CHƯƠNG TRÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA
Ngày 06.08
BÀI 25: CHÚA HIỂN DUNG HAY BIẾN HÌNH?
Lm. I-nha-xi-ô Hồ Văn Xuân, Tổng Đại Diện Gp. Sài Gòn
và Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng
WGPSG
(03.08.2023) – Tin Mừng Chúa nhật tuần
này trình thuật việc Đức Giê-su Hiển Dung trước mắt các môn đệ. Đây là sự tỏ
bày thần tính vinh hiển của Đức Giê-su nhằm củng cố niềm tin của các môn đệ trước
cuộc thương khó của Người.
Trong bài học hỏi
này, chúng ta sẽ tìm hiểu sự kiện “hiển dung” và ý nghĩa cuộc
hiển dung của Đức Giê-su, nhưng trước tiên chúng ta cùng tìm hiểu một vài khái
niệm liên quan như “thần hiện” và “hiển linh”.
1. Thần hiện
Kinh Thánh nhiều lần
kể lại việc Thiên Chúa tỏ bày sự hiện diện vinh quang của Người trước mắt con
người, được gọi là những cuộc thần hiện của Thiên Chúa.
- gốc
bởi từ Hy-lạp thê-os - θεός (thần, Thiên Chúa)
và phai-no - φαίνω (xuất hiện) để chỉ sự xuất
hiện của Thiên Chúa qua những dấu chỉ thể lý mà người ta có thể nhận
biết bằng giác quan. Ví dụ như việc Thiên Chúa đến thăm ông Áp-ra-ham tại cây sồi
Mam-rê qua hình hài của ba vị lữ khách (x. St 18, 1-3), hoặc hình ảnh bụi gai rực
cháy và tiếng Thiên Chúa phán với ông Mô-sê trong sa mạc (x. Xh 3,2), hay việc
ngôn sứ Ê-li-a đã gặp Chúa trong tiếng gió hiu hiu trên núi Khô-rếp (x. 1 V
19,13).
Thần hiện là việc Thiên Chúa tỏ mình cho con người thấy được và nghe được
Thần hiện thường
để chỉ những cuộc tỏ hiện uy nghi và vinh hiển của Thiên Chúa trong Cựu Ước, ví
dụ cuộc thần hiện của Thiên Chúa trên núi Xi-nai khi ban bố Mười Điều Răn cho
dân Ít-ra-en (x. Xh 19,16-25).
Biến cố Đức Giê-su
chịu phép rửa trong sông Gio-đan và cuộc hiển dung của Người trên núi cũng là
những cuộc thần hiện của Thiên Chúa, trong đó người ta nghe thấy tiếng Chúa Cha
phán : “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17 ;
17,5).
Kinh Thánh không
dùng thuật ngữ “thần hiện” (Θεοφάνια) để chỉ việc Thiên Chúa tỏ hiện cho con
người, mà dùng động từ ra-ah (רָאָה)
trong tiếng Híp-ri hay hô-ra-o (ὁραω) trong
tiếng Hy-lạp, có nghĩa là “thấy”, “nhìn thấy” ở dạng thụ động
nhưng mang nghĩa chủ động là “để cho thấy”, “cho nhìn thấy”, nghĩa
là “xuất hiện”, “tỏ hiện” (x. St 17,1 ; Xh 3,2.16 ;
Tl 6,12 ; 1 V 3,5 ; Lc 24,34 ; Cv 13,31 ; 1 Cr 15,5 v.v.).
Tân Ước còn dùng động
từ phai-no (φαίνω) có nghĩa là “chiếu sáng”,
cũng ở dạng thụ động mang nghĩa chủ động là “xuất hiện”, “hiện ra”. Còn
có động từ pha-ne-rô-o (φανερόω) có nghĩa
là “cho thấy”, “tỏ cho thấy”, cũng được dùng ở dạng thụ động với
nghĩa là “tỏ mình ra” hay “biểu lộ”, ví dụ như những
lần hiện ra của Chúa Ki-tô Phục Sinh (x. Mc 16,12.14 ; Ga 21,1.14).
2. Hiển linh
Hiển linh (epiphania)
có gốc từ Hy-lạp ê-pi-pha-nêi-a (ἐπιφάνεια) có nghĩa là biểu
lộ, xuất hiện, thường để diễn tả một mặc khải thần
linh của Thiên Chúa, hay việc Thiên Chúa tỏ mình và can
thiệp đầy quyền năng,
Tân Ước dùng thuật
từ hiển linh (epiphania) để chỉ việc Đức Ki-tô xuất hiện lần
thứ nhất trong cuộc nhập thể làm người : “Đấng cứu độ chúng ta là Đức
Giê-su Ki-tô đã xuất hiện” (2 Tm 1,10).
Hiển linh cũng
để nói đến việc Đức Ki-tô xuất hiện lần thứ hai trong cuộc
quang lâm vinh hiển của Người : “Chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng
mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng
ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2,13).
“Hãy tuân giữ điều
răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, xuất hiện” (1 Tm 6,14).
Cách đặc biệt,
Thiên Chúa hiển linh trong biến cố Giáng Sinh khi tỏ mình ra cho dân ngoại qua
các đạo sĩ đến từ phương Đông (x. Mt 2,1-12). Tuy bản văn trình thuật sự kiện
này không sử dụng thuật từ hiển linh (epiphania), nhưng ngày lễ
kỷ niệm biến cố này lại được gọi là lễ Hiển Linh.
3. Hiển dung
Thuật từ
la-tinh transfiguratio được dùng để diễn tả biến cố Hiển Dung
của Đức Giê-su trên núi trước mắt ba môn đệ thân tín của Người là Phê-rô,
Gia-cô-bê và Gio-an. Biến cố Hiển Dung được coi là sự khẳng định thần linh
về căn tính của Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, khi Người tỏ bày dung mạo vinh
quang của Người trước mắt các môn đệ.
“Đức Giê-su đem các
ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các
ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình
dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời,
và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,1-2).
Tác giả Mát-thêu
cũng như Mác-cô (x. Mc 9,2) đã dùng động từ Hy-lạp mê-ta-mor-phô-o (μεταμορφόω), có
nghĩa là biến đổi hình dạng hay biến đổi dung mạo để
diễn tả sự kiện Hiển Dung.
Dựa theo ý nghĩa của
động từ mê-ta-mor-phô-o mà đã có cách gọi theo la-tinh
là transfiguratio, có nghĩa là biến hình.
Tác giả Lu-ca không
dùng kiểu nói “biến đổi hình dạng” như Mát-thêu và Mác-cô mà nói rằng : “dung
mạo Người bỗng đổi khác” (Lc 9,29), cách diễn tả này gần với ý nghĩa của sự hiển
dung.
Sự biến đổi thần
thiêng này nơi Đức Giê-su đã làm cho “dung nhan Người chói lọi như mặt trời,
và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2), hay “dung mạo Người
bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà” (Lc 9,29), vì thế biến
cố này là cuộc hiển dung của thần tính nơi Đức Giê-su.
Sách Xuất hành kể lại
việc ông Mô-sê lên núi gặp Chúa để lãnh nhận Mười Điều Răn và cuộc gặp gỡ này
đã làm cho dung mạo ông trở nên sáng chói :
“Ông Mô-sê từ trên
núi Xi-nai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Mô-sê không
biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa. Khi ông A-ha-ron
và toàn thể con cái Ít-ra-en thấy ông Mô-sê, thì này đây da mặt ông sáng chói,
nên họ sợ không dám lại gần ông. Con cái Ít-ra-en nhìn mặt ông Mô-sê thấy da mặt
ông sáng chói ; ông Mô-sê lại lấy khăn che mặt, cho đến khi vào đàm đạo với
Thiên Chúa” 0.
Đây không phải là sự
hiển dung của ông Mô-sê, vì ông không tự mình biến đổi hình dạng nên chói sáng
như Đức Giê-su hiển dung. Đó chỉ là sự chiếu toả vinh quang Thiên Chúa còn đọng
lại trên gương mặt ông Mô-sê.
Nhận định về sự kiện
này, thánh Phao-lô dạy rằng : “Nếu việc phục vụ Lề Luật mà được vinh quang
đến nỗi dân Ít-ra-en không thể nhìn mặt ông Mô-sê được, vì mặt ông chói lọi
vinh quang, thì việc phục vụ Thần Khí lại không được vinh quang hơn sao ?
Vì việc phục vụ án chết mà còn được vinh quang như thế, thì việc phục vụ đức
công chính lại chẳng vinh quang hơn lắm sao ? So với vinh quang tuyệt vời
này, thì vinh quang xưa kia chẳng vinh quang gì” (2 Cr 3,7-10).
4. Ý nghĩa của
biến cố Hiển Dung
Sách Giáo lý Hội
Thánh Công Giáo gọi biến cố Hiển Dung là sự “nếm trước Nước Trời”
(GLHTCG, 554-556) :
Từ ngày ông Phê-rô
tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giê-su “bắt
đầu tỏ cho các môn đệ biết, Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ
…, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Ông Phê-rô khước từ
lời loan báo đó, các môn đệ khác cũng không hiểu gì hơn. Chính
trong bối cảnh này, đã xảy ra biến cố kỳ diệu là cuộc Hiển Dung của Chúa Giê-su
trên núi cao, trước mặt ba nhân chứng do Người lựa chọn, là các ông Phê-rô,
Gia-cô-bê và Gio-an. Dung mạo và y phục của Chúa Giê-su trở nên chói sáng, ông
Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người, “nói về cuộc xuất hành Người sắp
hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,31). Một đám mây bao phủ các Ngài và có tiếng
từ trời phán : “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe
lời Người” (Lc 9,35).
Chúa Giê-su tỏ lộ
vinh quang thần linh của mình trong chốc lát, và như vậy, Người xác nhận lời
tuyên xưng của ông Phê-rô. Người cũng cho thấy rằng, để “vào trong vinh quang của
Người” (Lc 24,26), Người phải đi qua thập giá tại Giê-ru-sa-lem. “Cả Ba Ngôi
cùng xuất hiện, Chúa Cha trong tiếng nói, Chúa Con trong nhân tính của mình,
Chúa Thánh Thần trong đám mây sáng chói” :
Hiển Dung là “bí
tích của cuộc tái sinh lần thứ hai” : đó là sự phục sinh riêng của chúng ta.
Ngay từ bây giờ, chúng ta được tham dự vào sự phục sinh của Chúa, nhờ Chúa
Thánh Thần, Đấng hoạt động trong các bí tích của Thân Thể Chúa Ki-tô. Biến cố
Hiển Dung cho chúng ta được nếm trước việc ngự đến trong vinh quang của Chúa
Ki-tô, Đấng “sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh
hiển của Người” (Pl 3,21). Nhưng biến cố ấy cũng nhắc nhở chúng ta rằng :
“Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22).
Cầu nguyện
Chúa là nguồn
ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn sợ người
nào ?
Chúa là thành
luỹ bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa ?
Một điều tôi kiếm
tôi xin,
là luôn được ở
trong đền Chúa tôi
mọi ngày trong suốt
cuộc đời,
để chiêm ngưỡng
Chúa tuyệt vời cao sang,
ngắm xem thánh điện
huy hoàng.
Lạy Chúa, cúi xin
Ngài nghe tiếng con kêu,
xin thương tình đáp
lại.
Nghĩ về Ngài, lòng
con tự nhủ :
hãy tìm kiếm Thánh
Nhan.
Lạy Chúa, con tìm
thánh nhan Ngài,
xin Ngài đừng ẩn mặt.
Tôi vững vàng tin
tưởng
sẽ được thấy ân lộc
Chúa ban
trong cõi đất dành
cho kẻ sống.
Hãy cậy trông vào
Chúa,
mạnh bạo lên, can đảm
lên nào !
Hãy cậy trông vào
Chúa (Tv 27,1.4.7-9a.13-14).
Nguồn: tgpsaigon.net