TÂN PHÚC-ÂM-HOÁ HAY TÂN-PHÚC-ÂM HOÁ?
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
MỤC LỤC
1. “Tân Phúc Âm hoá”: vấn đề mang tính thời sự
2. Evangelization: Phúc Âm hoá.
3. Nghĩa các chữ tân, phúc, âm, hoá.
4. New Evangelization: Tân-Phúc-Âm hoá?
4.1. Tân Phúc Âm - Đức tin loại gì đây?
4.2. Cũng tại thiếu cái dấu...
5. New Evangelization: Tân Phúc-Âm-hoá.
6. Re-Evangelization: Tái Phúc Âm hoá.
7. Renewed Evangelization: Cách tân truyền giảng Phúc Âm.
1. “Tân Phúc Âm hoá”: vấn đề mang tính thời
sự
Dưới nhan đề: “Vatican đang nỗ lực
khuếch trương ‘Tân Phúc Âm hoá’”, John L. Allen Jr., chuyên gia nghiên cứu kỳ cựu
về Vatican của tờ National Catholic Reporter và cũng là phóng viên của đài truyền
hình CNN, trong bài viết ngày 04/03/11, ông nói:
“Trong một triều đại giáo tông mà đôi khi bị buộc tội là thiếu hướng
hành chính, toàn bộ Vatican dưới triều của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI ít nhất
đã bị buộc chặt vào một điểm: Tính cấp thiết của một cuộc “tân Phúc Âm hoá”
Bằng mọi cách có thể, Đức Thánh Cha Bênêđictô đã cho thấy rằng ngài
đang quan tâm đến việc “tân Phúc Âm hoá”, hiểu một cách rộng rãi là đánh thức
tinh thần truyền giáo trong Giáo Hội, như là một ưu tiên tột đỉnh. Ví dụ: Mặc
dù nổi tiếng là luôn có ác cảm với các bộ máy quan liêu, nhưng gần đây ĐTC
Bênêđictô XVI đã phải thành lập ngay tại Vatican một cơ quan hoàn toàn mới để
xúc tiến dự án, Hội Đồng Giáo Tông Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá. Ngài đã bổ nhiệm
một chức sắc người Ý, kỳ cựu và đầy quyền lực, là Đức Tổng Giám Mục Rino
Fisichella, đứng đầu Hội Đồng này, và một danh sách thành viên Hội Đồng gồm các
vị giáo sĩ cao cấp trong Giáo Hội Công Giáo từ khắp nơi trên thế giới, trong đó
có Đức Hồng Y Christoph Schönborn của Vienna, ĐHY Angelo Scola của Venice, ĐHY
George Pell của Sydney, và Đức Tổng Giám Mục Timothy Dolan của New York.
ĐTC Bênêđictô cũng đã dành cho Thượng Hội Đồng Giám Mục - một cuộc họp
của các giám mục từ khắp nơi trên thế giới sẽ diễn ra từ ngày 07-28/10/2012 - sắp
tới, một chủ đề “Tân Phúc Âm hoá để thông truyền đức tin Kitô giáo”[1] mà Bản đề cương (Lineamenta) của Thượng Hội Đồng đã được trình bày
trong cuộc họp báo sáng nay tại Vatican.”[2].
Tự Sắc Porta Fidei công bố khai mạc
năm Đức Tin ngày 11/10/2012 cũng nhắc đến tân Phúc Âm hoá[3].
Hơn thế nữa, trong Sứ điệp dài 4 trang giấy khổ Letter, Hội nghị toàn thể lần
thứ X của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã dành cả 2 trang để nói về một số chiều
kích cơ bản của “nền linh đạo tân Phúc Âm
hoá”.
Vài sự kiện nêu trên cho thấy tầm
quan trọng của vấn đề tân Phúc Âm hoá đối với Giáo Hội hiện nay như thế nào.
Tân Phúc Âm hoá tiếng Anh là New
Evangelization, nhưng có người lại không thể hiểu được tại sao tiếng Việt dịch
là “tân Phúc Âm hoá”, có người còn cho rằng nói như thế là rối đạo. Vậy chúng
ta thử tìm hiểu New Evangelization có nghĩa gì, và nên dịch như thế nào trong
tiếng Việt.
2. Evangelization: Phúc Âm hoá.
Chữ này phát xuất từ động từ
Evangelise (truyền giảng Phúc Âm) và Evangelise có nguồn gốc từ danh từ Evangel
(Phúc Âm).
Chúng tôi đã có dịp bàn tới hai
thuật từ Phúc Âm và Phúc Âm hoá trong hai bài “Evangelium” và “Missio” đăng
trong nguyệt san Bài giảng Chúa nhật[4]
và đăng lại trong quyển “Tìm hiểu từ vựng Công Giáo”[5].
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP. đã tầm nguyên và phân tích về hai thuật từ
Evangelizatio và Missio rất công phu trong bài đăng trong bản tin Hiệp Thông số
73[6]. Vì vậy ở đây, chúng tôi chỉ
xin nhắc lại mấy ý chính:
2.1. Evangelium (Anh:
Evangel; Pháp: Évangile) được dịch là Phúc Âm hay Tin Mừng, nhưng theo chúng tôi, thuật từ Phúc Âm có nội dung phong phú và
sâu sắc hơn, bao hàm mọi điều thiện hảo mà con người mơ ước theo triết lý Đông
phương và như vậy có tính hội nhập văn hoá cao hơn.
2.2. Thuật từ Evangelizatio xuất hiện từ thế kỷ XIX
và được du nhập vào thần học Công Giáo vào thế kỷ XX, đặc biệt từ Công Đồng
Vaticanô II[7]. ĐTC Phaolô VI sử dụng từ
này với hai nội dung chính là truyền bá Phúc Âm (hoạt động truyền giáo cho
lương dân) và Phúc Âm hoá (hoạt động tông đồ cho giáo dân)[8].
Evangelizatio (Anh:
Evangelization; Pháp: Évangélisation) là "đem Phúc Âm đến cho tất cả mọi tầng lớp nhân loại, để rồi, nhờ ảnh hưởng
của Phúc Âm, biến đổi nhân loại từ bên trong và làm cho nhân loại nên mới"
(EN 18). Đưa Phúc Âm vào lòng người, vào cách suy nghĩ, cách hành động của con
người, vào các lãnh vực hoạt động như xã hội, văn hoá, chính trị, kinh tế...
Nói cách khác là đem các giá trị Phúc Âm thấm nhuần vào trong các thực tại trần
thế như men ở trong bột. Vì vậy, nếu hiểu cách tổng quát Evangelizatio được thực
hiện vừa bằng lời nói, vừa bằng chứng tá đời sống cũng như bằng những hoạt động
để biến đổi mọi sự cho hợp với tinh thần Phúc Âm.
2.3. Evangelizatio thường được dịch là (việc, cuộc, công cuộc) Phúc
Âm hoá, truyền bá Phúc Âm, truyền giảng Phúc Âm, loan báo Tin Mừng, rao giảng
Tin Mừng, việc truyền giáo... Tuy nhiên, theo chúng tôi, các từ truyền bá, truyền
giảng, rao giảng, loan báo, loan truyền... không có ý nghĩa tổng quát như chữ
“hoá” trong từ Phúc Âm hoá. Là một
nguyên vị tiềm tàng[9] giữ vai trò hậu tố từ,
"hoá" tạo ý nghĩa là: biến đổi, làm cho thấm nhuần hoặc làm cho trở
thành... Do đó, so với các cụm từ truyền bá Phúc Âm, truyền giảng Phúc Âm
hay loan báo Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng.... thì thuật từ Phúc Âm hoá vừa ngắn gọn, lại có nội dung bao quát, phong phú và diễn
tả ý niệm Evangelizatio thích hợp hơn.
2.4. Về mặt từ ngữ, chúng ta có thể định nghĩa: Phúc Âm hoá là
làm cho thấm nhuần tinh thần Phúc Âm. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã
cung cấp một định nghĩa khác: “Phúc Âm
hoá, nghĩa là loan báo Ðức Kitô bằng đời sống chứng tá và lời nói” (Số
905).
3. Nghĩa các chữ tân, phúc, âm, hoá.
3.1. Nghĩa của tân.
Tân
Tân nghĩa là (dt.) (1) Mới: Thôi trần xuất tân (trừ cái cũ đi, đem cái mới ra). (2) Họ Tân. (3) Quốc hiệu của Vương Mãng sau khi cướp ngôi nhà Hán (năm 8-22). (đt.) (4) Thay đổi cho mới: Nhật tân hựu tân (ngày càng đổi mới). (tt.) (5) Những cái mới: Tân y (áo mới). (6) Những gì mới xuất hiện: Tân sinh nhi (con mới sinh ra). (7) Những người hay vật thuộc về thời gian mới cưới: Tân phòng (phòng cưới). (pht.) (8) Mới bắt đầu: Tân tả (mới viết).
Nghĩa Nôm: (dt.)
(1) Xử nữ: Gái tân. (2) Màng trinh: Còn tân.
3.2. Nghĩa của phúc.
3.3. Nghĩa của âm.
3.4. Nghĩa của hoá.
Hoá có nghĩa là (dt.) (1) Giáo dục: Giáo hoá. (2) Tập tục: Phong hoá. (3) Trời đất hay số mệnh: Tạo Hoá. (4) Lễ, nhạc, chế độ: Văn hoá. (5) Lấy ân nghĩa mà dạy: Đức hoá. (đt.) (6) Thay đổi: Thiên
biến vạn hoá. (7) Trời đất sinh thành vạn vật: Hoá dục. (8) Chết: Vật hoá.
(9) Dần dần ít đi, có rồi lại không còn: Tiêu
hoá. (10) Thiêu huỷ: Hoả hoá.
(10) Ăn xin: Hoá duyên. (11) Đặt
sau danh từ hay tính từ, để chuyển biến trạng thái hay tính chất của vật:
(i) thay đổi tính chất: ảo hoá, Âu hoá, ẩn
dụ hoá, bần cùng hoá, bình thường hoá, biệt hoá, cá biệt hoá, cá tính hoá, cải
hoá, cảm hoá, công hữu hoá, công nghiệp hoá, cơ khí hoá, cụ thể hoá, chính quy
hoá, chính thức hoá, chuẩn hoá, chuẩn mực hoá, dân chủ hoá, dị hoá, đa dạng
hoá, điện khí hoá, đồng bộ hoá, đồng hoá, đơn giản hoá, hiện đại hoá, hợp thức
hoá, khái quát hoá, lý tưởng hoá, nhân cách hoá, phàm tục hoá, phân hoá, phức tạp
hoá, tập thể hoá, thần bí hoá, tổng quát hoá, tuyệt đối hoá, tư bản hoá, tự động
hoá... (ii) làm cho trở thành: cốt
hoá (hoá xương), dẻo hoá, điện hoá, lưu hoá, nhũ hoá, nhựa hoá, ion hoá, oxy
hoá, khí hoá, từ hoá, xà phòng hoá, mã hoá...
Trong từ Phúc Âm hoá, hoá có vai
trò hậu tố từ, nghĩa là làm cho thấm nhuần.
Nghĩa Nôm: Goá: Hoá vợ.
4. New Evangelization: Tân-Phúc-Âm hoá?
4.1. Tân Phúc Âm - Đức tin loại gì đây?
Có người thắc mắc: "Nói đến Đức Tin Công Giáo mà nói đến “tân
phúc âm, tân tin mừng” là nói đến đức tin loại gì đây?" - Chúng tôi thử
vào Google để tìm kiếm cụm từ "tân phúc âm" và "tân tin mừng",
thì không thấy chỗ nào nói Tân Phúc Âm hay Tân Tin Mừng mà chỉ có Tân Phúc Âm hoá
hay Tân Tin Mừng hoá mà thôi!
Thiết nghĩ: Người Công Giáo, dù
là tân tòng, cũng hiểu rằng Hội Thánh Công Giáo là "duy nhất", và vì
duy nhất trong đức tin nên không có chuyện "Tân Phúc Âm" hay
"Tân Tin Mừng"[12]. Thực ra chữ "Tân Phúc
Âm" cũng đã có người sử dụng rồi. Tự điển của Lm. Vũ Kim Chính[13] dùng chữ này để dịch chữ
Neo-Evangelism, danh xưng của một giáo phái Tin Lành[14].
Cho nên, nếu hiểu Tân Phúc Âm là một giáo phái, thì "Tân Phúc Âm hoá"
(nếu có) sẽ có nghĩa là "làm cho trở thành tín đồ Tân Phúc Âm". Nhưng
trong thực tế, anh em Tin Lành dịch từ Neo-Evangelism là "Phong trào Tin
Lành Hiện đại", chứ không sử dụng từ Tân Phúc Âm.
4.2. Cũng tại thiếu cái dấu...
Tôi nhớ khi cha già Phaolô Nguyễn
Huỳnh Điểu - cha sở Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn - từ trần, một cha khẩn cấp báo tin
cho bạn bè của ngài bên Paris: "DIEU EST MORT"! Các cha bên Pháp đã hết
sức kinh ngạc, không thể hiểu nội dung của bức điện nên phải liên lạc hỏi lại...
Cũng tại chữ "Điểu" đã viết thành chữ "Dieu" (Thiên Chúa).
Có lẽ ở đây cũng tương tự, từ
ghép Tân Phúc Âm hoá có hai cách hiểu về trật tự cấu tạo của nó:
Trước năm 1975, tại miền Nam, người
ta thêm dấu gạch nối (-) giữa những mục từ ghép Hán Việt hoặc thuần Việt. Như
trường hợp trên, tân Phúc Âm hoá là từ ghép có cấu trúc theo quan hệ cú pháp
thuận Hán, tức tĩnh từ tân đứng trước
danh từ Phúc Âm hoá. Để hiểu "tân" là từ bổ nghĩa cho "Phúc Âm
hoá", người ta viết là: "tân Phúc-Âm-hoá", Phúc-Âm-hoá là một mục
từ được giải thích theo nghĩa riêng biệt của mục từ này mà không bị hiểu sai.
Còn muốn chỉ "hoá" là hậu tố từ của "Tân-Phúc-Âm" thì viết
là: "Tân-Phúc-Âm hoá". Nay bỏ gạch nối giữa những từ ghép ấy làm cho
nhiều người không thể hiểu nổi những danh từ kép hay từ ghép biệt nghĩa.
Đã có người đề nghị Quốc Hội cho
dạy lại Hán Nôm trong trường học, điều này hoàn toàn không thực tế. Để giải quyết
vấn để, chúng ta chỉ cần phục hồi dấu gạch nối trong những trường hợp nói trên,
vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng hơn.
5. New Evangelization: Tân Phúc-Âm-hoá.
5.1. “New Evangelization”
là tên gọi được dành cho kế hoạch của Hội Thánh muốn thể hiện một cách mới mẻ sứ
mệnh cơ bản của Hội Thánh, căn tính và lý do hiện hữu của Hội Thánh[15]. Để có thể hiểu chính xác
nguồn gốc và nội dung của thuật từ này, thiết tưởng không gì bằng đọc tác phẩm
mới xuất bản của Đức TGM Rino Fisichella, vị chủ tịch đầu tiên của Hội Đồng
Giáo Tông Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá[16]:
"The New Evangelization- Responding to The Challenge of Indifference"
hoặc bài của Đức Ông Giuse Đinh Đức Đạo và Lm. Giuse Phan Tấn Thành trong Bản
tin Hiệp Thông nói trên[17]. Dưới đây chúng tôi chỉ lưu
ý vắn tắt về nội dung và nhận xét về những cách phiên dịch của từ New
Evangelization trong tiếng Việt mà thôi.
5.2. Năm 1983, tại Haiti, khi nói chuyện với Hội Đồng Giám Mục Châu
Mỹ La Tinh về tầm quan trọng của công cuộc Phúc Âm hoá tại các nước này, ĐTC
Gioan Phaolô II nói: “Việc kỷ niệm nửa
thiên niên kỷ Phúc Âm hoá sẽ có đầy đủ ý nghĩa của nó nếu chư huynh trong tư
cách giám mục biết dấn thân cùng với hàng linh mục và giáo dân của mình, một dấn
thân không phải để tái Phúc Âm hoá mà là để tân Phúc Âm hoá. Nó sẽ mới
trong nhiệt tâm, mới trong phương pháp và mới trong cách truyền
đạt của nó. Về phương diện này, cho phép tôi uỷ thác nơi chư huynh, gói
ghém trong ít lời, các khía cạnh đối với tôi xem ra là căn bản nhất đối với việc
tân Phúc Âm hoá”[18]
Như vậy, tân Phúc Âm hoá nghĩa là
ta công bố Phúc Âm với một nhiệt tâm mới, một ngôn ngữ mới, một
ngôn ngữ dễ hiểu trong ngữ cảnh văn hoá dị biệt, và một phương pháp mới
có khả năng thông truyền ý nghĩa sâu sắc nhất của sứ điệp, ý nghĩa bất biến
của nó. Về mặt từ ngữ, chúng ta có thể giải thích: Tân Phúc Âm hoá là việc (hay cuộc, công cuộc) Phúc Âm hoá
mới. Mới, không phải ở bản chất hay nội dung của Phúc Âm, mà là "mới trong
sự nhiệt thành, trong phương pháp và trong lối diễn tả"[19].
Hiện nay, bên cạnh "tân Phúc Âm hoá", thuật từ
“New Evangelization” còn được dịch là: tái
truyền giảng Tin Mừng[20],
cách tân truyền giảng Tin Mừng[21], việc tân truyền bá
Phúc Âm hoá[22], cuộc loan báo Tin mừng mới[23].
6. Re-Evangelization: Tái Phúc Âm hoá.
Chữ tái trong tiếng Việt (cũng như iterata
trong La ngữ và tiếp đầu ngữ Re-
trong tiếng Anh, Pháp) có nghĩa là lặp lại,
trở lại lần nữa, nhưng (1) Nó có thể chỉ việc lặp lại một hành động, như
trong trường hợp tái diễn một vở kịch
(re-enacting); (2) Nó cũng có thể diễn tả việc trở về với giai đoạn trước
đó, như tái thủ đắc (re-acquiring); (3) Nó cũng có nghĩa đem
lại một giá trị mới cho một hành động có trước như tái sinh (re-generation)... Nếu hiểu chữ tái theo nghĩa thứ 3 này, thì "tái Phúc Âm hoá" sẽ bao
hàm ý tưởng về một sự thay đổi, đổi mới trong nội dung của hành động "Phúc
Âm hoá". Có thể đó là lý do mà ĐTC Gioan Phaolô II từ sau thông điệp
Redemptoris Missio (1990) đã không sử dụng thuật từ Re-Evangelization nữa, và Đức
TGM Rino Fisichella, chủ tịch Hội Đồng Giáo Tông Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá,
khuyên chúng ta nên tránh kiểu nói này.[24]
7. Renewed Evangelization: Cách tân truyền
giảng Phúc Âm.
Trong tiếng Anh có những kiểu
nói: The Proclamation of Salvation, The
Proclamation of the Gospel, The Preaching of the Gospel... hay Renewed Evangelization, Renewed Integral
Evangelization, The Renewed Mission of the Church... là những cách diễn tả
ý niệm Evangelization hoặc New Evangelization ở mặt nào đó, không toàn diện và
nhất là không thể thay thế cho những thuật từ này[25].
Cũng thế, trong tiếng Việt cũng có những kiểu nói: Loan truyền Ơn cứu độ, rao giảng Tin Mừng, truyền bá Phúc Âm... hay
cách tân việc truyền giảng Tin Mừng, canh
tân Phúc Âm hoá toàn diện, canh tân sứ mạng của Hội Thánh... Chúng tôi thiết
nghĩ có thể sử dụng trong những hoàn cảnh để trình bày, diễn giải... chứ không
thể dùng như những thuật từ chuyên môn định danh cho ý niệm Evangelization hoặc
New Evangelization.
Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn[26], tác giả bộ "Danh từ
Khoa học" và rất nhiều công trình khoa học có giá trị lớn để làm mẫu mực
cho việc giáo dục và quốc học nước ta, để tạo một danh từ chuyên môn cần phải
tuân thủ tám điều kiện và ba phương sách như sau: Năm điều kiện về nội dung:
(1) Mỗi ý phải có một danh từ để gọi; (2) Danh từ ấy phải riêng về ý ấy; (3) Một
ý đừng có nhiều danh từ; (4) Danh từ phải làm cho dễ nhớ đến ý; (5) Danh từ
trong các môn phải thành một toàn thể duy nhất và liên lạc. Ba điều kiện về
hình thức: Danh từ (6) phải gọn; (7) phải có âm hưởng Việt Nam; và (8) phải
đặt theo lối đặt các tiếng thường và phải có tính cách quốc gia. Ba phương
sách: (1) Dùng tiếng thông thường; (2) Phiên âm; (3) Lấy gốc chữ Nho.
Giáo sư Hãn còn viết: "Nói thế không phải rằng ta đặt một chữ nào
cũng phải theo cho đủ các điều kiện trên kia. Những điều kiện trên có khi nó
thành ra mâu thuẫn, nên trong sự định đoạt, ta lại xem cách nào tiện hơn mà chọn.
(...) Nói tóm lại, một danh từ khoa học cốt
có những đức tính sau đây: đủ rành mạch, dễ nhớ, gọn. Chớ cách đặt thì không
duy nhất được. Thế cũng không ngại gì, quí hồ tiếng đặt có âm hưởng Việt Nam và
có tính cách Việt Nam là được".
Các linh mục tiền bối trong Ban
giáo sư Trường Thần học Bùi Chu khi xưa cũng đã đồng ý tuân thủ những điều kiện
và phương sách này khi biên soạn quyển "Danh từ Thần Học và Triết Học".
Nhờ đó Hội Thánh tại Việt Nam đã có được bộ thuật ngữ làm nền tảng cho việc học
tập và giảng dạy thần học và triết học bằng Việt ngữ hơn nửa thế kỷ qua.
Vì vậy, trên phương diện học thuật,
chúng tôi nhận thấy cụm từ "tân Phúc Âm hoá" có thể dùng như một thuật
từ để định danh cho ý niệm "New Evangelization". Còn các cách dịch: việc tân truyền bá Phúc Âm hoá, cuộc loan
báo Tin mừng mới, cách tân truyền giảng Tin Mừng, tái truyền giảng Tin Mừng... mang
tính định nghĩa hơn là định danh.
8. Kết luận.
Việt Nam chưa có hàn lâm viện,
không ai có thể bảo ai phải làm thế nào. Nên chăng, Hội Thánh tại Việt Nam theo
gương các bậc tiền bối, đi bước đầu làm trong sáng lại tiếng Việt.
Để tiếp tục đóng góp vào bộ thuật
ngữ quý báu này, chúng ta cần cẩn trọng khi chọn lựa từ ngữ để dịch những khái
niệm mới trong các khoa ngành của Hội Thánh.
WHĐ (23.02.2021)
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 92 (Tháng 01 & 02 năm 2016)
[1] “Nova
evangelizatio ad christianam fidem tradendam - The New Evangelization for the
Transmission of the Christian Faith”.
[2] John L.
Allen Jr.: VATICAN TRIES TO FLESH OUT 'NEW EVANGELIZATION', xem: https://www.ncronline.org/blogs/ncr-today/vatican-tries-flesh-out-new-evangelization
[6] Lm. Giuse
Phan Tấn Thành, OP., “LOAN BÁO TIN MỪNG, TÁI LOAN BÁO TIN MỪNG, LOAN BÁO TIN MỪNG
CÁCH MỚI MẺ: NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ” - Hiệp Thông, Số 73, tháng 11&12 năm
2012, tr. 52-79.
[7] Các văn
kiện của Công Đồng Vaticanô II đã sử dụng danh từ Evangelizatio 31 lần, đặc biệt
trong Sắc Lệnh Truyền Giáo 21 lần. Tuy bản dịch tiếng Việt của Giáo Hoàng Học
Viện Thánh Piô X (Đà Lạt, 1970) dịch là “truyền bá Phúc Âm” nhưng cũng đã thấy
có vài nơi sử dụng thuật từ “Phúc Âm hoá” (tr. 348, 796).
[9] Nguyên vị
tiềm tàng là những yếu tố gốc Hán có ý nghĩa phản ánh gián tiếp hiện thực. Theo
cách nói của Gs. Hồ Lê: CẤU TẠO TỪ TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI, Nxb KHXH, TP.HCM, 2003,
tr.154.
[10] Sáu quy tắc
tạo nên chữ Hán gọi là Lục thư: (1) Tượng hình. (2) Chỉ sự. (3) Hội ý. (4) Hình
thinh. (5) Chuyển chú. (6) Giả tá.
[12] Nếu đặt vấn
đề: Đối với người lương thì sao? - Thưa, thì phải tìm hiểu mới biết được. Vì đã
là thuật từ thì dù thuộc ngành nào, bộ môn nào, thì cũng phải “học nhi tri
chi”. Tương tự như các thuật từ “Mẹ Thiên Chúa” hay “bất khả ngộ” vv...
[14]
Neo-Evangelism: Một phong trào có từ năm 1940, phát nguồn từ Phái Phúc Âm
(Evangelicals: Phong trào Tin Lành), với các đặc điểm là tập trung vào nỗ lực
truyền bá Phúc Âm, trải nghiệm qui đạo, lời chứng về đức tin cá nhân, và có quan
điểm truyền thống về Thánh Kinh. Phái này tin rằng Phúc Âm cần phải được tái khẳng
định và tái công bố trong một cung cách mới. Vì vậy, xuất hiện thuật ngữ Neo -
mới hoặc được làm cho mới. Danh xưng Neo-Evangelism do Harold Ockenga đặt ra
năm 1947, mà anh em Tin Lành Việt Nam dịch là “Phong trào Tin Lành Hiện đại”, để
phân biệt với giáo phái Căn Bản (Fundamentalists: Phong trào Nền Tảng) mới được
hình thành vào đầu thế kỷ 20. Ngày nay, với ảnh hưởng rộng lớn trong cộng đồng
Tin Lành, Phái Tân Phúc Âm được xem là đồng nghĩa với Phái Phúc Âm, đại diện
cho những Kitô hữu liên kết đức tin của mình với các giá trị truyền thống của
Giáo Hội tiên khởi.
[16]
Archbishop Rino Fisichella: THE NEW EVANGELIZATION- RESPONDING TO THE CHALLENGE
OF INDIFFERENCE, Gracewing Publishing, 2012.
[17] Xem bài của
Đức Ông Giuse Đinh Đức Đạo (tr. 29-51) và Lm. Giuse Phan Tấn Thành (tr. 52-79)
trong Hiệp Thông, Số 73, tháng 11&12 năm 2012.
[18] John Paul
II, Address to CELAM (Opening Address of the Sixth General Assembly of CELAM, 9
March 1983, Port-au-Prince, Haiti), L’Osservatore Romano English Edition 16/780
(18 April 1983), no. 9.
[20] Lm. G. Trần
Đức Anh, OP. : SỨ ĐIỆP THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC lần thứ XIII Gởi CỘNG ĐỒNG DÂN
CHÚA (http://gpbanmethuot.vn); ĐTC MỜI GỌI CÁC TÍN HỮU TÁI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG
(http://tonggiaophansaigon.com/baiviet-tintuc/20111017/12964) hay VAI TRÒ CỦA BÍ TÍCH
HOÀ GIẢI TRONG VIỆC TÁI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG
(http://tonggiaophansaigon.com/baiviet-tintuc/20120310/15017); đối chiếu với: POPE:
CONFESSION A KEY PART OF EVANGELIZATION
(http://www.zenit.org/article-34434?l=english)
[21] Lm. Px.
Nguyễn Hùng Oánh: TÂN PHÚC ÂM HOÁ: CÁCH NÓI NGUY HẠI CHO ĐỨC TIN???
(http://titocovn.com/article/20121208/36320)
[23] Sr,
Therese Tran, MTG-DL: CÔNG CUỘC LOAN BÁO TIN MỪNG MỚI - XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH
TÌNH THƯƠNG, xem: http://www.simonhoadalat.com;
FX. Trần Kim Ngọc, OP.: LOAN BÁO TIN MỪNG? xem: http://www.daminhvn.net/trang-chu/3050-suc-manh-nao-de-loan-bao-tin-mung.html
[25] Msgr.
Manny Gabriel: THE PURSUIT OF THE BEC DIRECTION IN THE ARCHDIOCESE OF MANILA:
IN SEARCH OF SHARED FRAMEWORK: "New Evangelization" is not just
"renewed evangelization", or "integral evangelization" or
both "renewed, integral evangelization". (Xem: http://frpicx.
tripod.com/refl-gabriel.htm)
[26] Hoàng
Xuân Hãn, DANH TỪ KHOA HỌC, Vĩnh Bảo, Sài Gòn, 1948.