Ba cái nhìn về nhân vị theo Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Thần học về Thân xác của Thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolô II bàn về ba tình trạng của con người. Con người trước khi phạm tội (Con
người Nguyên thủy), con người sau khi Sa ngã (Con người Lịch sử), tức là tình
trạng hiện tại của chúng ta, và cuộc sống của chúng ta với Thiên Chúa trên
thiên đàng sau Cuộc Tái lâm của Đức Kitô (Con người Cánh chung).
Con người
nguyên thủy
Tình trạng con người nguyên thủy liên quan đến hai
người: Ađam và Evà. Họ ngắm nhìn nhau với “tất cả bình an của cái nhìn nội
tâm”. Thiên Chúa đi dạo giữa họ, gợi lên một sự thân thiết với Đấng tạo hóa mà
chúng ta chỉ có thể tưởng tượng mà thôi. Tội lỗi chưa chạm tới cuộc sống của
Ađam và Evà. Nết xấu, sự sa đọa và nỗi tuyệt vọng nằm bên ngoài kinh nghiệm của
họ.
Ranh giới giữa tình trạng con người nguyên thủy và
con người lịch sử là cây biết thiện ác. Con người là nhân vị duy nhất trong khu
vườn. Các động vật không phải là những nhân vị. Chúng không thể canh tác đất
đai hay chăm sóc khu vườn, càng không có sự lựa chọn, chiêm ngắm, và yêu thương
như con người vốn được kêu gọi để thực hiện.
Trước khi phạm tội, toàn bộ thế giới là đền thờ,
nơi mà con người phụng thờ một Thiên Chúa chân thật. Con người sở hữu toàn bộ
sự thánh thiện và công chính nguyên thủy. Với tội lỗi của Ađam, thế giới không
còn là đền thờ nữa. Thiên đường đã mất.
Thánh Gioan Phaolô II bắt đầu những suy tư của
mình về “Con người Nguyên thủy” bằng cách phân tích đoạn Tin mừng Mt 19,3-8,
trong đó, những người Pharisiêu đặt vấn đề với Chúa Giêsu về việc chấp thuận ly
dị. Chúa Kitô trả lời rằng ly dị không nằm trong kế hoạch nguyên thủy của Thiên
Chúa dành cho con người. Chúa Giêsu bắt đầu và kết thúc câu trả lời của mình
bằng việc nhắc đến cụm từ “lúc khởi đầu”. Cuộc tranh luận này cho thấy rằng đã
có một thời (“lúc khởi đầu”) con người không cần đến ly dị, đúng như ý định của
Thiên Chúa.
Con người lịch sử
Sau khi Sa ngã, tội lỗi xâm nhập vào cuộc sống con
người cùng với dục vọng và cái chết. Toàn thế giới không còn là một đền thờ.
Việc xây dựng một đền thờ để thờ phượng Thiên Chúa trở nên cần thiết. Hơn nữa,
con người cần thánh hóa hoặc thanh tẩy chính mình trước khi tiến vào chốn thánh
thiêng này. Mọi thứ trong thế giới được tạo thành đã bị xâm phạm bao gồm cả bản
tính con người, mối tương quan của chúng ta đối với chân, thiện, mỹ, với thế
giới tự nhiên, tương quan với nhau và với Thiên Chúa.
Trong suy tư của ngài về “Con người Lịch sử”,
Thánh Gioan Phaolô II chú trọng đến những lời sau đây của Chúa Kitô: “Anh em đã
nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai
nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”
(Mt 5,27-28).
Lời khuyên răn của Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta
rằng ngoại tình xâm phạm đến cam kết cá nhân giữa vợ chồng và đi ngược lại sự
chung thủy vợ chồng. Hành vi quan hệ giữa hai vợ chồng là một “dấu chỉ chân
thực” của giao ước tình yêu mà hai người đã thề nguyền để trở nên một thân thể,
tâm trí và một linh hồn với nhau. Tội ngoại tình (hay bất kỳ hành vi quan hệ
tính dục ngoài hôn nhân nào) làm đổ vỡ sự hiệp nhất cùng với sự thánh thiêng,
nhân vị sâu xa, sự biểu lộ tình yêu của con người trong đời sống vợ chồng. Khi
quan hệ tính dục ngoài hôn nhân, cặp đôi ngoại tình phạm tội lừa dối với thân
xác của mình.
Suốt dòng lịch sử, chúng ta thấy được một số giáo
huấn của Chúa Kitô về tội ngoại tình như một sự kết án thân xác. Thánh Gioan
Phaolô II làm sáng tỏ ý nghĩa mà Chúa Cứu thế muốn diễn đạt. Hiểu cách chính
xác, giáo huấn của Chúa Kitô là lời kêu gọi để con tim nhắc nhở chúng ta biết
yêu thương cách vị tha, chứ không phải là kết án con người và nhu cầu xác thịt.
Con người
cánh chung
Vào thời của Chúa Kitô,
tục cưới chị dâu đã được truyền lại. Nếu một người phụ nữ Do thái góa chồng và
không có con, khi đó, một anh em của người chồng quá cố buộc phải cưới chị ta
để sinh con nối dõi. Những người Sađốc thử đặt bẫy Chúa Giêsu với một câu hỏi
liên quan đến đời sống vợ chồng như thế (Mc 12,20-27). Nếu một phụ nữ góa bụa
liên tục kết hôn đến sáu lần theo Tục cưới chị dâu, mà cả bảy người chồng đều
qua đời, vậy ai sẽ là chồng của chị ở cuộc sống đời sau? Chúa Giêsu trả lời
rằng những ai sống lại từ cõi chết “thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ
giống như các thiên thần trên trời” (Mc 12,25). Thân xác được phục sinh của
chúng ta vẫn giữ lại giới tính nam hay nữ, nhưng đây sẽ là “một thân xác thiêng
liêng khác với cuộc sống trần thế”. Thân xác thiêng liêng này sẽ giải thoát
chúng ta khỏi “sự đối lập” giữa tinh thần và thể xác, đem lại cho chúng một sự
hòa hợp hoàn hảo. Điều này sẽ được Thiên Chúa thực hiện bằng cách thông ban
chính thần tính của Người, không chỉ cho linh hồn, mà còn cho toàn thể con
người hiệp nhất trong một thân xác, tinh thần và linh hồn. Thánh Gioan Phaolô
II lưu ý rằng trong tình trạng phục sinh, Hôn nhân và sinh sản mất đi lý do
hiện hữu của nó.
Sau Chung Thẩm, “Con người lịch sử” sẽ nhường chỗ
cho “Con người Cánh chung”; người tốt sẽ tận hưởng Phúc kiến, nhìn thấy Thiên
Chúa mặt đối mặt, và cảm nghiệm được hạnh phúc viên mãn. Lịch sử Cứu độ sẽ kết
thúc khi đạt được mục đích tối hậu của mình, tình yêu sẽ chiến thắng sự dữ, và
bóng tối sẽ không còn.
Matthew Coffin
Minor Greg chuyển ngữ bigccatholics.blogspot.com
Nguồn: gpquinhon.org