Thiên Chúa của Ít-ra-en phán: Hãy cải
thiện lối sống và hành động của các ngươi, Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi
này. 4Đừng ỷ vào lời giả dối sau đây: “Đền Thờ của ĐỨC
CHÚA! Đền Thờ của ĐỨC CHÚA! Đã có Đền Thờ của ĐỨC CHÚA!” 5Nếu
các ngươi thật sự cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, nếu các
ngươi thật sự đối xử công bằng với nhau, 6không ức hiếp
ngoại kiều hay cô nhi quả phụ, nếu các ngươi không đổ máu người vô tội nơi
đây, không đi theo các thần ngoại mà chuốc hoạ vào thân, 7thì
Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này, trong phần đất Ta đã ban cho cha
ông các ngươi đến muôn đời. 8Nhưng các ngươi lại ỷ vào những
lời dối trá vô giá trị. 9Trộm cắp, giết người, ngoại tình, thề
gian, ođốt hương tế thần Ba-an và đi theo các thần lạ
các ngươi không biết, 10rồi lại vào nhà này, nơi danh Ta được
kêu khấn, đến trước mặt Ta mà nói: “Chúng ta được an toàn!”, sau đó cứ tiếp
tục làm những điều ghê tởm ấy. Thế nghĩa là gì? 11Phải chăng
các ngươi coi nhà này, coi nơi danh Ta được kêu khấn là hang trộm cướp
sao? Ta, Ta thấy rõ hết – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
12Vậy các
ngươi hãy đi đến Si-lô, nơi đã một thời thuộc về Ta, nơi Ta đã lưu ngụ thuở
ban đầu. Hãy xem: vì tội ác của dân Ta là Ít-ra-en, Ta đã làm gì cho nơi ấy. 13Bởi
vì các ngươi đã làm tất cả những việc ấy –sấm ngôn của ĐỨC CHÚA–, và bởi
vì Ta đã không ngừng nói với các ngươi mà các ngươi chẳng thèm nghe,
Ta gọi các ngươi, các ngươi chẳng trả lời, 14nên giờ đây, Ta sẽ
đối xử với Đền Thờ này, nơi danh Ta được kêu khấn, nơi các ngươi tin tưởng,
nơi mà Ta đã ban cho các ngươi cũng như cho tổ tiên các ngươi, Ta sẽ đối xử với
nó như đã đối xử với Si-lô. 15Ta sẽ xua đuổi các
ngươi khỏi mặt Ta như đã xua đuổi tất cả anh em các ngươi, toàn thể dòng
dõi Ép-ra-im. (Gr 7,
1-14)
Cuối cùng, thành Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ bị phá, dân Giu-đa bị lưu đày:
Ngày mồng bảy tháng năm, –đó là năm thứ mười chín triều Na-bu-cô-đô-nô-xo,
vua Ba-by-lon–, quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan, thuộc hạ của
vua Ba-by-lon, vào Giê-ru-sa-lem. 9Ông đốt
Nhà ĐỨC CHÚA, đền vua và mọi nhà cửa ở Giê-ru-sa-lem ; ông
còn phóng hoả đốt mọi dinh thự các nhà quyền quý. 10Toàn thể đạo
quân Can-đê, dưới quyền quan chỉ huy thị vệ, phá huỷ các tường thành chung
quanh Giê-ru-sa-lem. 11Quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan
bắt những người dân còn sót lại trong thành, những người đã đào ngũ theo
vua Ba-by-lon, và những người thợ thủ công còn sót lại phải đi đày. 12Nhưng
quan chỉ huy thị vệ chừa lại một phần dân cùng đinh trong xứ để trồng nho và
canh tác. (2V 25,
8-12).
Bản văn trên không cho biết số phận Hòm Bia Chứng Ước. Theo sách 2
Ma-ca-bê:
vị ngôn sứ [Giê-rê-mi-a],
khi được Thiên Chúa dạy bảo, đã truyền phải đưa Lều và Hòm Bia cùng đi với
ông lên núi [Nê-bô] ông Mô-sê đã lên để nhìn ngắm
cơ nghiệp của Thiên Chúa. 5Khi đến đó,
ông Giê-rê-mi-a gặp thấy một cái nhà giống hình một cái hang ; ông
đưa Lều, Hòm Bia và bàn thờ dâng hương vào đấy, rồi bít cửa lại. 6Sau
đó, một số người đồng hành với ông tính trở lại để đánh dấu con đường, nhưng họ
không thể tìm ra. (2 Mcb 2, 4-6)
Ngoài Hòm Bia Chứng Ước và các cốt mốc, còn có những ngày lễ làm cột mốc
thời gian, nhưng ngôn sứ I-sai-a cũng vạch rõ:
Hỡi những kẻ làm đầu Xơ-đôm, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA phán.
Hỡi dân Gô-mô-ra, hãy lắng tai nghe Thiên Chúa chúng ta dạy bảo.
11ĐỨC
CHÚA phán: “Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta, nào nghĩa lý gì?
Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên
dê, Ta chẳng thèm!
12Khi các
ngươi đến trình diện Ta, ai khiến các ngươi phải giẫm lên khuôn viên của Ta?
13Thôi, đừng
đem những lễ vật vô ích l đến nữa.
Ta ghê tởm khói hương ;Ta không chịu nổi ngày đầu tháng,ngày sa-bát,
ngày đại hội,
không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạt linh đình.
14Ta chán ghét
những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi.
Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa.
15Khi các
ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn ;
các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe.
Vì tay các ngươi đầy những máu.
16Hãy rửa cho
sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta.
Đừng làm điều ác nữa. 17Hãy tập làm điều thiện, tìm
kiếm lẽ công bằng,
sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ.
18ĐỨC
CHÚA phán : “Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận!
Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết ;
có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông.
19Nếu các
ngươi chịu nghe lời Ta, các ngươi sẽ được hưởng dùng hoa mầu trong xứ.
20Còn nếu các
ngươi từ chối mà phản nghịch, các ngươi sẽ phải ăn gươm ăn giáo.”
Miệng ĐỨC CHÚA đã phán như vậy. (Is 1, 10-20)
Họ đã từ chối và phản nghịch, nên đã phải ăn gươm ăn giáo! Không thể mua
chuộc Thiên Chúa. “Vì Ta, Ta muốn tình yêu chứ không cần hy
lễ,
thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu. (Hs 6, 6)
Cũng không thể lấy vải sô che mắt thánh: “Ta, Ta thấy rõ hết!”
(Gr 7, 11)
Sách Đệ Nhị Luật, cuốn cuối cùng trong bộ Luật Mô-sê, viết
sau khi vương quốc phía Bắc đã bị lưu đầy (năm 722 trCGS), ghi lại điều răn đứng
đầu các điều răn (x. Mc 12, 28-30):
Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta,
là ĐỨC CHÚA duy nhất. 5Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA,
Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). 6Những
lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào
lòng. 7Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói
lại cho chúng , lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng
như khi thức dậy, 8phải buộc những lời ấy vào otay
làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu , 9phải viết lên
khung cửa nhà anh (em), và lên cửa thành của anh (em). (Đnl 6, 4-6)
Điều răn chỉ gọn trong một hàng, còn các phương thức giúp ghi tạc
vào lòng dài bốn hàng. Người Do Thái đạo đức ngày nay vẫn thực hành
sát các lời căn dặn giúp trí nhớ này.
Nhưng sách Đệ nhị Luật cũng cho thấy tại sao dân Cựu Ước đã rơi vào tình
trạng lãng quên Thiên Chúa và Luật Giao Ước. Ngày nay có 9 triệu người Do
Thái sống tại đất Ít-ra-en, thì 48% hoàn toàn không tin Thiên Chúa, còn 52% thì
trải dài trên những mức độ khác nhau, từ đậm tới nhạt. Lý do là:
“Nhưng cho đến ngày hôm nay, ĐỨC CHÚA đã không cho anh
em lòng để biết, mắt để thấy, tai để nghe” (Đnl 29,
3).
Chúa bảo ghi tạc vào lòng, nhưng chưa có thì ghi vào đâu. Các cột mốc cần
có mắt để thấy, tai để nghe, nhưng chưa có mắt để thấy, tai để nghe…
Các ngôn sứ đã loan báo giải pháp quyết liệt của Thiên Chúa trong Giao Ước
Mới. Giê-rê-mi-a loan báo Thiên Chúa sẽ khắc luật trong tim:
Này sẽ đến những ngày –sấm ngôn của ĐỨC CHÚA– Ta sẽ lập với
nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, 32không
giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi
đất Ai-cập ; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta
là Chúa Tể của chúng – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. 33Nhưng đây
là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó – sấm ngôn của ĐỨC
CHÚA. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề
Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. 34Chúng
sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: “Hãy học cho biết ĐỨC
CHÚA”, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta – sấm
ngôn của ĐỨC CHÚA. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không
còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. (Gr 31, 33-34)
Ê-dê-kien loan báo Thiên Chúa sẽ ghép cho quả tim bằng thịt, đặt thần
khí vào lòng và sẽ làm cho họ bước đi theo thánh chỉ của Ngài:
Chúng đã làm cho danh Ta bị xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến,
khiến người ta nói về chúng rằng: “Đó là dân của ĐỨC CHÚA, chúng đã phải
ra khỏi xứ của Người.” 21Nhưng Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã
bị nhà Ít-ra-en xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến. 22Vì
thế, ngươi hãy nói với nhà Ít-ra-en: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng
phán thế này: Hỡi nhà Ít-ra-en, không phải vì các ngươi mà Ta hành động,
mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến. 23Ta
sẽ biểu dương danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh
mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta
là ĐỨC CHÚA –sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng– khi Ta
biểu dương sự thánh thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt chúng. 24Bấy
giờ, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại từ khắp
các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi. 25Rồi Ta
sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các
ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. 26Ta sẽ ban tặng
các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi
quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng
thịt. 27Chính thần trí của Ta , Ta sẽ đặt vào lòng
các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của
Ta và đem ra thi hành. (Ed 36, 20-27).
Thiên Chúa sẽ thực hiện những lời hứa ấy như thế nào nhờ Đức Giêsu Kitô?
Dân của Giao Ước Mới là Hội Thánh do Chúa Giêsu thiết lập (Mt 16, 13-18) có
nguy cơ thoái hóa hay không? Xin đón đọc phần thứ hai của bài này.: Giao Ước Mới……
5. Giao Ước Mới
Thánh Phao-lô Tông Đồ và cả bốn sách Tin Mừng đều kể về Giao Ước Mới
trong Đức Giêsu Kitô, cho thấy Thiên Chúa đã thực hiện những lời hứa liên quan
tới Giao Ước Mới do các ngôn sứ đã loan báo. Đặc biệt thư Hip-ri khai triển dựa
theo lời hứa trong Gr 31, 31-34. Bản văn này được trích dẫn ở
giữa thư, như thể tóm tắt chủ đề của toàn thể bức thư. Bản văn này dễ gây ngộ
nhận về một sự gián đoạn hoặc thay thế giữ Giao Ước Xi-nai với Giao Ước Mới.
Nhưng đọc trong mạch văn của toàn thể sách Sách Thánh thì sẽ thấy là cách Thiên
Chúa thực hiện từng bước các lời hứa, mở đầu là lời hứa cho Áp-ra-ham. S1ch Khải
Huyền sẽ cho thấy viễn tượng sự hoàn tất cuối cùng, hòa hợp Mười Hai chi tộc
Ít-ra-en với Mười Hai Tông Đồ của Con Chiên để làm nên Giê-ru-sa-lem trên trời,
ở đó sẽ không còn bóng dáng tội lỗi nào nữa. Trời Mới Đất Mới sẽ trong suốt như
pha-lê, Thiên Chúa và Con Chiên sẽ là ánh sáng và trực tiếp hiện diện, không cần
Đền Thờ bằng gỗ, đá nữa.
Tin Mừng Mác-cô cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến
trong Đức Giêsu Kitô, khi kể về Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Gio-đan. Lời cầu
xin của Is 63, 19:
Từ lâu rồi, chúng con là những kẻ không còn được Ngài cai trị,
không còn được cầu khẩn danh Ngài. Phải chi Ngài xé trời mà ngự
xuống,
cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan.
Trời đã xé ra, Thánh Thần đã ngự xuống trên Chúa Giêsu, Chúa Cha đã lên
tiếng xác nhận. Các yếu tố của Giao Ước Mới đã có rồi.
Trong cuộc đụng độ với Xa-tan tại sào huyệt của nó, trong hoang địa,
Chúa đã biến hoang địa thành Vườn Địa Đàng, thiên thần đên hầu hạ Chúa, để xác
nhận Chúa quả là Con Thiên Chúa, như lời Chúa Cha phán ở bờ sông Gio-đan. Chúa
đến cứu độ toàn thể thọ tạo, vì thế Chúa sẽ sai môn đệ đi loan tin mừng cho mọi
loài thọ tạo.
Chúa Giêsu đã chữa người mù, người câm, người điếc. Trước khi ông Phê-rô
tuyên xưng đức tin thì Chúa Giêsu còn áp dụng lời Mô-sê cho các môn đệ. Họ giống
như dân của Giao Ước Xi-nai ở cuối con đường qua hoang địa:
Các môn đệ quên đem bánh theo ; trên thuyền, các ông chỉ có một chiếc
bánh. 15Người răn bảo các ông: “Anh em phải coi chừng, phải đề
phòng men Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê!” 16Và các
ông bàn tán với nhau về chuyện các ông không có bánh. 17Biết thế,
Người nói với các ông: “Sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có bánh? Anh
em chưa hiểu chưa thấu sao? Lòng anh em ngu muội thế! 18Anh
em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư?Anh em không
nhớ sao: 19khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người
ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh?” Các ông đáp: “Thưa được
mười hai.” 20“Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người
ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh?” Các ông nói: “Thưa được
bảy.” 21Người bảo các ông: “Anh em chưa hiểu ư?” (8, 14-21)
Mc kể về cuộc trao
đổi thân thiện giữa Chúa Giêsu với một kinh sư về điều răn đứng đầu, hai bên
tâm đắc. Chúa kết luận: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (12,
28-31). Ông đang đứng trước cửa, ông chỉ còn thiếu một bước: bước vào, bằng
cách đi theo Chúa Giêsu, như lời Chúa mời gọi người thanh niên giàu có: “Anh
chỉ còn thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo,
anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (10, 17-21).
Sau cuộc trao đổi thân thiện kia, Chúa gọi các môn đệ lại, chỉ cho họ thấy
một bà góa nghèo vừa “dâng cúng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”,
nghĩa là bà đã sống đúng diều răn đứng đầu. Bà là hình ảnh của Chúa Giêsu đang
đi vào cuộc Khổ Nạn. Chúa Giêsu sống trọn Giao Ước, thực thi cả hai điều răn mến
Chúa yêu người đến cùng, bằng cả trái tim, cả mạng sống và tất cả những gì Ngài
có. (12,41-44).
Điều kiện để làm môn đệ là sống điều răn đứng đầu đối với Chúa Giêsu: bỏ
tất cả mọi người thân yêu, bỏ mọi sự mình có và cả đến mạng sống vì Chúa.
Chúa chọn nhóm Mười Hai để ở với Chúa và để Ngài sai họ đi với quyền trừ
quỉ, đó là thời gian huấn luyện. Khi Chúa Phục sinh đã lên ngự bên hữu Thiên
Chúa và sai họ đi loan bái Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo, thì Chúa cùng hành động
với họ. Chúa Giêsu đến với quyền năng Thánh Thần để tiêu diệt quyền thống trị của
Xa-tan. Bằng cái chết và sự phục sinh, Chúa đã chiến thắng Xa-tan và sự chết.
Chúa sai môn đệ đi tiếp tục thực hiện cuộc chiến thắng này, giải thoát cho mọi
loài thọ tạo. Cuộc chiến giữa Thiên Chúa và Xa-tan tiếp tục cho đến tận cùng thế
giới và tận cùng thời gian.
Môn đệ không đi một mình mà Chúa Phục Sinh luôn ở với họ và cùng hành động
với họ khi sai họ đi (16, 14-20).
Trước khi đi đón cái chết trên thập giá, Chúa đã công bố Giao Ước bằng
máu của Chúa. Đó là Giao Ước Mới. Môn đệ đã được chữa lành: có tai để
nghe, mắt để thấy và lòng để hiểu, vì Thánh Thần đã đến trong Chúa Giêsu
và họ được liên kết với Chúa, Chúa sống trong họ bằng Mình và Máu Chúa mà
Chúa đã ban làm “lương thực hàng ngày”, Chúa cùng hành động với họ.
Tin Mừng Mát-thêu mở đầu với gia phả dựa trên
hai cột mốc Đa vít và Áp-ra-ham, là hai tổ phụ nhận được những lời hứa.
Áp-ra-ham sẽ thành cha của nhiều dân tộc. Dòng dõi Đa-vít sẽ làm vua muôn đời.
Giao Ước của Thiên Chúa với Áp-ra-ham đạt tới Tột đỉnh trong Giao Ước bằng Máu
của Chúa Giêsu, sinh bởi dòng dõi Áp-ra-ham; Giao Ước với Đa-vít cũng được thực
hiện trong Đức Giêsu, sinh bởi dòng dõi Đa-vít, là Thiên-Chúa-ở–cùng-chúng-ta.
Chúa Giêsu lập Giao ước Mới bằng máu của Chúa.
Mát-thêu gom những
lời dạy của Chúa thành 5 bài giảng, gợi lại năm cuốn sách Luật Mô-sê. Với bài
giảng trên núi, Chúa đã giảng trong tư thế là Thiên Chúa làm người ở cùng chúng
ta: “Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ
đến gần bên. 2Người mở miệng dạy họ rằng”, hoàn toàn khác với
cảnh Thiên Chúa ban Lề Luật trên núi Xi-nai (x. Xh 19, 9-24).
Chúa Giêsu cũng đẩy việc giữ luật Giao Ước vào tận đáy lòng, dạy tha thứ thay
vì báo thù, dạy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã (Mt 5, 1-7, 29).
Bốn bài giảng tiếp theo sẽ đề cập từng khía cạnh trong đời sống môn đệ.
Vị Tiền Hô đã cảnh báo những người Pha-ri-sêu và Xa-đốc: “Đừng tưởng
có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.’
Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên
con cháu ông Áp-ra-ham. 10Cái rìu đã đặt sát gốc
cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. (3,
9-10).
Trong Nước Trời không có chỗ cho “con ông cháu cha”, không có chuyện thừa
kế theo huyết nhục. “Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương
tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. 12Nhưng
con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó
người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (8, 11-12). Mỗi người sẽ bị
xét xử theo những gì mình làm (x. 25, 31-46).
Khi đã phục sinh, Chúa sai các phụ nữ ra viếng mộ: “Bỗng Đức Giêsu đón
gặp các bà và nói: “Chào chị em!” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và
bái lạy Người. 10Bấy giờ, Đức Giêsu nói với các bà:
“Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ
sẽ được thấy Thầy ở đó.”
Khi đến gặp nhóm Mười Một ở Ga-li-lê trên “ngọn núi Chúa đã truyền
cho họ”, Chúa công bố:
16Mười một môn
đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã
truyền cho các ông đến. 17Khi thấy Người, các ông bái lạy,
nhưng có mấy ông lại hoài nghi. 18Đức Giêsu đến gần, nói với
các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. 19Vậy
anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, 20dạy bảo họ tuân
giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho
đến tận thế (28, 16-20).
“Ngọn núi Chúa đã truyền” gợi lại ngọn núi Thiên Chúa chỉ cho ông
Áp-ra-ham đem con lên tế lễ, tại đó Thiên Chúa đã nhận tấm lòng của Áp-ra-ham
và xác nhận lại lời hứa về dòng dõi đông đúc (X. St 22, 1-28).
Lời hứa cho Đa-vít đã thành sự, vì Chúa Giêsu đã nhận mọi quyền trên trời
dưới đất và ở cùng mô đệ mọi ngày cho đến tận thế, Chúa là Em-ma-nu-en,
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng- ta. Lời hứa cho Áp-ra-ham cũng thành sự,
vì môn đệ là anh em của Chúa Giêsu, được sai đi làm cho muôn dân thành môn đệ,
tức là thành anh em của Chúa, con cái của Áp-ra-ham.
Thánh Phao-lô giải thích “Ông [Áp-ra-ham] là
cha của mọi kẻ tin mà không được cắt bì, và vì tin nên được kể là
công chính. 12Ông cũng là cha của những người được cắt bì,
nhưng không phải chỉ được cắt bì, mà còn dõi bước tổ phụ chúng ta là
ông Áp-ra-ham, trên đường đức tin, đức tin ông đã có trước khi được cắt
bì.” (Rm 4, 11-12).
Mát-thêu không nói
đến cột mốc nào ngoài sự hiện diện của “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng- ta”,
Người tự đồng hóa với những người nhỏ bé nhất như anh em ruột thịt của Người,
và sẽ đích thân phán xét từng người:
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được
vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng
ngự trên trời, mới được vào mà thôi. 22Trong ngày ấy, nhiều người
sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân
danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều
phép lạ đó sao?’ 23Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không
hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian
ác! (Mt 7,
21-23)
Đức Vua sẽ đáp lại rằng: ‘Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi
làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi
đã làm cho chính Ta vậy.’
Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: ‘Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần
các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là
các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.’ (25, 40.4)
Tin Mừng Lu-ca kể Bí Tích Thánh Thể như là Bí Tích của Giao Ước Mới.
“Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói:
“Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng
nhớ đến Thầy.” 20Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng
làm như vậy và nói: “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra
vì anh em.” (22,
19-20)
Nhớ đến Chúa là Đấng đã tự hiến tế chính mình vì chúng ta, Đấng đã lấy
máu mình mà lập Giao Ước Mới.
Lc giải thích ý
nghĩa hiện sinh của Bí Tích này bằng cách đưa bài học về phục vụ vào đây, và
Chúa Giêsu tự đặt mình làm gương mẫu:
“Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn
nhất. 25Đức Giêsu bảo các ông: “Vua các dân thì dùng
uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. 26Nhưng
anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên
như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. 27Bởi
lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ?
Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.
Trong thư thứ nhất Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô
sẽ dựa vào bí tích Thánh Thể để giải quyết các vấn đề trong đời sống cá nhân,
gia đình và cộng đoàn của Kitô hữu (mời đọc toàn thể thư này để thấy rõ).
Trong thư Rô-ma, từ chương 12 đến chương 14, thánh
Phao-lô nói về sống bí tích Thánh Thể bằng cách trở nên và sống như một của lễ
toàn thiêu sống động.
Tin Mừng Gio-an giới thiệu Chúa Giêsu là “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần
gian”, là Chàng Rể gợi lại những lời hứa trong
sách Hô-sê và I-sai-a về giao Ước Mới, sau đó
vận dụng các ngày lễ của Cựu Ước để cho thấy Chúa Giêsu là thực tại đã được
loan báo trong Cựu Ước.
Gio-an không kể việc
Chúa lập bí tích Thánh Thể, nhưng kể việc Chúa rửa chân cho môn đệ để làm gương
mẫu trước khi ban Điều Răn Mới. Cuộc Thương Khó được trình bày như cuộc Vượt
Qua Mới, Giao Ước Mới và Chúa Giêsu là Thượng Tế dâng hy lễ xá tội. Máu của
Chúa vừa là máu Chiên Vượt Qua, vừa là Máu Xá tội và là Máu Giao Ước Mới. Chúa
trao lạo hơi thở từ trên thập giá và sau khi từ cõi chết trỗi dậy, Người ban
Thánh Thần khi đến với các môn đệ.
Trong tin Mừng Nhất Lãm và thư 1 Cô-rin-tô Chúa
truyền làm như Thầy vừa làm, tức là cử hành bí tích Thánh Thể mà nhớ đến
Chúa. Trong Tin Mừng Gio-an Chúa truyền “rửa chân cho nhau”,
yêu mến nhau như Chúa đã làm, đã yêu: hiến mạng sống cho nhau. Rất
gần với cách trình bày của Lu-ca và thư Rô-ma. Và
Chúa lấy làm dấu hiệu để người ta nhận biết môn đệ của Chúa. Chính chúng ta
thành “cột mốc” để “nhớ” Giao Ước Mới, nhờ Thánh Thần và quả tim biết yêu
thương.
6. Dân của Giao Ước Mới có nguy cơ thoái hóa không?
Câu trả lời là CÓ. Thư 1 Cô-rin-tô đã
cho thấy gương công đoàn Cô-rin-tô. Họ vẫn họp nhau, nhưng kết
quả là gì:
Nhân lúc đưa ra các chỉ thị này, tôi chẳng khen anh em đâu, vì những buổi
họp của anh em không đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây hại. 18Thật
thế, trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau,
và tôi tin là điều ấy có phần nào đúng. 19Những sự chia rẽ giữa
anh em, thế nào cũng có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn. 20Khi
anh em họp nhau, thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa. 21Thật
vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người
lại say. 22Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh
dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? Tôi phải
nói gì với anh em? Chẳng lẽ tôi khen anh em sao? Về điểm này, tôi chẳng khen
đâu. (11, 17-22)
Sách Khải Huyền (2-3) đã có bảy bức thư gởi cho bảy cộng
đoàn Hội Thánh, để nhắc mọi cộng đoàn Hội Thánh tự kiểm điểm về sự trung thành
của mình với Giao Ước. Điều quở trách đầu tiên là: “Ngươi đã để mất tình
yêu thuở ban đầu” (Kh 2, 4). Đó là căn nguyên của mọi thứ
suy thoái khác.
Những cuộc khủng hoảng nhiều mặt trong Hội Thánh hiện nay bắt chúng ta
suy nghĩ. Nhưng đừng vội trách người khác. Mỗi người hãy xét mình và đấm ngực
mình, vì mỗi người là một phần thân thể của Hội Thánh (x. 1 Cr 12,
12-30), nên “nếu một bộ phận nào đau thì mọi bộ phận cùng đau” (12, 26).
Mỗi người đều có trách nhiệm xây dựng Hội Thánh. Mỗi người là một viên đá sống
động (1Pr 2, 4). Ngọn lửa Chúa đã làm bừng lên trong Hội Thánh tùy ở
mỗi người có để cho lửa ấy thiêu đốt mình không (x. Lc 12,
49). Chúa Giêsu đã băn khoăn: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn
thấy lòng tin trên mặt đất này hay không?” (Lc 18, 8). Liệu mỗi
người chúng ta có thể trả lời: “Lạy Chúa, nếu Chúa đến hôm nay thì còn có con
tin Chúa đây!”
Đừng nguyền rủa bóng tối quanh ta, hãy trở thành tia lửa, thành ngọn đuốc
như Chúa mời gọi: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.
Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. 15Cũng chẳng
có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi
chiếu cho mọi người trong nhà. 16Cũng vậy, ánh sáng của
anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp
anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5,
14-16).
Nguồn: dongten.net (11.06.2023)