WHĐ (19.03.2024) – “Ta là sự sống lại và là sự sống” là chủ đề của bài Suy niệm thứ tư trong loạt bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay năm nay dành cho Giáo triều Rôma, của
Đức Hồng y Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap., giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng, vào sáng thứ Sáu, ngày 15.03.2024. Sau đây là toàn văn Việt ngữ bài giảng của Đức Hồng y:
Đức Hồng y Raniero Cantalamessa,
O.F.M. Cap.
Bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho Giáo triều Rôma
Năm 2024 - Bài 4: TA LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG
Trong phần chú giải
về câu “Ta là” trang trọng của Đức Kitô trong Tin Mừng Gioan, chúng ta đến
với chương 11, chương hoàn toàn tập trung vào câu chuyện Ladarô sống lại. Giáo
huấn mà Thánh sử Gioan muốn truyền đạt cho Giáo hội với bố cục khôn ngoan của
chương này có thể được tóm tắt ở ba điểm:
Điểm thứ nhất:
Chúa Giêsu làm cho bạn của Người là Ladarô sống lại (Ga 11, 1-44).
Điểm thứ hai: Sự
sống lại của Ladarô khiến Chúa Giêsu bị kết án tử hình (11, 47-50).
Bấy giờ các thượng tế và các người Pharisêu triệu tập
Thượng Hội Ðồng và nói: “Chúng ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu
lạ. Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ
tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá hủy cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc
ta”. Một người trong Thượng Hội Ðồng tên là Caipha,
làm thượng tế năm ấy, nói rằng: “Các ông không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết
thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt!”
Điểm thứ ba: Cái
chết của Chúa Giêsu mang lại sự sống lại cho tất cả những ai tin vào Người (11,
51-53). Thậy vậy, Thánh sử giải thích:
Ðiều đó, Caipha không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy,
nên đã nói tiên tri là Ðức Giêsu sắp phải chết thay cho dân, và không chỉ
thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp
nơi về một mối. Từ ngày đó, họ quyết định giết Ðức Giêsu.
Tóm lại, sự sống
lại của Ladarô gây ra cái chết của Chúa Giêsu; cái chết của Chúa Giêsu mang lại
sự sống lại cho tất cả những ai tin vào Người!
* * *
Bây giờ chúng ta
có thể tập trung vào lời tự mặc khải hàm chứa trong ngữ cảnh:
Chúa Giêsu nói với
Martha: “Em chị sẽ sống lại”. Martha thưa: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại
trong ngày sau hết".
Chúa Giêsu nói với Martha: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta, thì dù
đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết” (11, 23-25).
“Ta là sự sống
lại!” Chúng ta có thể thắc mắc: Chúa Giêsu đang nói đến sự sống lại nào?
Martha nghĩ tới sự sống lại cuối cùng. Chúa Giêsu không phủ nhận sự sống lại
này “vào ngày sau hết”, điều mà chính Người đã hứa ở nơi khác (Ga 6,
54), nhưng ở đây, Chúa Giêsu loan báo một điều mới mẻ: đó là sự sống lại bắt đầu
ngay bây giờ cho những ai tin vào Người. Thánh Augustinô chú giải:
“Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta về sự sống lại của người chết, xảy ra trước
sự sống lại trong ngày sau hết. Và đó không phải là sự sống lại giống như sự sống
lại của Ladarô hay của con trai bà góa thành Nain… là những người đã được sống
lại để chết lần nữa” [1].
Như chúng ta có
thể thấy, ý tưởng về sự sống lại tâm linh và hiện sinh diễn ra ở đời này nhờ đức
tin, không phải là điều xa lạ trong truyền thống Kitô giáo. Tính mới mẻ xảy ra
khi ai đó muốn biến sự sống lại thành ý nghĩa duy nhất trong lời của Chúa
Giêsu. Quan điểm của Bultmann được nhiều người biết đến, mặc dù hiện nay phần lớn
đã lỗi thời, nhưng quan điểm đó từng thịnh hành khi tôi đang nghiên cứu thần học.
Theo Bultmann, sự sống lại mà Chúa Giêsu nói đến biểu thị một sự sống lại hiện sinh,
một sự thức tỉnh lương tâm, dựa trên đức tin. Chúng ta ở trong ranh giới giữa “lời kêu gọi quyết định” mơ
hồ và “quyết định vì Thiên Chúa”, mà dựa vào đó Bultmann giản
lược gần như toàn bộ sứ điệp
Tin Mừng [2].
Nhưng Gioan dành
toàn bộ 2 chương trong Phúc âm của mình để nói về sự phục sinh thực sự trong
thân xác của Chúa Giêsu, và cung cấp một số thông tin chi tiết nhất về sự kiện này.
Vì vậy, đối với Gioan, đó không chỉ là “do Chúa Giêsu” đã sống lại từ
cõi chết, mà còn là chính con người của Ngài nữa!
Sự sống lại hiện
tại không thay thế sự sống lại cuối cùng của thân xác nhưng là sự đảm bảo cho sự
sống lại cuối cùng của thân xác. Sự sống lại hiện tại không vô hiệu hóa hoặc
làm cho sự phục sinh của Đức Kitô từ ngôi mộ trở nên vô ích, nhưng hoàn toàn dựa
trên điều đó. Chúa Giêsu có thể nói “Ta là sự sống lại”, bởi vì Người là
Đấng Phục Sinh! Trước Thánh sử Gioan, chính Tông đồ Phaolô đã khẳng định mối
liên hệ không thể tách rời giữa đức tin Kitô và sự phục sinh thực sự của Đức
Kitô. Thật hữu ích và kịp thời khi nhớ lại những lời sâu sắc của Phaolô dành
cho tín hữu Côrintô:
Mà nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống
rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. Thế ra, chúng tôi là những chứng nhân giả của Thiên Chúa, bởi vì đã chống
lại Thiên Chúa mà làm chứng rằng Người đã cho Ðức Kitô chỗi dậy, trong khi thực
sự Người đã không cho Ðức Kitô chỗi dậy. Vì nếu kẻ chết không
chỗi dậy, thì Ðức Kitô cũng đã không chỗi dậy. Mà nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền,
và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em (1 Cr 15, 14-17).
Chính Chúa Giêsu
đã cho thấy sự phục sinh của Người như một dấu chỉ tuyệt vời về tính xác thực của
sứ mạng của Người. Đối với những đối phương xin Người một dấu lạ, Chúa Giêsu đã
đưa ra một câu trả lời khó có thể quy cho ai khác ngoài chính Người:
"Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ
không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Giôna. Quả thật, ông Giôna đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì
Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy” (Mt 12, 39-40).
Đối phương của
Chúa Giêsu biết rõ rằng Giôna không ở mãi trong bụng kình ngư mà sau 3 ngày ông đã thoát ra khỏi nó.
Trong một bài suy
niệm trước đây, tôi đã nói về thành kiến của những người không có đức tin đối
với đức tin, điều này không khác gì thành kiến mà họ chỉ trích những người có
đức tin. Thực ra, họ chỉ trích các tín hữu vì không thể khách quan, vì đức tin
ngay từ đầu đã áp đặt lên họ kết luận mà họ phải đạt tới mà không nhận ra rằng
điều tương tự cũng đang xảy ra giữa họ. Nếu bạn bắt đầu từ giả định rằng Thiên
Chúa không hiện hữu, rằng điều siêu nhiên không tồn tại, và phép lạ là không thể
xảy ra, thì kết luận mà bạn đạt được cũng được đưa ra ngay từ đầu, và do đó,
theo nghĩa đen, là một thành kiến.
Sự phục sinh của
Đức Kitô là trường hợp mẫu mực nhất về điều này. Không có sự kiện nào trong thời
cổ đại được hỗ trợ bằng nhiều lời chứng trực tiếp như sự kiện này. Một số trong
số đó bắt nguồn từ những nhân vật có tầm trí tuệ như Saulô người Tarsus (thánh Phaolô tông đồ), người mà trước đây đã từng quyết liệt đấu tranh
chống lại niềm tin này. Chính Saulô cung cấp một danh sách chi tiết các nhân chứng,
một số người trong số họ vẫn còn sống, do đó họ có thể dễ dàng bác
bỏ ông (1 Cr 15, 6-9).
Những khác biệt về
địa điểm và thời gian của những lần hiện ra được khai thác mà không nhận ra rằng
sự trùng hợp ngoài ý muốn về sự kiện trung tâm là bằng chứng về sự thật lịch sử
của nó, chứ không phải là sự phủ nhận nó. Không có “sự hòa hợp được thiết lập
trước” trong trường hợp này! Trước khi được viết ra, các sự kiện trong cuộc
đời Chúa Giêsu đã được truyền miệng trong 2 thập niên, và những biến thể cũng
như sự thích ứng bên lề cho câu chuyện là điển hình của mọi cuộc truyền miệng trong
một cộng đoàn đang sống và đang phát triển [3].
Mặt khác, các cuộc
hiện ra không phải là bằng chứng duy nhất về sự phục sinh của Đức Kitô. Thánh
John Chrysostom có một trang nổi tiếng, mà không cuộc điều tra phê bình hiện
đại nào có thể bác bỏ được. Đây là điều thánh nhân đã nói trong bài giảng cho dân
chúng:
Làm thế nào mà 12 người đàn ông nghèo, và thất học, những người đã sống cả đời
trên sông hồ, lại có thể đảm nhận công việc như vậy? Là
những người có lẽ chưa bao giờ đặt chân đến một thành phố hay một quảng trường
nào, làm sao họ có thể nghĩ đến việc chống lại cả thế giới? […] Đúng hơn, chẳng
phải họ nên tự nhủ: “Khi còn sống, Người đã không chinh phục được một dân tộc
nào, còn chúng ta, chỉ nhân danh Người mà chinh phục được cả thế giới sao? Sẽ
chẳng phải là điên rồ nếu thực hiện một sứ mạng như vậy, ngay cả chỉ đơn thuần nghĩ
về nó thôi sao? Do đó, rõ ràng là nếu họ không nhìn thấy Người sống lại và
không có bằng chứng không thể chối cãi về sức mạnh của Người, thì họ sẽ chẳng bao
giờ phải đối diện với rủi ro như vậy [4].
Đối với tất cả những
bằng chứng này, người không tin chỉ có thể phản đối niềm tin rằng sự sống lại từ
cõi chết là một điều gì đó siêu nhiên và siêu nhiên không tồn tại. Và chính xác
tất cả những điều này là gì, nếu không phải là một thành kiến và một “tiên
thiên”?
Thánh Augustinô có
viết: “Đức tin của người Kitô hữu là sự phục sinh của Đức Kitô”. Và
thánh nhân nói thêm: “Mọi người đều tin rằng Chúa Giêsu đã chết, ngay cả những
tên vô lại cũng tin điều đó, nhưng không phải ai cũng tin rằng Người đã sống lại,
và bạn không phải là Kitô hữu nếu bạn không tin điều này” [5].
Đây là điều đúng đắn mà theo đó “Giáo hội đứng vững hay sụp đổ”. Trong
sách Công vụ, các Tông đồ được định nghĩa đơn giản là “những nhân chứng về cuộc
phục sinh của Người” (Cv 1,22; 2,32). Đây là lý do tại sao thật đáng
để làm mới lại đức tin của chúng ta vào sự phục sinh, trước khi cử hành phục
sinh theo Phụng vụ trong một vài tuần nữa.
* * *
Chỉ bây giờ, sau
khi tái khẳng định sự kiện lịch sử về sự phục sinh của Đức Kitô, chúng ta mới
có thể dành sự chú ý của mình vào ý nghĩa hiện sinh lời của Chúa Giêsu: “Ta
là sự sống lại và là sự sống”. Khi chú giải về tình tiết những người chết sống
lại và hiện ra ở Giêrusalem vào lúc Đức Kitô chịu chết (Mt 27, 52-53), Thánh
Lêô Cả viết:
“Hãy để những dấu chỉ của sự sống lại trong tương lai xuất hiện ngay bây
giờ trong Thành Thánh [tức là trong Giáo Hội], và những gì mà một ngày nào đó
phải được thực hiện trong thân xác, thì giờ đây được thực hiện trong tâm hồn”.
Cách tốt nhất để khám
phá ý nghĩa của sự sống lại của tâm hồn là xem sự phục sinh thể lý của Chúa
Giêsu đã mang lại những gì về mặt tâm linh trong cuộc đời của các Tông đồ.
Thánh Phêrô bắt đầu lá thư thứ nhất của mình bằng những lời cao cả này:
“Chúc tụng Thiên Chúa là
Thân phụ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được
tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Ðức Giêsu Kitô đã từ cõi chết
sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và
tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em” (1 Pr 1,3-4)
Điều kỳ lạ là từ
“hy vọng” lại không có trong lời rao giảng của Chúa Giêsu. Các Tin Mừng
thuật lại nhiều câu nói của Chúa Giêsu về đức tin và đức ái, nhưng không có câu
nào về niềm hy vọng, ngay cả khi - như chúng ta sẽ thấy sau này - tất cả những
lời rao giảng của Người đều công bố rằng có sự sống lại từ cõi chết và cuộc sống
vĩnh cửu. Mặt khác, sau lễ Phục sinh, chúng ta thấy ý tưởng và cảm giác hy vọng
bùng nổ, theo đúng nghĩa chữ, trong lời rao giảng của các Tông đồ. Chính Thiên
Chúa được định nghĩa là “Thiên Chúa của nguồn hy vọng” (Rm
15,13). Việc thiếu vắng những từ ngữ nói về niềm hy vọng trong Tin Mừng có thể
được giải thích một cách đơn giản: Đức Kitô trước hết phải chết và sống lại. Bằng
việc sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu mở ra nguồn hy vọng; Người khai mở chính
đối tượng của niềm hy vọng, đó là cuộc sống với Thiên Chúa bên kia cái chết.
Chúng ta hãy thử
xem niềm hy vọng dâng trào có thể tạo ra điều gì trong đời sống tâm linh của
chúng ta. Sách Công vụ Tông đồ kể lại những gì đã xảy ra một ngày nọ tại cửa đền
thờ Giêrusalem được gọi là "Cửa đẹp". Một người què nằm ở đó
xin bố thí. Một hôm, Phêrô và Gioan đi ngang qua, và chúng ta biết chuyện gì đã
xảy ra sau đó. Được chữa lành, người què nhảy lên và cuối cùng, sau bao nhiêu
năm bị bỏ rơi, anh cũng vượt qua cánh cửa này và bước vào đền thờ “nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa” (Cv 3,1-9).
Điều gì đó tương
tự cũng có thể xảy ra với chúng ta nhờ vào niềm hy vọng. Về phương diện tâm
linh, chúng ta cũng thường thấy mình ở vị trí của người què trước ngưỡng cửa Đền
thờ; trơ lì và nguội lạnh, như thể bị tê liệt trước những khó khăn. Nhưng này, niềm
hy vọng thần linh đi ngang qua chúng ta, được Lời Chúa mang theo, và cũng nói với
chúng ta, như Phêrô đã nói với người què, và như Chúa Giêsu đã nói với người bại
liệt: “Hãy đứng dậy, vác lấy
chõng của con mà đi về nhà!” (Mc 2,11). Và chúng ta đứng dậy và cuối cùng bước vào trung tâm của
Giáo hội, một lần nữa sẵn sàng vui vẻ đảm nhận các nhiệm vụ và trách nhiệm. Đây
là những phép lạ hàng ngày của niềm hy vọng. Hy vọng thực sự làm nên những điều
kỳ diệu, hy vọng khiến hàng ngàn người què đứng dậy, hàng ngàn lần. Quả thực – như ngôn sứ Isaia đã nói với chúng ta – hy vọng mang đôi cánh đại bàng vào chân họ và khiến
con người bước đi mà không vấp ngã.
Điều phi thường về
niềm hy vọng là sự hiện diện của nó thay đổi mọi thứ, ngay cả khi bề ngoài
không có gì thay đổi. Tôi có một ví dụ nhỏ về điều này trong cuộc sống của
chính tôi. Tôi là người phải khổ sở đối với cái lạnh nhiều hơn là với cái nóng.
Như chúng ta biết, đầu mùa xuân ở Ý vào tháng 3, nhiệt độ ít nhiều cũng tương
đương với cuối tháng 10 và đầu tháng 11. Ấy vậy mà tôi nhận thấy cái lạnh tháng
3 gây cho tôi ít vấn đề hơn cái lạnh tháng 11. Tôi tự hỏi tại sao, và cuối cùng
tôi đã tìm được câu trả lời: Cái lạnh của tháng 11 là cái lạnh vô vọng, bởi vì
chúng ta đang hướng tới mùa đông; còn cái lạnh của tháng 3 là cái lạnh hy vọng
vì chúng ta đang hướng tới mùa hè!
* * *
Thư gửi tín hữu
Do Thái so sánh niềm hy vọng với “cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn”. Chắc
chắn và bền vững vì hy vọng
không được ném xuống đất mà được tung trên trời, không phải trong thời gian nhưng
trong vĩnh cửu, “chìm sâu vào
bên trong bức màn cung thánh” (Dt 6,18-19). Hình ảnh niềm hy vọng này đã trở thành kinh điển.
Nhưng chúng ta còn có một hình ảnh khác, theo một nghĩa nào đó, đối lập với
hình ảnh trước đó - cánh buồm. Nếu mỏ neo là thứ mang lại sự an toàn và giữ cho
con thuyền đứng vững khi sóng biển dập dồn thì cánh buồm chính là thứ khiến con
thuyền chuyển động và tiến về phía trước trên biển cả.
Niềm hy vọng hoạt
động theo cả 2 cách, trên con thuyền Giáo hội lẫn con thuyền nhỏ cuộc đời chúng
ta. Hy vọng giống như một cánh buồm đón gió và âm thầm biến gió thành động lực tuỳ
nghi đưa con thuyền ra khơi hoặc vào bờ. Giống như cánh buồm trong tay của một
thủy thủ giỏi, có thể sử mọi cơn gió từ bất kỳ hướng nào, thuận lợi hay bất lợi,
để đưa con thuyền đi theo hướng mong muốn, niềm hy vọng cũng vậy.
Trước hết, niềm
hy vọng trợ giúp chúng ta trên hành trình thánh hóa bản thân. Đối với những người
thực hành nó, hy vọng trở thành nguyên tắc đích thực của sự tiến triển tâm
linh. Thật vậy, niềm hy vọng luôn cảnh giác để khám phá những “cơ hội tốt đẹp”
mới mẻ, bởi vì luôn có điều gì đó có thể hoàn thành. Vì vậy, hy vọng không cho
phép chúng ta rơi vào tình trạng thờ ơ và lười biếng. Hy vọng hoàn toàn trái
ngược với những gì đôi khi người ta nghĩ: hy vọng không phải là một khuynh hướng
nội tâm đẹp đẽ, và thi vị khiến bạn mơ mộng và xây dựng những thế giới tưởng tượng.
Trái lại, hy vọng
rất cụ thể và thực tế: dành thời gian đặt những nhiệm vụ mới trước mặt để hoàn
thành. Theo triết gia Kierkegaard, nếu ở trong một tình huống nhất định, hoàn
toàn không có gì để làm, thì đó sẽ là sự tê liệt và tuyệt vọng. Nhưng niềm hy vọng
hướng về sự vĩnh cửu nên luôn tìm ra điều gì đó để thực hiện hầu cải thiện tình
hình: làm việc chăm chỉ hơn, vâng lời hơn, khiêm tốn hơn, khổ chế hơn.
Khi bạn bị cám dỗ
để nói với chính mình: “Chẳng còn gì để làm nữa”, thì hy vọng sẽ tiến tới
và nói với bạn “Hãy cầu nguyện!” Bạn trả lời “Nhưng tôi đã cầu nguyện
rồi!” và hy vọng nói tiếp “Hãy cầu nguyện lần nữa!” [6].Và
ngay cả khi tình hình trở nên tồi tệ đến cùng cực, đến mức dường như thực sự chẳng
còn gì để làm nữa, thì niềm hy vọng vẫn cho chúng ta thấy một nhiệm vụ khác:
kiên trì cho đến cùng và không mất kiên nhẫn.
Những mục tiêu này
được triết gia tin tưởng nhấn mạnh là đòi hỏi khắt khe, thậm chí hết sức anh
hùng. Rõ ràng là chúng ta không thể thực hiện được những điều đó nhờ sức mạnh của
chính mình mà chỉ nhờ ân sủng của Thiên Chúa, Đấng đến trợ giúp chúng ta và
không bao giờ để chúng ta cô đơn.
Trong Tân ước, niềm
hy vọng có mối tương quan đặc biệt với sự kiên nhẫn. Hy vọng trái ngược với sự
thiếu kiên nhẫn, vội vàng, của “tất cả mọi thứ và ngay lập tức”. Hy vọng
là liều thuốc giải cho sự chán nản. Hy vọng giữ cho ước mơ sống động. Hy vọng
cũng là một nhà sư phạm tuyệt vời, theo nghĩa là hy vọng không đột nhiên nói
cho chúng ta biết mọi thứ cần phải làm hoặc có thể làm mà đưa ra cho chúng ta từng
khả năng một. Hy vọng chỉ cho “lương thực hàng ngày”. Hy vọng
phân phối nỗ lực và do đó giúp chúng ta có thể hoàn thành việc phải làm.
Kinh thánh không
ngừng làm sáng tỏ chân lý này: hoạn nạn không lấy đi nhưng làm tăng thêm niềm
hy vọng: “Ai gặp gian truân thì
quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được
công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy” (Rm 5, 3-4).
Hy vọng cần hoạn
nạn giống như ngọn lửa cần gió để tăng cường sức mạnh. Những lý do hy vọng trần
thế phải chết đi, hết lý do này đến lý do khác, để lý do đích thực không thể bị
lay chuyển đó là Thiên Chúa xuất hiện. Điều này giống như việc hạ thủy một con
tàu: cần phải tháo rời khỏi con tàu giàn giáo đã giữ mọi thứ lại với nhau một
cách giả tạo khi con tàu đang được xây dựng; các chân chống phải được lần lượt tháo
ra để con tàu có thể nổi và di chuyển tự do trên mặt nước.
Hoạn nạn lấy đi mọi
“điểm tựa” của chúng ta và làm cho chúng ta chỉ còn hy vọng vào Thiên
Chúa. Hoạn nạn dẫn đến trạng thái hy vọng hoàn hảo, hệ tại việc hy vọng khi
không còn gì để hy vọng (Rm 4,18), nghĩa là tiếp tục hy vọng bằng việc cậy
dựa vào Lời Chúa, ngay cả khi mọi lý do để hy vọng của con người đã biến mất. Đây
là niềm hy vọng của Đức Maria dưới chân thập giá. Lòng đạo đức bình dân không
sai khi kêu cầu Mẹ với danh hiệu Mater Spei, Mẹ của niềm hy vọng.
Sức mạnh biến đổi
của niềm hy vọng được mô tả một cách tuyệt vời trong đoạn văn của ngôn sứ Isaia:
Thanh niên thì mệt mỏi, nhọc nhằn, trai tráng cũng ngả
nghiêng, lảo đảo. Nhưng những người cậy trông Ðức Chúa thì được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ
tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân (Is 40,30–31).
Lời sấm là câu trả
lời cho lời than thở dân chúng: “Chúa không quan tâm đến số phận của tôi”.
Thiên Chúa không hứa loại bỏ những lý do gây mệt mỏi và kiệt sức, nhưng Ngài ban
niềm hy vọng. Tình thế vẫn như cũ, nhưng hy vọng mang lại sức mạnh để vượt thắng
nó. Điều này thực sự giống như được khoác lên mình đôi cánh.
Trong sách Khải
Huyền, chúng ta đọc rằng: “Khi Con Mãng Xà thấy mình đã bị tống xuống đất, nó liền đuổi bắt người
Phụ Nữ đã sinh con trai. Bà được ban cho đôi cánh đại bàng, để bay vào sa
mạc, vào nơi dành cho bà”
(Kh 12,13-14). Nếu hình ảnh đôi cánh đại bàng được lấy cảm hứng từ bản văn sách
ngôn sứ Isaia, thì điều đó có nghĩa là toàn thể Giáo hội đã được ban cho đôi
cánh hy vọng vĩ đại, để với đôi cánh này, Giáo hội có thể luôn luôn thoát khỏi những
cuộc tấn công của ma quỷ và vượt thắng mọi khó khăn. Chúng ta kết thúc bằng việc
lắng nghe lời kêu cầu mà Thánh Tông đồ Phaolô khẩn nài Thiên Chúa cho các tín hữu
Rôma ở cuối thư của ngài, và những lời này cũng dành cho chúng ta trong chính
thời điểm hiện nay:
Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui
và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề
hy vọng (Rm 15,13).
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: cantalamessa.org (15. 03. 2024)