Sáng thứ Sáu, ngày 14.03.2014, Linh mục Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap., giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng, đã có bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay thứ I cho Giáo triều Roma năm nay. Bài giảng có chủ đề là “Đông phương và Tây phương trước mầu nhiệm Chúa Thánh Thần”. Sau đây là toàn văn Việt ngữ bài giảng của ngài:

Linh mục Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap.

Bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho Giáo triều Rôma

Năm 2014 - Bài 1: VÀO HOANG ĐỊA VỚI ĐỨC GIÊSU

Bắt đầu Mùa Chay hàng năm, phụng vụ đọc cho ta nghe câu truyện Đức Giêsu vào trong hoang địa và ở đó bốn mươi ngày. Trong bài suy niệm này, dựa vào những gì xẩy ra với Chúa trong thời gian ấy, chúng ta muốn rút ra những chủ đề từ trình thuật của bài Phúc âm, để áp dụng cho đời sống chúng ta.

1. “Thần Khí dẫn Đức Giêsu vào hoang địa”

Chủ đề đầu tiên là về hoang địa hay sa mạc. Trên sông Giođan, Chúa vừa được tấn phong làm Đấng Cứu Thế, để đem Tin mừng cho người nghèo, chữa lành các tâm hồn tan vỡ, rao giảng Nước Thiên Chúa (x. Lc 4,18). Nhưng Chúa chưa vội làm những việc đó. Ngược lại, theo sự thúc đẩy của Thần Khí, Ngài vào trong hoang địa, và sống ở đó bốn mươi đêm ngày.

Hoang địa nói đây là sa mạc xứ Giuđêa, trải dài từ Giêrusalem xuống tới Giêricô, trong thung lũng sông Giođan. Truyền thống xác định nơi Chúa trú ngụ ngày xưa bây giờ là Núi Bốn Mươi, đối diện với thung lũng.

Theo dòng lịch sử, có rất đông những người nam nữ đã bắt chước Chúa vào sống trong hoang địa. Bên Đông phương, khởi sự từ thánh Antôn, họ vào sống trong sa mạc Ai cập và Palestine. Bên Tây phương không có sa mạc cát, thì họ sống ẩn dật ở những nơi hẻo lánh, cô quạnh, nơi thâm sơn cùng cốc hoặc thung lũng ở vùng sâu vùng xa.

Tuy nhiên, lời mời gọi theo Chúa vào hoang địa, không chỉ có các đan sĩ, ẩn sĩ nghe theo. Nó là lời mời gọi dành cho bất cứ ai, tuy có thể dưới những hình thức khác. Đan sĩ và ẩn sĩ chọn một nơi (không gian) trong sa mạc, còn chúng ta chọn ít nhất một lúc (thời gian) sống sa mạc.

Mùa Chay là dịp Giáo hội khuyến khích tất cả mọi người, tìm những khoảnh khắc sống sa mạc, nhưng không vì thế mà bỏ bê công việc hàng ngày. Thánh Augustinô đã đưa ra lời kêu gọi như sau: Tiên vàn hãy trở lại vào trong tâm hồn bạn. Bạn đang là người xa lạ với chính mình, do lang thang quá nhiều ở bên ngoài. Bạn không biết mình. Hãy tìm kiếm Đấng tạo nên bạn…Hãy trở vào trong tâm hồn bạn. Bạn sẽ thấy trong đó có hình ảnh của Thiên Chúa. Trong đời sống nội tâm của con người, có Chúa Kitô cư ngụ…[1]

Trở về với lòng mình. Nhưng lòng, hay trái tim hoặc tâm hồn, những hình ảnh mà Kinh thánh hay nói đến, biểu thị cái gì? Ở đây chúng ta không xét khía cạnh sinh lý, theo đó trái tim chỉ là một bộ phận, cho dù là bộ phận sinh tử cho thân xác ta. Chúng ta muốn nhấn mạnh khía cạnh siêu hình, coi lòng hay trái tim như một nơi sâu thẳm nhất của con người, của từng người, nơi mà mỗi người sống điều kiện làm người của mình. Đó là đời sống nội tâm, trong tương quan với Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của mình, và trong tương quan với người khác cũng như với tất cả tạo thành.

Trong ngôn ngữ thông thường, trái tim chỉ phần chủ yếu của một thực tại, trọng tâm của một vấn đề. Cũng vậy lòng hay tâm hồn của mỗi người là một nơi thiêng liêng, nơi ta có thể chiêm ngắm thực tại sâu xa nhất và đích thực nhất của ta, không dừng lại ở những khía cạnh bên lề, và không vật gì ngăn cản cái nhìn của ta. Lòng hay tâm hồn cũng là nơi sẽ bị xét xứ trong ngày sau hết, vì những việc lành dữ ta làm khi còn sống, đều phát xuất từ đó. Biết lòng dạ con người là xâm nhập vào nơi sâu thẳm của người đó, nhờ vậy mà biết người đó thế nào, có giá trị ra sao.

Vậy trở về với lòng mình là trở về với cái nội tâm nhất nơi ta. Thế mà, bất hạnh thay, nội tâm ấy lại đang gặp khủng hoảng. Một số lý do gây ra cuộc khủng hoảng này đã có từ lâu, gắn liền với bản tính con người. Chúng ta được cấu tạo bởi xác thịt và tinh thần, có khuynh hướng nghiêng về cái bên ngoài, cái hữu hình. Cũng như vũ trụ sau cú nổ lớn khởi đầu (big bang), chúng ta cũng ở trong giai đoạn bành trướng và xa rời trung tâm. “Mắt có nhìn bao nhiêu cũng chẳng thấy gì lạ, tai có nghe đến mấy cũng chẳng nghe được gì (Gv 1,8). Chúng ta thường xuyên rong chơi bên ngoài qua năm cửa sổ tức ngũ quan.

Thánh nữ Têrêxa Avila đã viết cuốn “Lâu đài bên trong”, một trong những kiểu nói hay nhất về nội tâm. Tiếc thay, vẫn còn có một lâu đài bên ngoài có thể giam giữ chúng ta, giam giữ ở ngoài nhà không cho chúng ta vào trong nhà. Chúng ta là tù nhân ở bên ngoài.

Thánh Augustinô đã có một nhận định khá cay đắng về cuộc đời của mình trước khi hoán cải. Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta có thể coi nhận định ấy là của mình. Thánh nhân viết: “Tuy khá muộn màng, con đã yêu mến Ngài, ôi Vẻ đẹp rất cũ mà cũng rất mới. Này đây Chúa ở bên trong mà con lại ở bên ngoài, và đây là nơi con tìm kiếm Chúa. Chúa đã ở với con mà con lại không ở với Chúa. Những thụ tạo này sẽ không tồn tại, nếu chúng không ở trong Chúa, chính chúng đã làm con xa Chúa” [2].

Hành động làm bên ngoài dễ đưa người ta tới chỗ giả hình. Ánh mắt của người khác có thể làm sai lệch ý định ngay thẳng của ta, như một số từ trường làm lệch sóng điện từ. Hành động ấy mất đi sự chính thực và phần thưởng của nó. Vẻ bên ngoài người ta thấy, quan trọng hơn thực chất. Vì vậy Đức Giêsu dạy ta ăn chay và bố thí mà đừng để cho người khác biết, dạy ta cầu nguyện trong nơi kín ẩn (Mt 6,1-4).

Nội tâm hóa là con đường đưa tới một đời sống chính thực. Ngày nay, người ta rất hay nói đến sự chính thực, coi nó là tiêu chuẩn của một cuộc sống thành đạt. Nhưng đối với người Kitô hữu, chính thực hệ tại đâu? Khi nào thì một người thực sự là mình? Có thể trả lời : Chỉ khi người đó nhận Thiên Chúa làm mẫu mực. Kierkegaard, triết gia hiện sinh người Đan Mạch, phát biểu: “Người ta nói nhiều về cuộc đời hư hỏng. Nhưng chỉ cuộc đời của người không bao giờ biết mình, mới hư hỏng thôi, vì trong ý thức sâu xa nhất của mình, người đó không bao giờ cảm thấy có một Thiên Chúa hiện hữu, không thấy cái tôi của mình đang đối diện với Thiên Chúa” [3].

Hơn ai hết, những người hiến thân để phục vụ Chúa cần phải trở về với nội tâm. Lên tiếng trước các bề trên của một dòng tu chiêm niệm, Đức Giáo hoàng Phaolô VI nói: “Chúng ta đang sống trong một thế giới dường như mắc một cơn sốt thấm nhập vào tận nơi thánh thiêng và cô tịch. Thực tế chỉ toàn là náo động và ồn ào khiến người ta không thể hồi tâm. Hay chia trí nên thường xuyên phung phí năng lực vào những hình thức khác nhau của văn hóa hiện đại. Sách báo tạp chí tràn ngập căn nhà và tâm hồn chúng ta. So với ngày xưa thì giờ đây khó mà tìm thấy cơ hội hoàn toàn dành cho Thiên Chúa”.

Một cách cụ thể, làm thế nào để tìm lại và duy trì thói quen nội tâm hóa? Hãy xem gương Môsê. Ai cũng thấy ông là con người hoạt động, nhưng ông đã cho làm một chiếc lều gọi là Lều Hội ngộ, có thể di chuyển đây đó. Sau mỗi cuộc hành trình, ông cho dựng căn lều này ngoài trại, để ở đó ông diện kiến Đức Chúa và đàm đạo với người như hai người bạn (Xh 33,7 tt).

Không phải ai cũng làm được như vậy. Không phải lúc nào cũng có thể vào nhà thờ, nhà nguyện, hay một căn phòng vắng vẻ nào đó để tiếp xúc với Chúa. Thì này đây, thánh Phanxicô Assisi giới thiệu cho ta một cách thức khác. Khi sai anh em đi rao giảng, ngài nói với họ : chúng ta luôn có một ẩn viện cùng đồng hành với ta. Khi nào muốn, ta có thể trở thành một ẩn sĩ nép mình trong đó. Ẩn viện này là thân thể ta, còn ẩn sĩ chính là tâm hồn. Như vậy, cho dù đi trên đường hay tại chỗ làm việc, ai nấy đều có thể có một căn phòng riêng, ẩn mình vào đó mà gặp gỡ Chúa.

Chúng ta kết luận phần đầu của bài suy niệm này bằng cách nghe lời khuyên của thánh Anselmô dành cho những ai đọc cuốn sách thời danh (Proslogion) của ngài: “Hỡi con người lầm than và yếu đuối, hãy dành một lúc rời khỏi công việc của mình, tránh xa những ý nghĩ ồn ào. Hãy để tâm trí xa rời những bận bịu. Hãy đi tìm Chúa một lát. Hãy đi vào cung thánh tâm hồn mình, loại trừ mọi sự khác, chỉ để lại một mình Thiên Chúa và những gì giúp bạn tìm kiếm Ngài. Khi đóng cửa xong thì thưa với Chúa : Con tìm kiếm thánh nhan Ngài, lạy Chúa, chính thánh nhan Ngài con tìm kiếm” [4].

2. “Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày”

Chủ đề thứ hai trong câu truyện Đức Giêsu vào hoang địa là ăn chay, chay tịnh. “Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói” (Mt 4,2).

Bắt chước Chúa ăn chay, chuyện đó ngày hôm nay có ý nghĩa gì? Ngày xưa, ăn chay là hạn chế ăn uống và kiêng thịt. Cách ăn chay này vẫn còn giá trị của nó, vẫn được khuyên nên làm, khi có lý do tôn giáo chứ không phải lý do sức khỏe hay thẩm mỹ. Do đó trong Mùa này, Giáo hội vẫn còn buộc ăn chay hai ngày Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng đây không phải là cách ăn chay duy nhất, cũng không cần thiết nhất.

Hình thức ăn chay cần thiết nhất và có ý nghĩa nhất cho ngày hôm nay là tiết độ, giản dị : không mua sắm hay sử dụng những tiện nghi thêm này khác, đừng bị lôi cuốn bởi những gì vô ích và đôi khi hại cho sức khỏe. Ăn chay như thế là có tinh thần liên đới với biết bao nhiêu người nghèo khổ, túng thiếu. Chúng ta hẳn nhớ những lời của Isaia, mà phụng vụ đọc cho ta nghe đầu mỗi Mùa chay: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục” (Is 58,6-7).

Ăn chay kiểu này cũng là một cách phản đối lại khuynh hướng của não trạng tiêu thụ, một não trạng thích những tiện nghi thừa thãi, coi đó là mục tiêu cho hoạt động của mình. Chúng ta không chạy theo não trạng ấy, không bị cám dỗ bởi một cuộc sống xa hoa, thừa mứa mọi sự, một cuộc sống dư tiện nghi với mọi điều kiện dễ dàng. Nói chung, chúng ta sống một cuộc đời giản dị, và giản dị thì hữu hiệu hơn là đề ra cho mình những việc sám hối chỉ có tính cách nhất thời và ngoài mặt. Hơn nữa, sống tiết độ giản dị cũng là vấn đề công bằng với các thế hệ mai sau, không để chúng phải nhìn thấy tài nguyên cạn kiệt vì sự phung phí bừa bãi của chúng ta. Đó cũng là giá trị của sự tiết độ giản dị về phương diện môi sinh, biết tôn trọng tạo thành…

Ngày nay, có một thứ chay tịnh còn cần thiết hơn chay tịnh lương thực : chay tịnh hình ảnh. Chúng ta đang sống trong một thế giới tràn ngập hình ảnh, một văn minh hình ảnh. Chúng ta đang trở thành những con người ngấu nghiến hình ảnh, mọi lúc, mọi nơi. Qua truyền hình, báo chí, phim ảnh, quảng cáo, làn sóng hình ảnh ồ ạt xâm nhập tâm trí ta. Nhiều hình ảnh dâm ô, bạo lực, độc hại, kích thích bản năng xấu xa nơi con người. Chúng được tạo ra cho mục tiêu này để cám dỗ ta.

Tuy vậy, có lẽ điều tệ hại nhất là chúng khiến người ta, nhất là những người trẻ, có những ý tưởng sai lạc, không đúng sự thực, về cuộc sống, với những hệ quả bao gồm trong đó. Chẳng hạn, một cách vô thức, người ta nghĩ rằng quảng cáo đưa ra những gì, thì phải có bằng được những thứ ấy, cho dù không phù hợp với hoàn cảnh của mình, điều kiện sống của mình.

Cần có bộ lọc, có thanh chắn, nếu không, tâm hồn chúng ta sẽ vẩn đục, thậm chí biến thành thùng rác chứa đựng mọi thứ dơ bẩn. Những hình ảnh đó không mất đi đâu, nhưng sẽ như một lực đẩy thúc giục chúng ta bắt chước, tác hại kinh khủng đến sự tự do, con người và đời sống chúng ta. Một triết gia duy vật, Feuerbach, đã nói: “Con người là cái mà nó ăn”. Giờ đây có lẽ nên đổi câu ấy thành: “Con người là cái mà nó nhìn”

Một thứ chay khác có thể làm trong Mùa này, là chay kiêng những lời nói độc địa. Phaolô khuyên: “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Ep 4,29).

Những lời nói xấu không chỉ là những lời thô tục, mà còn là những lời gắt gỏng, tiêu cực, nhắm vào cái xấu của anh em, những lời gây bất hòa và nghi kỵ. Trong đời sống gia đình hay cộng đồng, những lời nói như vậy có thể làm cho người khác thu mình lại, cảm thấy cay đắng và uất hận. Đó là thứ “giết người không gươm” đúng nghĩa. Thánh Giacôbê nói rằng lưỡi chứa đầy nọc độc chết người, nó có thể chúc tụng Thiên Chúa, mà cũng có thể nguyền rủa Người hay người anh em (x. Gc 3,5-12). Một lời nói có thể hại hơn một cú đấm.

Trong Phúc âm Matthêu, có một lời Đức Giêsu nói khiến người nghe phải run sợ: “Tôi nói cho các người hay : đến ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói” (Mt 12,36). Chắc chắn Chúa không lên án những lời vô ích theo nghĩa không cần thiết. Hiểu theo nghĩa thụ động, chữ argon (a=không ; ergon=công việc) dùng trong Phúc âm chỉ những lời nói thiếu nền tảng. Đó là những lời vu khống. Hiểu theo nghĩa năng động, đó là những lời không xây dựng gì cả, ngay cả để giúp thư giãn chẳng hạn, cũng không. Phaolô khuyên Timotê: “Những chuyện nhảm nhí, trống rỗng, anh hãy tránh xa, vì những kẻ nói những chuyện ấy sẽ tiến sâu vào con đường vô luân” (2 Tm 2,16)

Lời vô ích hay hư tự ngược lại với lời Thiên Chúa, được gọi là energes, tức lời sống động, hữu hiệu, mạnh mẽ và hữu ích cho mọi người (x.1 Tx 2,13 ; Dt 4,12). Theo nghĩa này, lời mà mọi người sẽ phải trả lẽ trong ngày phán xét, là những lời rỗng tuếch, thiếu đức tin, được nói ra do những người đáng lẽ phải nói lời Chúa, là “thần trí và sự sống”, nhất là khi người đó thi hành thừa tác vụ lời.

3.  “Đức Giêsu chịu quỷ cám dỗ”

Chúng ta sang yếu tố thứ ba của trình thuật Phúc âm, suy niệm về cuộc chiến đấu của Chúa chống lại Satan, chống lại các cám dỗ.

Nhưng trước hết, có quỷ không đã. Có phải quỷ chỉ một hữu thể cá nhân, có trí khôn và tự do, hay đây chỉ là một biểu tượng thuần túy, một cách nói để chỉ toàn bộ sự dữ luân lý trên thế giới, sự vô thức hay vong thân tập thể?

Trong nhiều câu chuyện Chúa chữa những người bị quỷ ám trong Phúc âm, bằng chứng về sự hiện hữu của quỷ là ít thấy. Một số bệnh tật không rõ nguồn gốc, những hiểu biết về y lý còn hạn chế, nên người ta nghĩ là do quỷ làm. Nhưng có một bằng chứng rõ rệt, đó là Đức Giêsu bị quỷ cám dỗ trong hoang địa.

Ngoài ra còn bằng chứng nữa nơi các thánh. Trong suốt cuộc đời của mình, vị thánh nào cũng phải không ngừng chiến đấu chống lại các quyền lực của bóng tối. Các ngài không phải là những anh hùng rơm, kiểu Don Khihôtê (Don Quichotte), chống lại các cối xay gió. Ngược lại, các ngài có tâm trí hoàn toàn lành mạnh, thấy rõ mọi chuyện. Thánh Phanxicô Assisi có lần đã thổ lộ: “Nếu các anh em biết tôi bị ma quỷ khuấy khuất như thế nào và bao nhiêu lần, hẳn là không ai không khóc thương tôi” [5].

Có người cho rằng tin vào ma quỷ là phi lý. Họ nghĩ thế vì họ chỉ dựa vào sách vở, làm con mọt sách trong thư viện, hoặc chỉ ngồi ở bàn giấy, trong khi quỷ không quan tâm tới sách vở, nhưng tới con người. Những người không bao giờ chứng kiến hay cảm nghiệm hoạt động của Satan, mà chỉ có ý tưởng về Satan thôi, nghĩa là chỉ biết những gì  truyền thống văn hóa, tôn giáo, chủng tộc nói về Satan, thì đúng là không biết gì về nó. Họ còn cho rằng bày đặt chuyện ma quỷ hù dọa là chính sách ngu dân thời Trung cổ. Họ giống như những người tự phụ là không sợ sư tử, vì chỉ thấy nó trong tranh hay trong hình chụp.

Thường ra, người không tin có Thiên Chúa thì cũng không tin có quỷ. Như thế còn đỡ, đỡ hơn những người không tin có Thiên Chúa mà lại tin có quỷ. Cứ mở mắt nhìn coi, ta sẽ thấy đây là điều đang xẩy ra trong xã hội hiện nay. Ma quỷ, Satan và vô số hiện tượng khác đang là những chuyện thời sự. Thế giới công nghệ, công nghiệp hóa, tưởng là văn minh tiến bộ xua tan bóng tối, ai ngờ lại nhung nhúc những phù thủy, thày pháp, nhà thông linh, chiêm tinh, bói toán, bùa ngải. Có cả tôn giáo thờ Satan nữa. Đuổi được quỷ ra khỏi cửa chính, nó lại lẻn vào qua cửa sổ, nghĩa là bị đức tin xua đuổi, nó trở lại qua mê tin.

Điều quan trọng nhất mà đức tin dạy chúng ta, không phải là có Satan, nhưng là Đức Kitô đã chiến thắng Satan. Đối với người Kitô hữu, Đức Kitô và Satan không phải là hai nguyên lý ngang bằng nhau và trái ngược nhau, như một số tôn giáo nhị nguyên quan niệm. Một mình Ngài là Chúa duy nhất, còn Satan chỉ là thụ tạo chống lại Thiên Chúa thôi. Nếu Thiên Chúa ban cho nó có quyền trên con người, chính là để con người có thể tự do chọn chiến tuyến, và để họ “đừng tự cao tự đại” (x.2 Cr 12,7), tự mãn, không cần Đấng Cứu Thế nào hết.

Với Đức Kitô, chúng ta không có gì phải sợ. Không gì và không ai có thể làm hại được chúng ta, nếu chúng ta không muốn. Một Giáo phụ ngày xưa đã nói : Sau khi Đức Kitô đến thế gian, thì Satan giống con chó bị cột ở hàng dậu. Nó có thể sủa, có thể chồm về phía ta nếu muốn, nhưng không thể đến gần và cắn ta được. Trong hoang địa, Đức Kitô đã được giải thoát khỏi Satan, để giải thoát ta khỏi Satan.

Phúc âm nói Chúa chịu ba cám dỗ liên tiếp: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này biến thành bánh đi”, “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi”, “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi”. Những cám dỗ này nhắm một mục đích : không muốn Chúa thi hành sứ mệnh của mình, làm Chúa quên đi mục tiêu mà vì đó Ngài xuống thế, thay thế chương trình của Chúa Cha bằng một chương trình khác. Lúc Chúa nhận lễ rửa, Chúa Cha đã chỉ cho Ngài con đường của Người Tôi Tớ vâng phục, giải cứu nhân loại bằng sự khiêm nhường và đau khổ. Nhưng Satan lại đề nghị với Ngài con đường vinh quang chiến thắng, con đường mà mọi người lúc ấy trông chờ nơi Đấng Cứu Thế.

Ngày hôm nay, Satan cũng cố gắng cám dỗ người ta xa rời mục đích trong cuộc đời trần gian của mình, là nhận biết, yêu mến và phục vụ Thiên Chúa. Nó muốn con người không còn nhớ đến chuyện đó, đưa họ ra chỗ khác, đi theo hướng khác. Để làm công việc này, Satan tỏ ra rất khôn khéo và quỷ quyệt (quỷ quyệt là hành động của quỷ!). Nó không hiện nguyên hình ra đâu, vì như vậy dễ thấy quá. Nó sử dụng những điều tốt, nhưng mang đến quá nhiều cho con người, biến chúng thành tuyệt đối, không có không được, thành thần tượng, không theo không được. Nếu chúng ta coi đó là quan trọng nhất, coi đó là mục đích chứ không phải phương tiện, khi ấy, chúng sẽ phá hoại linh hồn chúng ta, thậm chí cả thân xác chúng ta nữa.

Một ví dụ liên hệ đến điều chúng ta đang nói : sự giải trí, thư giãn. Trò chơi là một chiều kích cao thượng của con người. Chính Thiên Chúa cũng truyền cho chúng ta phải nghỉ ngơi. Điều tệ hại là biến trò chơi thành mục đích của đời sống, suốt tuần chỉ chờ đợi chiều thứ bẩy, hoặc một trận đấu bóng chiều Chúa nhật. Đấy là chưa kể còn nhiều trò chơi khác không lành mạnh lắm. Trong trường hợp này, giải trí thay đổi ý nghĩa : thay vì phục vụ cho sự thăng tiến con người, giúp họ bớt đi những mệt nhọc và căng thẳng trong việc làm, trong kế sinh nhai, thì lại khiến họ mệt nhọc hơn nơi thân xác, tốn phí hơn về tiền của, không được thanh thản nhàn nhã nơi tinh thần…

Thánh thi Giờ Kinh sách ngày Chúa nhật Mùa chay có lời mời gọi như sau :

Ta hãy giảm mê say vui sướng
Từ nói năng ăn uống ngủ nghê
Đến ngay giải trí thường khi
Cũng con nhất mực bỏ đi nữa là

(Theo bản dịch cũ. Còn theo bản dịch mới, hai câu lục bát cuối được sửa thành : Tâm hồn thể xác đôi bề, Tập quen khắc khổ thiết gì xa hoa).

Đây là thời gian khám phá lại những vấn đề thiết yếu trong cuộc đời : Ta từ đâu mà đến? Sống để làm gì và cho ai? Con đường đang đi dẫn ta tới đâu? …

4.  Tại sao Đức Giêsu vào hoang địa?

Tại sao sau khi nhận lễ rửa, Đức Giêsu lại vào trong hoang địa?  Có phải Ngài muốn để Satan cám dỗ chăng? Không phải. Chắc hẳn Ngài không nghĩ như thế. Chẳng ai dại gì tự ý đi tìm kiếm thử thách của Satan. Chính Chúa cũng đã dạy ta cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ. Cám dỗ là sáng kiến và hành động của Satan, được  Chúa Cha cho phép, để làm vinh danh Con mình, và làm bài học cho ta.

Vậy phải chăng Chúa vào hoang địa để ăn chay? Có phần đúng, nhưng không nhất thiết để làm việc đó. Điều chính yếu là : Ngài vào đó để cầu nguyện. Sau này chúng ta thấy, mỗi khi Chúa đi vào hoang địa hay nơi thanh vắng, thì luôn luôn là để cầu nguyện, để gặp gỡ Chúa Cha. Ngài vào đó với tư cách con người, để hài hòa với ý muốn của Chúa Cha, suy nghĩ về sứ mệnh mà tiếng của Chúa Cha cho Ngài thoáng thấy lúc nhận lễ rửa : sứ mệnh của Người Tôi Tớ vâng phục, đến cứu chuộc con người bằng đau khổ và nhục nhã. Nói tắt, Chúa vào đó để cầu nguyện và sống thân mật với Chúa Cha.

Đây cũng là mục đích chính của Mùa chay. Chúng ta vào hoang địa, không phải chỉ để lìa xa một điều gì đó – tiếng ồn ào, náo động, công việc, v.v - nhưng để tìm thấy một điều gì đó, hoặc, đúng hơn, tìm thấy một Ai đó. Chúng ta vào hoang địa không chỉ để tìm lại mình, để tiếp xúc với “cái tôi” sâu thẳm của mình, như thấy trong nhiều hình thức chiêm niệm nơi các tôn giáo không phải Kitô giáo. Người Kitô hữu vào hoang địa, đi vào tận đáy lòng, để nối lại mối dây thân tình với Chúa, vì biết rằng Chân lý là Thiên Chúa cư ngụ nơi con người nội tâm của mình.

Bí mật của hạnh phúc và bình an trong cuộc đời là ở đó. Còn muốn gì hơn khi một người yêu được một mình sống thân mật với người mình yêu? Thiên Chúa là người yêu ta và muốn ta yêu Ngài. Người nói với dân riêng như nói với người yêu: “Ta đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình” (Hs 2,16). Khi hai người yêu nhau thì mọi sự và mọi người như lui về phía sau làm hậu cảnh. Tình yêu giữa Chúa và ta khiến cho mọi sự khác thành thứ yếu, nhưng không làm người khác xa cách, vì đây là một tình yêu lan tỏa, rộng mở. Nhờ tình yêu ấy mà hạnh phúc và bình an chúng ta vẫn mò mẫm tìm kiếm, không ngờ lại gần gũi đến vậy.

Chúa đang chờ đợi ta trong hoang địa. Đừng để Ngài một mình trong suốt thời gian này.

LM Micae Trần Đình Quảng
Chuyển ngữ từ: cantalamessa.org (14.03.2014)

Nguồn: simonhoadalat.com





[1] Saint Augustine, In Ioh. Ev., 18, 10 (CCL 36, p. 186).

[2] Saint Augustine, Confessions, X, 27.

[3] S. Kierkegaard, The Sickness unto Death, II, in Works, edited by C. Fabro, Florence 1972, p. 663.

[4] Saint Anselm, Proslogion, 1, (Opera Omnia, 1, Edinburgh 1946, p. 97).

[5] Cf. Speculum perfectionis, 99 (FF1798).